Nhận thức rào cản là sự đánh giá của một
cá nhân về những trở ngại đối với thay đổi
hành vi. Ngay cả khi một cá nhân nhận thấy
tình trạng sức khỏe là đe dọa và tin rằng một
hành động cụ thể sẽ làm giảm mối đe dọa một
cách hiệu quả, các rào cản có thể ngăn chặn
hành vi thúc đẩy sức khỏe. Trong nghiên cứu
của chúng tôi, có 59.8% điều dưỡng cho rằng
thiếu dụng cụ và thiết bị an toàn, xấp xỉ 40%
cho rằng quá tải công việc, 57% điều dưỡng
cho rằng thiếu nhân sự và 14.8% cho rằng
họ thiếu kiến thức về dự phòng TT do VSN.
Đây là những yếu tố được điều dưỡng xác
định rằng nó sẽ cản trở đến thực hành dự
phòng TT do VSN trong quá trình chăm sóc
người bệnh. Trong nghiên cứu của Dimie O
(2015) chỉ ra một số rào cản sau: 66,1%, xác
định thiếu thiết bị phù hợp hoặc đủ để thực
hành các biện pháp phòng ngừa tiêu chuẩn,
52,4% thiếu đào tạo thường xuyên về kiểm
soát nhiễm trùng, thiếu 38,9% ủy ban kiểm
soát và phòng ngừa nhiễm trùng và quá tải
công việc chiếm 34,8% [11], trong nghiên
cứu của Mohammed G, Ahmed D.B, Musa J,
Suleiman D (2018) sự cản trở việc thực hiện
các biện pháp phòng chống nhiễm khuẩn
được điều dưỡng cho là 16% cho rằng quá
tải công việc, 50.4% cho rằng thiếu thiết bị
an toàn và 8% cho rằng thiếu thời gian thực
hiện [10] và nghiên cứu của Arif A và cộng
sự (2017), 84% đồng ý rằng áp lực công việc
khiến điều dưỡng thỉnh thoảng quên sử dụng
các biện pháp bảo vệ [6]. Một số rào cản khác
cũng đã được báo cáo bao gồm thùng xử lý
vật sắc nhọn không được thay đổi thường
xuyên [16], hoạt động dự phòng TT do VSN
chưa được thường xuyên quan tâm [14].
Cuối cùng, theo học thuyết niềm tin sức
khỏe để cá nhân có thể tham gia vào các
hành vi bảo vệ sức khỏe cần có tín hiệu cho
hành động và sự tự hiểu quả của mỗi cá
nhân điều dưỡng. Trong tín hiệu cho hành
động, đó có thể là việc tổ chức tập huấn của
bệnh viện về phòng rủi ro nghề nghiệp, sự
giám sát của phòng điều dưỡng trong thực
hành của điều dưỡng. Tuy nhiên, trong
thực tế những năm gần đây bệnh viện chưa
thực sự chú trọng trong việc tập huấn NVYT,
mảng tiêm an toàn cho người bệnh được
chú ý giám sát kiểm tra nhưng an toàn cho
điều dưỡng thì vẫn chưa được chú trọng.
Ngoài ra, mức độ tự hiệu quả của các cá
nhân là khác nhau, để cá nhân có thể tham
gia vào hành vi bảo vệ sức khỏe, họ cần đấu
tranh với các thói quen có hại đã tồn tại trước
đó và vượt qua các rào cản trong công việc
như quá tải, thiếu nhân sự, thiếu dụng cụ an
toàn Hơn thế nữa để thực hiện các hành
vi đầy đủ và tốt nhất, điều dưỡng cần phải có
kiến thức đầy đủ và toàn diện về dự phòng
TT do VSN.
9 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 21 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Thái độ đối với tổn thương do vật sắc nhọn của điều dưỡng: Một nghiên cứu dựa trên mô hình niềm tin sức khỏe, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
67
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 01
Thái Bình.
6. Nguyễn Thị Bích Đào và Vũ Thị Là
(2011). Kiến thức, thái độ và hành vi tự
chăm sóc bàn chân của người bệnh đái
tháo đường type 2 đến khám và điều trị tại
Bệnh viện chợ Rẫy. Tạp chí Y học Thành
phố Hồ Chí Minh, 16(2), tr.60-69.
