Kết luận
Bài báo đã thực hiện nghiên cứu so sánh và
chỉ ra triển vọng phát triển du lịch biển, đảo
Việt Nam gắn liền với việc phát triển cơ sở hạ
tầng. Trọng tâm là các khu nghỉ dưỡng trên
đảo, nơi có rất nhiều thế mạnh để thu hút khách
du lịch nước ngoài, nhưng vấp phải những khó
khăn trong quá trình xây dựng. Để khắc phục
những khó khăn đó, tác giả đã chỉ ra sự cần
thiết của việc sử dụng các tàu chuyên dụng với
khả năng vận chuyển các thiết bị hạng nặng và
đổ bộ trực tiếp lên các bờ biển. Ngoài những
đặc điểm cấu trúc thông thường, loại tàu
chuyên dụng này được thiết kế để đảm bảo an
toàn cho quá trình đổ bộ và thực hiện các hoạt
động bốc dỡ hàng hóa khi ngồi trên cạn.
Nghiên cứu so sánh Quy chuẩn thiết kế của
các Đăng kiểm RMRS, DNV-GL và BV đối
với loại tàu chuyên dụng này chỉ ra một số ưu
điểm Đăng kiểm RMRS so với các đăng kiểm
khác. Hiện tại Đăng kiểm Việt Nam chưa có
yêu cầu kỹ thuật bổ sung dành cho loại tàu
chuyên dụng này.
Những kinh nghiệm trong việc khai thác loại
tàu chuyên dụng trên của Nga có thể áp dụng
đối với Việt Nam, tuy nhiên cần tính đến điều
kiện của vùng khai thác khi áp dụng.
10 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 11/01/2022 | Lượt xem: 286 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tàu chuyên dụng và định hướng phát triển cơ sở hạ tầng du lịch biển Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Phạm Trung Hiệp, Kulesh V.A / Tạp chí Khoa học và Công nghệ Đại học Duy Tân 05(42) (2020) 60-69 60
Tàu chuyên dụng và định hướng phát triển cơ sở hạ tầng
du lịch biển Việt Nam
Specialized-vessel and the development orientation toward
the Vietnam marine tourism infrastructure
Phạm Trung Hiệp*, Kulesh Victor Anatolevich
Pham Trung Hiep*, Kulesh Victor Anatolevich
Khoa Đóng tàu và Kỹ thuật Đại dương, Trường Đại học Tổng hợp Liên Bang Viễn Đông,
Vla-đi-vô-xtốc, Liên Bang Nga
Department of Shipbuilding and Ocean Engineering, Far Eastern Federal University,
Vladivostok, Russian Federation
(Ngày nhận bài: 12/8/2020, ngày phản biện xong: 27/8/2020, ngày chấp nhận đăng: 25/9/2020)
Tóm tắt
Vị trí địa lý và điều kiện khí hậu của Việt Nam có ý nghĩa to lớn đối với việc phát triển ngành du lịch biển. Mục tiêu
của bài báo là chỉ ra những vấn đề và triển vọng phát triển ngành du lịch biển liên quan tới việc phát triển cở sở hạ tầng
và đội tàu chuyên dụng tại Việt Nam.
Để đạt được mục tiêu đề ra, trong bài báo, nhóm tác giả đã tiến hành so sánh số liệu thống kê ngành du lịch giữa Việt
Nam và Thái Lan; phân tích định hướng sử dụng tàu chuyên dụng để chuyên chở các thiết bị tham gia vào quá trình xây
dựng cơ sở hạ tầng và phục vụ các khu nghỉ dưỡng trên đảo; phân tích và so sánh các yêu cầu kỹ thuật của Đăng kiểm
Nga, Nauy và Pháp đối với loại tàu chuyên dụng này; so sánh điều kiện sóng gió của vùng biển Việt Nam và vùng biển
Okhotsk, Nga.
Từ khóa: tàu chuyên dụng; du lịch; cơ sở hạ tầng biển; khu nghỉ dưỡng trên đảo; ngồi trên cạn.
Abstract
Vietnam's geographic location and climate conditions have great significance for the development of the marine tourism
industry. The purpose of the paper is to point out the problems and development prospects of Vietnam's marine tourism
industry in relation to infrastructure development and specialized fleet in Vietnam.
In order to achieve these goals, the article compared tourism statistics between Vietnam and Thailand; analyzed the
orientation of using specialized ships to transport equipment involved in the process of building infrastructure and
serving resorts on the island; analyzed and compared the standards of the Russian Maritime Register of Shipping
(RMRS), Det Norske Veritas and Germanischer Lloyd (DNV-GL) and Bureau Veritas (BV) for the specialized-vessel
type; compared the wind and wave conditions of the Vietnam’s sea area and the sea of Okhotsk, Russia.
Keywords: specialized-vessel, tourism, marine infrastructure, island resort, grounding.