7. Nguyễn Tiến Dũng và Phùng Văn Lợi
(2011). Các yếu tố liên quan đến hành vi
chăm sóc bàn chân ở bệnh nhân đái tháo
đường type 2 tại Thái Nguyên Việt Nam.
Tạp chí Khoa học và Công nghệ, 104(4),
tr.55-60.
8. Bondor C.I., Ioan A. V., Bogdan F.,
et al. (2016). Epidemiology of Diabetic
Foot Ulcers and Amputations in Romania:
Results of a Cross-Sectional Quality of Life
Questionnaire Based Survey. Journal of
Diabetes Research, 2016, pp.1-7.
9. Boyko E. J., Ahroni J. H., Cohen V.,
et al. (2006). Prediction of diabetic foot
ulcer occurrence using commonly available
clinical information: the Seattle Diabetic Foot
Study. Diabetes Care, 29(6), pp.1202-7.
10. International Diabetes Federation
(2017), “IDF Clinical Practice
Recommendations for managing Type 2
Diabetes in Primary Care”, International
Diabetes Federation, pp.1-43.
11. International Diabetes Federation
(2017), “IDF Clinical Practice
Recommendations on the Diabetic Foot”,
International Diabetes Federation, pp.1-70
12. World Health Organization. (2016).
Global report on diabetes: ISBN 978 92 4
156525 7 (NLM classifcation: WK 810).
THÁI ĐỘ ĐỐI VỚI TỔN THƯƠNG DO VẬT SẮC NHỌN CỦA ĐIỀU DƯỠNG:
MỘT NGHIÊN CỨU DỰA TRÊN MÔ HÌNH NIỀM TIN SỨC KHỎE
Đỗ Minh Sinh1, Hoàng Trung Tiến2
1Trường Đại học Điều dưỡng Nam Định;
2Trường Đại học Yersin Đà Lạt
TÓM TẮT
Mục tiêu: nhằm mô tả thái độ của điều
dưỡng về tổn thương do vật sắc nhọn dựa
theo mô hình niềm tin sức khỏe. Đối tượng
và phương pháp nghiên cứu: Thiết kế
nghiên cứu mô tả cắt ngang được thực hiện
với 149 điều dưỡng viên chăm sóc người
bệnh đang làm việc tại những khoa có tiếp
xúc với vật sắc nhọn của Bệnh viện đa khoa
tỉnh Lâm Đồng. Thu thập số liệu bằng hình
thức phỏng vấn dựa trên bộ câu hỏi tự điền.
Kết quả: đa số điều dưỡng có thái độ tích
cực đối với mức độ nghiêm trọng của tổn
Người chịu trách nhiệm: Đỗ Minh Sinh
Email: minhsinh82@gmail.com
Ngày phản biện: 24/02/2020
Ngày duyệt bài: 02/3/2020
Ngày xuất bản: 16/3/2020
thương do vật sắc nhọn. Tỷ lệ điều dưỡng
có thái độ tích cực với tính nhạy cảm của
bệnh chiếm > 90% ở tất cả các nội dung.
Nhìn chung niềm tin của điều dưỡng đối
với các biện pháp dự phòng là khá cao
chiếm > 75% ở tất cả các nội dung. Mặc
dù vậy, ở một số nội dung tỷ lệ điều dưỡng
có thái độ chưa tích cực chiếm trên 16% và
một số yếu tố như quá tải công việc, thiếu
nhân sự, thiếu dụng cụ an toàn, thiếu kiến
thức được cho là rào cản. Kết luận: đa
phần điều dưỡng đã có thái độ tích cực về
tổn thương do vật sắc nhọn, dựa trên học
thuyết “mô hình niềm tin sức khoẻ” có khả
năng cao các điều dưỡng trong nghiên cứu
này sẽ thực hiện các biện pháp dự phòng
tổn thương do vật sắc nhọn.