* Corresponding Author: phiepast07@gmail.com
05(42) (2020) 60-69
Phạm Trung Hiệp, Kulesh V.A / Tạp chí Khoa học và Công nghệ Đại học Duy Tân 05(42) (2020) 60-69 61
1. Đặt vấn đề
Việt Nam là quốc gia nằm trọn trong vùng
khí hậu nhiệt đới gió mùa, có đường bờ biển
dài trên 3.260km, diện tích vùng đặc quyền
kinh tế biển rộng hơn 1 triệu km2 với gần 3.000
đảo ven bờ và hai quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa. Biển Việt Nam chứa đựng nguồn
tài nguyên phong phú và đa dạng cùng nhiều
vũng, vịnh, bãi tắm đẹp [8]. Đây là tiềm năng
và thế mạnh để phát triển du lịch biển đảo.
Theo Nghị quyết hội nghị lần VIII của Ban
Chấp hành Trung ương Đảng về “Chiến lược
phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam năm
2030, tầm nhìn đến năm 2045”, một trong
những chủ trương phát triển kinh tế biển nói
chung và du lịch biển nói riêng là chú trọng đầu
tư cở sở hạ tầng du lịch [7].
Phát triển các khu nghỉ dưỡng trên đảo
không chỉ mang lại nguồn lợi kinh tế cho đất
nước, mà còn góp phần củng cố cơ sở hạ tầng
và khẳng định chủ quyền của Việt Nam trên các
đảo. Tuy vậy, quá trình xây dựng và vận hành
chúng gặp phải những khó khăn khi cơ sở vật
chất trên đảo còn thiếu thốn, việc vận chuyển
và cung ứng cho các đảo gặp trở ngại vì các
đảo ở tách biệt với đất liền. Vì vậy, phát triển
đội tàu dân sự chuyên dụng có khả năng vận
chuyển và thực hiện các hoạt động bốc dỡ hàng
hóa khi tàu ngồi trên cạn trở nên cần thiết.
Những mô hình tàu này, đang được sử dụng ở
các nước như Nga, Pháp, Nauy, Trung Quốc và
cả Thái Lan (Hình 1).
Hình 1. Tàu chuyên dụng được sử dụng để phục vụ
quá trình xây dựng khu nghỉ dưỡng ở Thái Lan
2. Nội dung
2.1. So sánh số liệu thống kê ngành du lịch
giữa Việt Nam và Thái Lan
Mặc dù có nhiều nét tương đồng về văn hóa
và thiên nhiên, nhưng Việt Nam hiện đang
đứng sau Thái Lan về năng lực cạnh tranh du
lịch. Để làm nổi bật những vấn đề và triển vọng
phát triển ngành du lịch Việt Nam, ở phần đầu,
bài báo sẽ tiến hành so sánh các số liệu thống
kê giữa Việt Nam và Thái Lan (Bảng 1).
Diện tích lãnh thổ và chiều dài đường bờ
biển của Việt Nam nhỏ hơn Thái Lan, nhưng
Việt Nam lại có số lượng đảo vượt trội, gấp hơn
10 lần so với Thái Lan. Nhiệt độ trung bình
năm ở Việt Nam thấp hơn khoảng 3 - 4°C.
Việt Nam có dân số và mật độ dân số gấp
1,4 lần và 2,3 lần Thái Lan. Đây có thể coi là
một trong những thế mạnh của Việt Nam về
nguồn lực con người [2].
Hiện tại ở khu vực Đông Nam Á, Thái Lan
đang dẫn đầu về thu hút lượng khách du lịch
quốc tế. Tính riêng trong năm 2018, lượng
khách du lịch tới Thái Lan gấp 2,4 lần so với
Việt Nam, kéo theo đó, doanh thu từ ngành du
lịch của Thái Lan gấp 3,9 lần Việt Nam. Tỉ lệ
đóng góp vào GDP của ngành du lịch Thái Lan
đạt 19,8%, gấp 2,4 lần Việt Nam [13].
Phạm Trung Hiệp, Kulesh V.A / Tạp chí Khoa học và Công nghệ Đại học Duy Tân 05(42) (2020) 60-69 62
Bảng 1. Chỉ số ngành du lịch Việt Nam và Thái Lan
Chỉ số Việt Nam Thái Lan
Diện tích lãnh thổ, nghìn km2 310 511
Dân số, triệu người 98 69
Mật độ dân số, người/km2 316 135
Chiều dài đường bờ biển, nghìn km2 3,26 3,22
Số lượng đảo 2773 250
Nhiệt độ không khí trung bình năm, °C 22-25 25-29
Lượng khách du lịch năm 2018, triệu người 15,8 38,3
Tỉ lệ tăng lượng khách giai đoạn 2015 - 2018, % 96 28
Doanh thu của ngành du lịch năm 2018, tỉ USD 28,2 109,5
Tỉ lệ tăng doanh thu của ngành du lịch giai đoạn 2015 - 2018, % 80 38
Số lượng phòng, nghìn phòng 510 743
Tỉ trọng doanh thu ngành du lịch trong ngân sách nhà nước năm 2018, % 8,4 19,8
Tỉ lệ tăng tỉ trọng giai đoạn 2015 - 2018, % +32,5 -8,3
Tuy còn hạn chế trong thu hút lượng khách
quốc tế, nhưng ngành du lịch Việt Nam có tốc
độ tăng trưởng vượt xa Thái Lan. Cụ thể, số
lượng khách quốc tế đến Việt Nam giai đoạn
2015 - 2018 đã tăng 96% và gấp 3,4 lần mức
tăng của Thái Lan.
Ngoài ra, tốc độ tăng tỉ lệ đóng góp GDP
của ngành du lịch Việt Nam tăng 32%, trong
khi đó Thái Lan giảm 8,3% [13].
Dễ nhận thấy, chỗ ở cho khách du lịch là
một trong những yếu tố ảnh hưởng đến sự thu
hút và tăng doanh thu của ngành du lịch. Tính
đến năm 2017, Việt Nam có khoảng 510 nghìn
phòng, trong khi đó số lượng phòng của Thái
Lan là 743 nghìn, gấp 1,5 lần Việt Nam [9][13].
Hiện nay, du lịch biển, đảo đang là loại hình
du lịch chủ đạo thu hút khoảng 70% tổng khách
du lịch và góp phần quan trọng đưa du lịch trở
thành ngành kinh tế mũi nhọn của cả nước [8].
Trên thế giới, ở các nước phát triển du lịch
biển đảo như Tây Ban Nha, Mỹ, Autralia, Thái
Lan, việc khai thác tiềm năng du lịch trên các
đảo gắn liền với phát triển những khu nghỉ
dưỡng (bao gồm: khách sạn, hồ bơi nhân tạo,
bãi biển nhân tạo, khu vui chơi giải trí, v.v...)
có sức hút mạnh mẽ đối với khách du lịch và
mang lại hiệu quả kinh tế cao [12].
Hình 2. Tàu chuyên dụng đang vận chuyển máy cẩu
lên bờ
Tuy nhiên, việc xây dựng cơ sở hạ tầng trên
các đảo hiện nay gặp rất nhiều khó khăn. Một
trong những vấn đề được đặt ra là trong quá
trình xây dựng các khu nghỉ dưỡng cần có sự
tham gia của các thiết bị chuyên dụng như máy
kéo, máy xúc, máy ủi, máy trộn bê tông và xe
tải. Quá trình vận chuyển các thiết bị này ra đảo
gặp phải những khó khăn khi hạ tầng cơ sở trên
các đảo (cầu cảng) không đáp ứng việc neo đậu
và bốc dỡ. Việc xây dựng các bến cố định chỉ
hợp lý về mặt kinh tế đối với các đảo lớn, mà
phần lớn các đảo của Việt Nam có diện tích nhỏ
Phạm Trung Hiệp, Kulesh V.A / Tạp chí Khoa học và Công nghệ Đại học Duy Tân 05(42) (2020) 60-69 63
hơn 0,5 km2 [5]. Vậy nên, phát triển và khai
thác đội tàu chuyên dụng nhằm phục vụ quá
trình vận chuyển thiết bị lên các đảo là cần thiết
và hoàn toàn hợp lý (Hình 2).
2.2. Tàu chuyên dụng và những điểm đặc biệt
trong thiết kế của tàu
Lịch sử nhân loại có kinh nghiệm hàng
nghìn năm trong việc vận chuyển những vật có
khối lượng lớn bằng các phương tiện nổi và đưa
chúng vào bờ. Ví dụ rõ ràng nhất là việc vận
chuyển những khối đá lớn để xây dựng kim tự
tháp Ai Cập dọc theo bờ sông Nile [6].
Trong chiến tranh, biển luôn là một hướng
tiến công chiến lược. Để giành được thắng lợi
khi thực hiện những đòn tiến công từ hướng
biển, việc vận chuyển một lực lượng quân đội
đủ lớn cùng trang thiết bị trong thời gian ngắn
nhất và với độ an toàn cao nhất có ý nghĩa vô
cùng quan trọng. Cũng chính vì điều này, nhiều
phương tiện đổ bộ nói chung và tàu đổ bộ nói
riêng đã được hải quân các nước đặc biệt quan
tâm. Tàu đổ bộ là tàu chiến mặt nước chuyên
dùng để vận chuyển quân cùng trang bị kỹ thuật
lên bờ. Để thực hiện chức năng này, ngoài các
thiết bị phục vụ đi biển thông thường, tàu đổ bộ
còn được thiết kế thuận lợi cho việc xếp và đổ
quân: mớn nước nông, khoang chứa rộng, cầu
lên bờ đóng mở ngay ở mũi tàu và các phương
tiện bốc dỡ hàng.