Từ khóa: Tổn thương do vật sắc nhọn,
thái độ, điều dưỡng
68
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 01
INVESTIGATION OF THE ATTITUDES TOWARDS SHARPS INJURIES AMONG
NURSES: A STUDY BASED ON THE HEALTH BELIEF MODEL
ABSTRACT
Objective: to describe the nurses’
attitudes towards sharps injuries based on
the health belief model. Method: A cross-
sectional descriptive study was conducted
at Lam Dong General Hospital. All clinical
nurses working in all patient wards
where sharp devices were being used
and 149 nurses agreed to response the
self-completed questionnaires. Results:
showed that a majority of nurses had
positive attitudes towards the severity of
damage caused by sharp devices. The
rate of nurses who had positive attitudes
to the susceptibility of the disease were
also greater than 90%. In general, the
belief of nurses in preventive measures
was quite high (all items were more than
75%). However, in some contents, the
proportion of nurses with negative attitudes
accounted for over 16%, and the study also
revealed some factors that may considered
as barriers including work overload, lack
of staff, lack of safety equipment, lack of
knowledge. Conclusion: the nurses of
the study sample had positive attitudes
towards sharp injuries, based on the health
belief model, it is anticipated that the nurses
within this study are likely to practise the
measures for prevention of sharp injuries.
Keywords: sharp-device injuries,
attitude, nurses
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Phơi nhiễm với các bệnh truyền nhiễm
qua đường máu liên quan đến tổn thương
(TT) do vật sắc nhọn (VSN) đang là một
vấn đề phổ biến và gây ra nhiều hậu quả
nghiêm trọng với điều dưỡng. Theo trung
tâm phòng ngừa và kiểm soát bệnh tật Hoa
Kỳ, ước tính có 385.000 TT do VSN liên
quan đến nhân viên y tế mỗi năm. Nó có thể
làm lây truyền hơn 20 bệnh truyền nhiễm,
trong đó ba bệnh truyền nhiễm phổ biến
nhất là HBV, HCV và HIV [4]. Mặc dù tổn
thương do VSN có thể gặp ở bất kỳ nhân
viên y tế nào tuy nhiên điều dưỡng đặc biệt
là điều dưỡng lâm sàng là nhóm người có
tỷ lệ mắc cao nhất [13]. Các điều dưỡng đã
từng bị TT do VSN báo cáo rằng sau khi sự
kiện xảy họ cảm thấy rất lo lắng, căng thẳng
và stress. Những vấn đề sức khỏe này đã
làm ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng và
hiệu quả công việc của họ [8].
Thái độ của nhân viên y tế nói chung và
điều dưỡng nói riêng được coi là yếu tố dự
báo mạnh nhất của TT do VSN, điều dưỡng
có thái độ tiêu cực đối với việc phòng ngừa
TT do VSN có khả năng có TT cao gấp gần
hai lần so với những người có thái độ tích
cực [9]. Kiến thức, thái độ và thực hành
là ba yếu tố có mối quan hệ mật thiết với
nhau. Một cá nhân sẽ thực hiện và duy trì
hành vi có lợi cho sức khỏe nếu họ “nhận
thức” được nguy cơ đối với một vấn đề sức
khỏe và sức khỏe của họ sẽ bị đe dọa bởi
vấn đề mà do hành vi của họ gây ra [15].
Điều này có nghĩa nếu một người có thái
độ tích cực đối với một vấn đề sức khỏe cụ
thể thì có thể dự đoán rằng họ sẽ thực hiện
tốt các biện pháp dự phòng. Do vậy việc
nghiên cứu thái độ của điều dưỡng đối với
TT do VSN có thể giúp dự báo được các
hành vi của họ từ đó có thể xây dựng được
các chiến lược dự phòng phù hợp.
Cho đến nay đã có nhiều nghiên cứu
mô tả về thái độ của điều dưỡng đối với
tổn thương do vật sắc nhọn ở các quốc gia
khác nhau. Tuy nhiên hầu hết các nghiên
cứu chưa mô tả được đầy đủ các cấu phần
69
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 01
liên quan đến niềm tin của điều dưỡng về
vấn đề này (niềm tin về mức độ nguy hiểm,
niềm tin về tính nhạy cảm, niềm tin vể tầm
quan trọng của dự phòng và niềm tin về các
rào cản thực hiện dự phòng) [10], [11], [12],
[14]. Bên cạnh đó tại Việt Nam hiện nay dữ
liệu về vấn đề này vẫn đang còn thiếu hụt.
Do đó mục tiêu của nghiên cứu này là mô
tả thái độ của điều dưỡng về tổn thương
do vật sắc nhọn dựa theo mô hình niềm tin
sức khỏe.