Hình 3. Tàu đổ bộ của Nhật Bản
Hình 3 là một ví dụ về tàu đổ bộ của quân
đội Nhật Bản sử dụng trong chiến tranh thế giới
thứ 2 tại khu vực vùng biển Thái Bình Dương.
Kích thước của tàu không lớn, ngoài phần dốc
ở mũi tàu dùng để thả quân, thì phần đáy tàu có
thêm hai skeg. Ngoài chức năng bảo vệ tàu khi
tiếp xúc với bờ, hai skeg này giúp tăng cường
tính ổn định của tàu trong quá trình vận chuyển.
Hình 4. Mẫu tàu đổ bộ 106
Trong ví dụ ở hình 4, mẫu sà lan đổ bộ 106
được thiết kế với đáy đôi và mạn kép, kết cấu
hệ thống dọc làm tăng sức bền chung của tàu.
Độ dài phần phẳng của đáy tàu được thiết kế
ngắn lại, trong khi độ rộng của phần đáy này
vẫn giữ tối đa [11].
Hiện tại, xu hướng thiết kế các tàu đổ bộ
hướng tới sự đa năng, tăng tốc độ chuyển động
(tàu đệm khí), tăng khả năng sống còn và sử
dụng các hợp kim nhẹ đắt tiền. Điều này gián
tiếp khiến cho các tàu đổ bộ dần mất đi khả
năng sử dụng kép, việc sử dụng với mục đích
dân sự trở nên kém hiệu quả.
Trong thực tế, việc sử dụng các tàu để vận
chuyển hàng hóa đến các bờ biển không có bến
neo đậu đang diễn ra và trở thành một phần
không thể thiếu để duy trì và phát triển kinh tế
ở nhiều khu vực [4].
Hình 5. Đổ bộ của tàu dân sự
Hình 5 là một ví dụ cụ thể, tàu đang bốc dỡ
hàng trên bờ biển thuộc bán đảo Kamchatka,
vùng Viễn Đông, Nga. Trong ví dụ này, tàu chở
hàng không có bất cứ thiết kế đặc biệt nào để
Phạm Trung Hiệp, Kulesh V.A / Tạp chí Khoa học và Công nghệ Đại học Duy Tân 05(42) (2020) 60-69 64
bảo vệ thân tàu khi thực hiện bốc dỡ hàng hóa
hoàn toàn trên cạn.
Có thể nhận thấy, những thiết kế đặc biệt
của loại tàu chuyên dụng này tập trung hướng
tới tăng độ bền cho phần đáy tàu. Tuy nhiên,
mức độ tăng độ bền đòi hỏi phải tuân theo
những quy định bắt buộc từ phía Đăng kiểm.
2.3. Phân tích và so sánh tiêu chuẩn kỹ thuật
đối với tàu chuyên dụng của Đăng kiểm Pháp
(BV), Na uy (DNV-GL) và Nga (RMRS)
Hiện tại, Đăng kiểm Việt Nam chưa có quy
định bổ sung đối với loại tàu chuyên dụng này,
trong khi đó các tổ chức đăng kiểm của một số
nước đã xem xét và áp dụng ký hiệu cấp tàu bổ
sung đối với chúng.
Quy phạm DNV-GL áp dụng ký hiệu
NAABSA (Not Always Afloat But Safely
Aground). Yêu cầu về tăng mức độ an toàn
(tăng độ bền cho đáy tàu) khi thực hiện bốc xếp
hàng hóa trong vùng cảng chuyên dụng. Tàu
loại này có thể đứng cạn ở vùng bùn bằng
phằng, đồng nhất và không có đá cứng [3].
Quy phạm RMRS cũng áp dụng kí hiệu
tương tự cho loại tàu này. Ngoài ra, còn phân rõ
NAABSA 1, 2, 3 thể hiện mức độ chuyên môn
hóa liên quan tới độ bền của thân tàu, tính ổn
định và trang bị của tàu [10].
Đăng kiểm BV áp dụng ký hiệu
STRENGTHBOTTOM cho những tàu có khả
năng đứng cạn trên bùn mềm, bằng phẳng,
không có đá cứng trong khu vực biển lặng
(vũng, vịnh kín) [1].
Để hiểu rõ hơn về sự khác biệt về yêu cầu kỹ
thuật của ba quy phạm đăng kiểm trên đối với
tàu chuyên dụng, trong phần tiếp theo, sẽ tiến
hành so sánh các tiêu chuẩn kỹ thuật về áp lực
thiết kế và độ dày tấm tôn đáy.
2.3.1. Áp lực thiết kế
Áp lực là yếu tố quan trọng trong quá trình
thiết kế. Theo Quy chuẩn RMRS, áp lực cục bộ
pi tác dụng lên các kết cấu được xác định theo
công thức (1) [10].