2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Là các điều dưỡng làm công tác chăm
sóc người bệnh tại các khoa Nội A, Nội B,
Nội II, Ngoại Chấn thương, Ngoại Thần
kinh, Ngoại Tổng hợp, Cấp cứu lưu, Hồi
sức tích cực – chống độc, Nhi, Bệnh Nhiệt
đới (Nhiễm), Ung bướu. Đây là những khoa
có thực hiện nhiều mũi tiêm, truyền, có nguy
cơ tiếp xúc với VSN trong quá trình chăm
sóc. Tất cả các điều dưỡng thuộc các khoa
trên của bệnh viện đều được gửi thư mời
tham gia nghiên cứu và được tiếp cận với
các thông tin cơ bản như thiết kế, mục đích
và ý nghĩa của nghiên cứu cũng như quyền
lợi của họ khi tham gia. Sự ẩn danh của
những người tham gia được duy trì trong
suốt nghiên cứu. Họ được gửi văn bản
chấp thuận đồng ý trước khi đăng ký vào
nghiên cứu. Tổng số đã có 149/158 điều
dưỡng đồng ý tham gia nghiên cứu (chiếm
tỷ lệ 94,3%).
Nghiên cứu được thực hiện từ 12/2018
– 09/2019 tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Lâm
Đồng.
2.2. Công cụ nghiên cứu
Áp dụng thiết kế nghiên cứu mô tả cắt
ngang. Sử dụng phiếu hỏi tự điền, bộ câu
hỏi được xây dựng dựa trên tài liệu Hướng
dẫn thực hành tốt nhất của WHO (2010),
Kiểm soát nhiễm khuẩn của Bộ Y tế Việt
Nam (2012), tài liệu Tiêm an toàn của Bộ
Y tế Việt Nam (2012). Mô hình niềm tin
sức khỏe của Rosenstock [15] được áp
dụng như là căn cứ dự báo hành vi. Bộ
câu hỏi gồm 22 câu được chia thành 04
phần: (i) Niềm tin về mức độ nguy hiểm
của tổn thương do vật sắc nhọn gồm 5 câu;
(ii) Niềm tin về tính nhạy cảm đối với tổn
thương do vật sắc nhọn gồm 5 câu; (iii)
Niềm tin về tầm quan trọng của các biện
pháp dự phòng gồm 7 câu; (iv) Niềm tin về
rào cản thực hiện các biện pháp dự phòng
gồm 5 câu. Thang điểm đánh giá gồm 5 bậc
xây dựng theo thang điểm Likert. Trong đó,
rất đồng ý tương ứng với 5 điểm, đồng ý
tương ứng với 4 điểm, bình thường tương
ứng với 3 điểm, không đồng ý tương ứng
với 2 điểm và rất không đồng ý tương ứng
với 1 điểm.
Bộ công cụ nghiên cứu được kiểm tra
độ tin cậy bằng chỉ số content validity index
(CVI) – chỉ số độ đặc hiệu nội dung. Bộ
công cụ được gửi đến 05 chuyên gia am
hiểu về chuyên môn và có kinh nghiệm triển
khai các nghiên cứu thuộc lĩnh vực này. Kết
quả kiểm định cho thấy tất cả các công cụ
đều có chỉ số CVI > 0,8 (là mức cho thấy
công cụ có độ đặc hiệu nội dung tốt). Chỉ
số cronbach anpha được sử dụng để kiểm
tra độ tin cậy của thang đo. Kiểm tra độ tin
cậy trên 30 mẫu phiếu cho kết quả chỉ số
cronbach anpha > 0,7 cho thấy bộ công cụ
có độ tin cậy tốt.
2.3. Tiêu chí đánh giá
Thái độ của điều dưỡng về tổn thương
do vật sắc nhọn được phân thành 03 mức:
tích cực, trung tính và tiêu cực. Với nội
dung “Mức độ nguy hiểm của TT do VSN”
và nội dung “Thái độ về tầm quan trọng của
các biện pháp dự phòng TT do VSN”: đối
tượng có thái độ tích cực nếu chọn mức
4 và 5, thái độ trung tính nếu chọn 3, còn
lại là tiêu cực. Với nội dung “Thái độ nhạy
cảm với TT do VSN”: đối tượng có thái độ
tích cực nếu chọn 1 và 2, trung tính nếu
chọn 3, còn lại là tiêu cực. Nội dung “Thái
độ về rào cản thực hiện dự phòng TT do
VSN” không phân mức độ vì còn tùy thuộc
70
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 01
vào tình hình thực tế và môi trường công
việc của điều dưỡng (Nội dung này không
được đề cập trong nghiên cứu). Các phiếu
phỏng vấn được làm sạch và nhập vào máy
tính bằng phần mềm SPSS. Sau đó số liệu
được phân tích và xử lý bằng phần mềm
SPSS 16.0. Kết quả xử lý và phân tích số
liệu thống kê mô tả được lập bảng phân bố
tần số và tỷ lệ phần trăm các biến số.