10 1 4/p d Ai iN
(1)
Trong đó:
d N - mớn nước liên quan tới lượng chiếm
nước của tàu ở chế độ NAABSA;
iA - diện tích vùng đáy tàu chịu áp lực từ
mặt bùn.
Theo Quy chuẩn DNV-GL, đối với tàu có
chiều dài nhỏ hơn 90 m, áp lực tĩnh -NA sp phụ
thuộc vào lượng chiếm nước của tàu NA và
diện tích phần phẳng của đáy tàu BotA và được
tính theo công thức (2). Đối với tàu có chiều
dài nhỏ hơn 40m, áp lực ở phần mũi tàu beachp
phụ thuộc vào chiều rộng của vùng tiếp xúc với
mặt bùn contactb và được tính theo công thức (3)
[3].
- 1, 2 9,8
NA
NA s
Bot
p
A
đối với L< 90 m (2)
3, 2beach
contact
p
b
đối với L< 40 m (3)
Việc ứng dụng công thức (2) gặp phải những
khó khăn đối với trường hợp tàu có độ nghiêng
đáy lớn. Công thức (3) bỏ qua sự ảnh hưởng của
chiều dài vùng tiếp xúc giữa đáy tàu và mặt bùn.
Ngoài ra không xét đến trường hợp đổ bộ có vận
tốc đối với tàu có chiều dài lớn hơn 40m.
Quy chuẩn BV không có công thức xác định
áp lực thiết kế liên quan tới diện tích vùng tiếp
xúc với mặt bùn hoặc diện tích vùng chịu áp
lực.Trong khi đó, BV sử dụng áp suất thủy tĩnh
và áp suất do sóng để tính toán, ví dụ công thức
(4), theo nguyên tắc những đại lượng này
không liên quan tới sự tương tác với mặt bùn
khi ngồi trên cạn đối với loại tàu này [1].
2 214,9
p p
S s w wt c c s
a r R m R
L y
(4)
Trong đó:
ac – hệ số hiệu chỉnh cho tỉ lệ các chiều của
các tấm;
rc – hệ số độ cong của tấm;
s – kích thước chiều ngắn hơn của tấm, m;
Phạm Trung Hiệp, Kulesh V.A / Tạp chí Khoa học và Công nghệ Đại học Duy Tân 05(42) (2020) 60-69 65
yR – độ bền chảy của vật liệu, N/mm
2;
sp – áp suất thủy tĩnh, kN/m
2 ;
wp – áp suất sóng, kN/m
2;
R , m , 2S , 2w – các hệ số cụ thể khác.
Theo kết quả so sánh yêu cầu về áp lực tính
toán có thể đưa ra những kết luận như sau:
Quy phạm RMRS sử dụng áp suất cục bộ tại
vùng tiếp xúc với bùn đối với phần tử cụ thể
của kết cấu. Trong đó, gián tiếp tính đến sự
không đồng nhất và phân bố không đều của mặt
tiếp xúc với bùn.
DNV-GL sử dụng áp suất định mức đối với
toàn bộ vùng tiếp xúc đối với loại tàu lớn L<90
m và áp suất cục bộ ở vùng mũi tàu đối với tàu
có chiều dài L<40 m. Đồng thời, xuất hiện khó
khăn khi áp dụng tính toán đối với những tàu có
độ nghiêng đáy lớn.
BV hiện tại chưa có công thức riêng biệt xác
định áp lực thiết kế.
2.3.2. Độ dày tôn đáy
Theo Quy chuẩn RMRS, độ dày tấm tôn đáy
t được xác định theo công thức (5), trong đó có
tính đến sự phụ thuộc vào kích thước tấm đáy
ak, áp lực với hệ số dự trữ pk p và ứng suất cho
phép eHk R . Ngoài ra, có tính đến hệ số dự trữ
ăn mòn -1nm [10].
115,8
k p
p
t ak m
nk R
eH
(5)
Theo Quy chuẩn DNV-GL, độ dày tấm tôn
đáy t được xác định bằng công thức (6), trong
đó có tính đến sự phụ thuộc vào kích thước tấm
đáy pa b , áp lực P, ứng suất cho
phép a eHC R nhưng không tính tới sự ăn mòn. Dự
trữ ăn mòn được tính toán riêng và phụ thuộc
vào điều kiện khai thác của tàu [3].
0,0158 p
P
t a b
C R
a eH
(6)
Độ dày tấm tôn đáy theo BV được xác định
bằng công thức (4) không tính toán tới sự ăn mòn.
Dự trữ ăn mòn của tấm tôn ước tính 2 mm [1].
2.3.3. Độ dày tối thiểu
Độ dày tối thiểu của tấm tôn đáy được xác
định theo công thức trong Bảng 2 [1, 3, 10].