3. KẾT QUẢ
Kết quả cho thấy tuổi của điều dưỡng
chủ yếu nằm trong khoảng 30 – 39 chiếm
49,7% và dưới 30 tuổi chiếm 43,0%. Giới
tính chủ yếu là nữ chiếm 86,6%. Trình độ
chuyên môn chiếm phần lớn là trung cấp,
tiếp đó là cao đẳng lần lượt là 49,7% và
35,5%. Kinh nghiệm làm việc của điều
dưỡng dưới 5 năm chiếm tỷ lệ cao nhất
41,6%, tiếp đó là 11 – 20 năm, 6 – 11 năm
lần lượt chiếm 34,9% và 20,8%. Toàn bộ
100% điều dưỡng đã từng được đào tạo về
phòng ngừa phơi nhiễm nghề nghiệp. Tuy
nhiên, số lần đào tạo trong năm vừa qua,
có tới 52,3% điều dưỡng chưa được đào
tạo nhắc lại về vấn đề này.
Các kết quả về thái độ của điều dưỡng
tham gia nghiên cứu theo các nội dung
được trình bày trong các bảng từ 1 đến 4
dưới đây.
Bảng 3.1: Thái độ của điều dưỡng về mức độ nguy hiểm của TT do VSN (n = 149)
Nội dung thăm dò
Tỷ lệ % điều dưỡng theo thái độ
Tiêu cực Trung tính Tích cực
TT do VSN có thể làm ảnh hưởng nghiêm
trọng đến sức khỏe của điều dưỡng 6,0 1,3 92,6
Có thể bị phơi nhiễm 20 bệnh lây truyền,
trong đó có HIV, HBV, HCV 8,1 2,7 89,3
TT do VSN có thể làm gây căng thẳng, lo
lắng, rối loạn cảm xúc cho điều dưỡng 4,7 11,4 83,9
TT do VSN có thể gây ảnh hưởng đến công
việc của điều dưỡng 5,4 8,1 86,5
TT do VSN làm tổn thất thời gian và kinh phí
cho việc điều trị cho điều dưỡng 2,7 8,1 89,2
Bảng 3.2: Thái độ của điều dưỡng về tính nhảy cảm với TT do VSN (n = 149)
Nội dung thăm dò
Tỷ lệ % điều dưỡng theo thái độ
Tiêu cực Trung tính Tích cực
Tôi tin rằng mình sẽ không bị tổn thương do
VSN 6,7 2,0 91,3
Tôi tin rằng tôi sẽ không bị phơi nhiễm các
bệnh nguy hiểm lây truyền qua máu do VSN 4,0 2,7 93,3
Tôi tin rằng tôi sẽ không bị lo lắng, căng
thẳng, rối loạn cảm xúc khi bị TT do VSN 3,3 6,0 90,6
Tôi tin rằng tôi sẽ không tốn thời gian và chi
phí cho việc điều trị TT do VSN 3,3 6,0 90,6
Tôi tin rằng TT do VSN không ảnh hưởng đến
công việc của tôi 6,0 2,7 91,3
71
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 01
Bảng 3.3: Thái độ của điều dưỡng về tầm quan trọng của các biện pháp dự phòng
TT do VSN (n = 149)
Nội dung thăm dò
Tỷ lệ % điều dưỡng theo thái độ
Tiêu cực Trung tính Tích cực
Loại bỏ mũi tiêm, VSN không cần thiết giúp
làm giảm nguy cơ TT do VSN 16,1 11,4 72,5
Không đậy nắp kim bằng hai tay làm giảm
nguy cơ bị TT do VSN 14,1 2,0 83,9
Cho ngay VSN vào thùng đựng VSN giúp
giảm nguy cơ tổn thương do VSN 4,7 1,3 93,9
Phân loại và quản lý rác thải đúng làm giảm
nguy cơ TT do VSN 4,7 5,4 89,9
Báo cáo TT do VSN làm giảm nguy cơ phơi