Bảng 2. Công thức xác định độ dày tối thiểu tấm tôn đáy theo các Đăng kiểm
Đăng kiểm Công thức
RMRS
min 3,1 0,12s L khi L<30
min (5,5 0,04 )s L khi L≥30
DNV-GL 1/ 21,9 0,032 4,5t Lk s
BV
1/ 21, 9 0, 032 4, 5t Lk s đối với hệ khung sườn dọc
1/ 22, 8 0, 032 4, 5t Lk s đối với hệ khung sườn ngang
Chiều dày tối thiểu không phụ thuộc vào áp
lực mà phụ thuộc vào chiều dài tàu (L). Ngoài
ra, còn phụ thuộc vào khoảng sườn (s) và hệ số
vật liệu (k) theo công thức của Đăng kiểm BV
và DNV-GL.
Yêu cầu về lượng dự trữ ăn mòn của tấm tôn
không được tính đến trong Quy chuẩn RMRS,
trong khi đó, theo Quy chuẩn DNV-GL và BV
lượng dự trữ ăn mòn lần lượt là 10% và 20%.
Ngoài ra, theo Quy chuẩn BV trong mọi trường
hợp chiều dày tối thiểu của tấm tôn không được
nhỏ hơn 8mm.
Để làm rõ sự khác biệt của ba Đăng kiểm
trên, chúng tôi đã tiến hành so sánh chiều dày
tấm tôn đáy tính theo Quy chuẩn của mỗi Đăng
kiểm và so sánh chúng với chiều dày thực tế
của các tấm tôn đáy trên các tàu mẫu hoạt động
trên vùng biển Okhotsk, Nga và có lượng
chiếm nước Δ nằm trong khoảng từ 78 tấn đến
8876 tấn (Hình 6).
Phạm Trung Hiệp, Kulesh V.A / Tạp chí Khoa học và Công nghệ Đại học Duy Tân 05(42) (2020) 60-69 66
Kết quả so sánh (Hình 7) đã cho thấy một số
điểm đáng lưu ý như sau:
- Chiều dày tối thiểu và chiều dày thiết kế
của tấm đáy tính theo công thức của Đăng kiểm
RMRS xấp xỉ nhau. Chiều dày thực của tấm tôn
đáy xấp xỉ giá trị theo tiêu chuẩn kỹ thuật. Mẫu
tàu 15881 (Δ = 8876 tấn) có độ lệch chuẩn lớn
nhất là 0,7 mm.
- Độ lệch chuẩn tính theo quy phạm DNV-
GL là 2 mm. Nhận thấy, chiều dày tối thiểu lớn
hơn chiều dày thiết kế. Do có độ nghiêng đáy
lớn nên xuất hiện bước nhảy trên đồ thị thể hiện
kết quả tính toán đối với tàu 2.
- Độ lệch chuẩn tính theo quy phạm BV lên
tới 4 mm. Chiều dày tối thiểu vượt quá chiều
dày thiết kế. Giới hạn dưới 8 mm không được
đảm bảo. Độ dày tối thiểu của tàu 2 lớn hơn tàu
3 do có sự khác nhau về hệ khung sườn. Tàu 2
có kết cấu hệ thống ngang còn tàu 3 là kết cấu
hệ thống dọc.
Kết quả so sánh cho thấy ưu điểm trong việc
áp dụng tính toán theo Quy chuẩn của RMRS.
Điều này có ý nghĩa quan trọng trong việc phát
triển yêu cầu thiết kế và đóng mới loại tàu
chuyên dụng này đối với Việt Nam.
c) Mẫu tàu 3: DCV61, Δ=856 tấn
Hình 6. Mẫu tàu dùng để so sánh
a) Mẫu tàu 1: 20150, Δ=78 tấn b) Mẫu tàu 2: 698, Δ=292 tấn
d) Mẫu tàu 4: 15881, Δ=8876 tấn
Độ dày tối thiếu Độ dày thiết kế
b) So sánh với Quy chuẩn DNV-GL
Hình 7. Kết quả so sánh
Phạm Trung Hiệp, Kulesh V.A / Tạp chí Khoa học và Công nghệ Đại học Duy Tân 05(42) (2020) 60-69 67
2.4. So sánh điều kiện sóng - gió của vùng
biển Việt Nam và vùng biển Okhotsk, Nga
Trong thực tế ở Nga, đặc biệt là vùng bờ
biển thuộc Bắc Cực và biển Okhotsk, nơi mà
mật độ dân số thấp và cơ sở hạ tầng cầu cảng
hầu như không có, việc sử dụng các tàu chuyên
dụng có khả năng thực hiện bốc dỡ hàng hóa
ngay trên cạn trở nên đặc thù và đem lại hiệu
quả kinh tế cao. Những kinh nghiệm của Nga
có thể sẽ hữu ích đối với Việt Nam, nhưng việc
áp dụng chúng đòi hỏi phải nắm rõ điều kiện
khai thác của từng vùng.
Vùng biển Việt Nam rộng lớn và trải dài trên
13 vĩ độ [5], vì vậy trong quá trình thiết kế một
tàu chuyên dụng cụ thể yêu cầu phải xem xét
phù hợp cho một vùng biển nhất định.Việc
nghiên cứu cấu trúc địa thềm lục địa (địa hình
chân đảo) của các đảo thuộc vùng biển này liên
quan trực tiếp tới phương thức tiếp cận đảo của
tàu chuyên dụng. Từ đó có thể quyết định nên
sử dụng tàu đổ bộ bờ hay tàu mặt nước. Yếu tố
này ảnh hưởng đến cách bố trí, trang bị và kết
cấu của tàu chuyên dụng.
Mục tiêu của nghiên cứu là phát triển
phương pháp luận dùng trong thiết kế, để tăng
tính khái quát, trong phần này, nhóm tác giả sẽ
tiến hành so sánh điều kiện sóng-gió của cả
vùng biển Việt Nam với vùng biển Okhotsk
(gần bán đảo Kamchatka) trong khoảng thời
gian từ tháng 10 đến tháng 3 (Thu-Đông) (Hình
8). Điều kiện sóng-gió biển thay đổi theo thời
gian trong năm và trong khoảng thời gian trên
điều kiện sóng gió được coi khắc nghiệt nhất và
mang đặc trưng riêng của mỗi vùng biển [14].
Vùng biển Việt Nam Vùng biển Okhotsk
Độ cao sóng, m Vận tốc gió, m/s
Việt Nam
Okhotsk
Việt Nam
Okhotsk
Hình 8. So sánh điều kiện sóng-gió của vùng bờ biển Việt Nam và vùng biển Okhotsk
Hướng gió
Phạm Trung Hiệp, Kulesh V.A / Tạp chí Khoa học và Công nghệ Đại học Duy Tân 05(42) (2020) 60-69 68
So sánh chỉ ra rằng, sóng ở bờ biển Việt
Nam cao hơn, ứng với độ đảm bảo 50% sóng ở
bờ biển Việt Nam đạt 1,9 m, trong khi đó ở bờ
biển Okhotsk là 1,5m.
Tốc độ gió của vùng biển Việt Nam cũng
cao hơn so với Okhotsk, ứng với độ đảm bảo
50% vận tốc gió ở vùng bờ biển Việt Nam là
11,5 m/s, ở vùng biển Okhotsk là 10 m/s.
Hướng gió chính trên hai vùng biển ngược
nhau. Vùng biển Việt Nam gió chủ yếu theo
hướng Bắc và Đông Bắc, ở vùng biển Okhotsk
hướng gió chủ yếu là Nam và Tây Nam [14].
Vào mùa đông trên vùng biển Okhotsk xuất
hiện hiện tượng đóng băng bề mặt. Điều này
ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động của các
tàu. Độ che phủ băng của mặt biển Okhotsk
phụ thuộc vào nhiệt độ không khí và nhiệt độ
nước biển. Độ che phủ băng có thể lên tới
100% vào mùa đông lạnh, và khoảng 50% vào
mùa đông ấm. Độ cao sóng của vùng nước
không bị đóng băng cao hơn đáng kể so với
mức trung bình [14].
Ngoài vận tốc và hướng gió, một trong
những yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến sự hình
thành sóng biển đó là địa hình vùng ven biển.
Vùng biển phía Bắc của Việt Nam được che
chắn bởi đảo Hải Nam, vì vậy điều kiện sóng
gió ở đây ít khắc nghiệt hơn và thuận lợi cho
hoạt động của các tàu chuyên dụng.
Dưới đây là những kết luận được đưa ra sau
khi tiến hành so sánh điều kiện sóng gió của hai
vùng biển Việt Nam và Okhotsk.
- Những kinh nghiệm về khai thác loại tàu
chuyên dụng trên của Nga có thể được sử dụng
với mục đích tương tự ở Việt Nam nhưng cần
thiết phải tính đến các điều kiện khai thác của
vùng biển Việt Nam.
- Khả năng chịu sóng và độ bền chung của tàu
hoạt động ở hai vùng biển là tương đương nhau.
- Tàu hoạt động ở vùng biển Việt Nam
không cần gia cố chống băng, điều này cho
phép giảm trọng lượng kết cấu ở mũi tàu so với
tàu hoạt động ở vùng biển Okhotsk.
- Tính ổn định của tàu hoạt động ở vùng biển
Việt Nam trước tác động của sóng biển cao hơn.
Tuy nhiên, do các tàu hoạt động ở vùng biển
Okhotsk có lượng dự trữ tính nổi bổ sung để
hoạt động trong điều kiện đóng băng, vậy nên
các chỉ số ổn định có thể tương đương nhau.