nhiễm với bệnh truyền nhiễm nguy hiểm 12,1 12,8 75,2
Tiêm phòng viêm gan B là cần thiết để phòng
phơi nhiễm cho mọi nhân viên y tế 16,1 4,0 72,5
Áp dụng các biện pháp dự phòng TT do VSN
sẽ giúp giảm nguy cơ phơi nhiễm 14,1 3,4 83,9
Bảng 3.4: Thái độ về rào cản để thực hiện các biện pháp dự phòng
TT do VSN (n = 149)
Nội dung thăm dò
Tỷ lệ % điều dưỡng lựa chọn
Hoàn toàn
không
đồng ý
Không
đồng ý
Bình
thường Đồng ý
Rất
đồng ý
Tôi gặp khó khăn trong việc dự
phòng TT do VSN do thiếu dụng
cụ y tế và thiết bị an toàn
2,7 18,8 18,8 47,0 12,8
Tôi gặp khó khăn do thiếu kiến
thức dự phòng TT do VSN 0,7 56,4 28,2 12,8 2,0
Tôi không có thời gian để áp
dụng các biện pháp phòng TT do
VSN do quá tải công việc
1,3 38,9 20,1 35,6 4,0
Tôi gặp khó khăn trong dự phòng
TT do VSN vì nhiều người bệnh
không hợp tác
2,7 43,6 42,3 8,1 3,4
Thiếu nhân sự làm tăng nguy cơ
gặp TT do VSN 6,7 25,5 10,7 45,6 11,4
72
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 01
4. BÀN LUẬN
4.1. Nhận thức mức độ nghiêm trọng
của vấn đề
Theo mô hình niềm tin sức khỏe (HBM),
những người nhận thấy vấn đề sức khỏe
nghiêm trọng có nhiều khả năng tham gia
vào các hành vi để ngăn chặn vấn đề sức
khỏe xảy ra (hoặc giảm mức độ nghiêm trọng
của nó). Trong nghiên cứu của chúng tôi, đa
số điều dưỡng nhận thức một cách tích cực
qua quan điểm đồng ý và hoàn toàn đồng ý
với mức độ nghiêm trọng của TT do VSN.
Cụ thể, có 92.6% cho rằng TT do VSN có thể
gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe
điều dưỡng, có 89.3% cho rằng có thể phơi
nhiễm với 20 loại bệnh qua TT do VSN, có
83.9% cho rằng họ sẽ có khả năng bị căng
thẳng, lo lắng, rối loạn cảm xúc, có 86.5%
cho rằng công việc của họ sẽ bị ảnh hưởng
và 89.2% cho rằng họ sẽ mất thời gian và
chi phí điều trị. Tương tự như vậy, trong
nghiên cứu của Beleke và cộng sự (2015)
cho thấy NVYT đã có thái độ tích cực về mức
độ nguy hiểm của TT do VSN, 98,2% đều
biết về nguy cơ phơi nhiễm qua TT do VSN,
99,4% biết các bệnh có thể lây truyền qua
phơi nhiễm TT do VSN, 81,1% NVYT cho
biết có ít nhất ba bệnh bao gồm HIV, HBV và
HCV lây truyền qua TT do VSN [7]. Nghiên
cứu của Anitha Madhavan và cộng sự trên
100 điều dưỡng tại Kerala, India cho kết quả
80% cho rằng TT do VSN là một vấn đề phổ
biến; 95% cho rằng cần phải khai báo ngay
lập tức nếu bị tổn thương do VSN [14]. Các
con số này cũng tương đồng so với kết quả
nghiên cứu của Suliman. A và cộng sự khi
điều tra trên các điều dưỡng tại Sudan [16].