- Lượng dự trữ và thời gian của một hành
trình biển của tàu hoạt động trong vùng biển
Việt Nam có thể ít, do khoảng cách từ nơi khai
thác tàu đến các các cảng và các vịnh tránh trú
ở Việt Nam gần hơn. Ở vùng biển Okhotsk các
cảng có khả năng tiếp tế (Magadan và
Petropavlovsk) ở tương đối xa, số lượng vịnh
tránh trú rất hạn chế.
3. Kết luận
Bài báo đã thực hiện nghiên cứu so sánh và
chỉ ra triển vọng phát triển du lịch biển, đảo
Việt Nam gắn liền với việc phát triển cơ sở hạ
tầng. Trọng tâm là các khu nghỉ dưỡng trên
đảo, nơi có rất nhiều thế mạnh để thu hút khách
du lịch nước ngoài, nhưng vấp phải những khó
khăn trong quá trình xây dựng. Để khắc phục
những khó khăn đó, tác giả đã chỉ ra sự cần
thiết của việc sử dụng các tàu chuyên dụng với
khả năng vận chuyển các thiết bị hạng nặng và
đổ bộ trực tiếp lên các bờ biển. Ngoài những
đặc điểm cấu trúc thông thường, loại tàu
chuyên dụng này được thiết kế để đảm bảo an
toàn cho quá trình đổ bộ và thực hiện các hoạt
động bốc dỡ hàng hóa khi ngồi trên cạn.
Nghiên cứu so sánh Quy chuẩn thiết kế của
các Đăng kiểm RMRS, DNV-GL và BV đối
với loại tàu chuyên dụng này chỉ ra một số ưu
điểm Đăng kiểm RMRS so với các đăng kiểm
khác. Hiện tại Đăng kiểm Việt Nam chưa có
yêu cầu kỹ thuật bổ sung dành cho loại tàu
chuyên dụng này.
Những kinh nghiệm trong việc khai thác loại
tàu chuyên dụng trên của Nga có thể áp dụng
đối với Việt Nam, tuy nhiên cần tính đến điều
kiện của vùng khai thác khi áp dụng.
Phạm Trung Hiệp, Kulesh V.A / Tạp chí Khoa học và Công nghệ Đại học Duy Tân 05(42) (2020) 60-69 69
Phương hướng đề xuất trong bài báo, ngoài
ý nghĩa phát triển đội tàu biển Việt Nam, còn
rất quan trọng đối với việc phát triển cơ sở hạ
tầng trên các đảo góp phần giữ vững chủ quyền
biển đảo Việt Nam.
Tài liệu tham khảo
[1] Bureau Veritas. BV. Rules for the Classification of
Steel Ships. Part F Chapter 11 Section 11,
STRENGTHBOTTOM, 2019.
[2] CIA Factbook, Thailand vs. Vietnam,
https://www.indexmundi.com.
[3] Det Norske Veritas. DNV, Rules for the
Classification of Ships. Part 1 Chapter 2, Naval
landing craft, NAABSA, 2019.
[4] Kulesh V.A., Azotsev A.I. Experience in adjusting
the vessel to the conditions of the NAABSA class
(landing on the ground). Saint Petersburg. Scientific
journal «Marine Intellectual Technologies», 2020
(47): 69-73p.
[5] Lê Thị Kim Thoa, Ngô Hoàng Đại Long, Nguyễn
Thị Thu Thủy, Đảo và quần đảo Việt Nam trên Biển
Đông trong phát triển kinh tế và đảm bảo an ninh
quốc phòng, Science &technology development, vol
17, No, X1-2014.
[6] National geographic History magazine. Standing
Tall: Egypt’s Great Pyramids. 2017.
[7] Nghị quyết số 36-NQ-TW về Chiến lược phát triển
bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm
nhìn đến năm 2045.
[8] Ngô Bình Thuận. Một số giải pháp phát triển du lịch
biển đảo Việt Nam. Tạp chí tài chính, 7/2016.
[9] Puttachard Lunkam, Thailand industry outbook
2019-2021. Hotel industry, Krungsri Research. July
2019.
[10] Russian Maritime Register of Shipping. RMRS,
Rules for the Classification and Shipbuilding. Part
XVII.15. Requirement for vessels operating on the
ground (NAABSA vessels).- St. Petersburg, 2020. -
258-268p.
[11] Ships of the USSR Navy, Reference in four
volumes. Tom IV. Landing and minesweeping ships.
St. Peterburg: “Galley Print”, 2007.
[12] Situation of developing island tourism in the world.
https://coochiemudlo.net/.
[13] Tổng cục du lịch, Báo cáo thường niên du lịch Việt
Nam 2018, Nhà xuất bản lao động – 2019.
[14] Wind and waves in the oceans and seas. Reference
data. Transport, -L.: 1974. – 312p.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tau_chuyen_dung_va_dinh_huong_phat_trien_co_so_ha_tang_du_li.pdf