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi đặt
trong bối cảnh với các nghiên cứu trước đều
nhất quán cho rằng thái độ của điều dưỡng
đối với mức độ nghiêm trọng của tổn thương
do vật sắc nhọn là rất tích cực. Điều dưỡng
là một phần không thể thiếu trong đội ngũ
chăm sóc sức khỏe làm việc trong các đơn
vị lâm sàng. Trong quá trình chăm sóc người
bệnh, điều dưỡng phải đối diện với nhiều
nguy cơ tổn thương do vật sắc nhọn (bơm
kim tiêm, uống thuốc bằng thủy tinh, ...). Bản
thân người điều dưỡng cũng đã khai báo
họ từng bị TT do VSN và chứng kiến đồng
nghiệp của mình bị TT do VSN [1], [2]. Ngoài
ra các nghiên cứu trước đây cũng chỉ ra rằng
kiến thức của điều dưỡng về các vấn đề có
liên quan đến tổn thương do vật sắc nhọn
là đương đối tốt [1], [16]. Các nội dung vừa
liệt kê có thể lý giải một phần về tỷ lệ thái độ
tích cực của điều dưỡng trong nghiên cứu
này đối với tổn thương do vật sắc nhọn. Nhờ
nhận thức được mức độ nguy hiểm của TT
do VSN mà điều dưỡng sẽ có thể có những
biện pháp phòng ngừa nhằm làm giảm nguy
cơ phơi nhiễm bệnh bởi TT do VSN. Tất
nhiên để có thể thực hiện tốt các biện pháp
dự phòng còn tùy thuộc vào nhiều yếu tố như
mức độ hiểu biết của họ về các biện pháp dự
phòng, các điều kiện hỗ trợ, môi trường làm
việc, ...
4.2. Niềm tin về tính nhạy cảm đối với
tổn thương do vật sắc nhọn
Theo HBM dự đoán rằng những người
nhận thức được rằng họ dễ bị một vấn đề
sức khỏe cụ thể sẽ tham gia vào các hành vi
để giảm nguy cơ phát triển vấn đề sức khỏe.
Các cá nhân có độ nhạy cảm nhận thức thấp
có thể phủ nhận rằng họ có nguy cơ mắc vấn
đề sức khỏe và có nhiều khả năng tham gia
vào các hành vi không lành mạnh hoặc rủi ro.
Ngược lại, các cá nhân nhận thấy nguy cơ
cao rằng họ sẽ bị ảnh hưởng bởi một vấn đề
sức khỏe cụ thể có nhiều khả năng tham gia
vào các hành vi để giảm nguy cơ phát triển
tình trạng này. Trong kết quả nghiên cứu của
chúng tôi, điều dưỡng phần lớn có thái độ
tích cực khi thể hiện thái độ hoàn toàn không
đồng ý và không đồng ý rằng họ sẽ không
bị TT do VSN, điều này có nghĩa họ tin rằng
họ có khả năng lớn gặp TT do VSN. Cụ thể,
có 91.3% không đồng ý rằng họ sẽ không bị
TT do VSN, có 93.3% không đồng ý rằng họ
sẽ không bị phơi nhiễm với bệnh nguy hiểm,
có 90.6% không đồng ý rằng họ sẽ không bị
lo lắng, căng thẳng, có 73.2% không đồng
ý rằng họ sẽ không tốn thời gian và chi phí
cho việc điều trị TT do VSN và 72.5% không
73
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 01
đồng ý rằng TT do VSN sẽ không ảnh hưởng
đến công việc của họ. Nghiên cứu của Anitha
Madhavan và cộng sự trên 100 điều dưỡng
đang làm việc tại a tertiary care center in
Kerala, India cho kết quả có tới 49% điều
dưỡng luôn luôn và thường xuyên lo lắng
rằng họ sẽ bị TT do VSN Luôn luôn lo lắng
bị TT do VSN là 60%, [14]. Con số này trong
nghiên cứu của Asgad suliman và cộng sự
tại Khartoum, Sudan còn lên tới 83,5% [16].
Từ những kết quả trên có thể đi đến nhận
định đa phần điều dưỡng đã có sự nhạy cảm
trong nhận thức của họ khi cho rằng họ có
nguy cơ TT do VSN, điều này có thể dự báo
rằng họ sẽ thực hiện các biện pháp nhằm làm
giảm nguy cơ bị thương tổn. Theo tổ chức
y tế thế giới (WHO), có nhiều nguyên nhân
đưa đến TT do VSN như: lạm dụng mũi tiêm,
thiếu vật tư, thiết bị, nhân sự không đáp ứng
đủ, thiếu kỹ năng, thiếu nhận thức và đào tạo
[17]. Như đã đề cập ở trên nhiều nghiên cứu
trước đây đã chỉ ra rằng kiến thức của điều
dưỡng liên quan đến vấn đề này là tương
đối tốt. Do vậy việc họ nhận thức được tính
nhạy cảm với TT do VSN là điều dễ hiểu. Từ
mối liên quan này có thể thấy để thấy nâng
cao kiến thức của điều dưỡng về các vấn đề
có liên quan đến TT do VSN là một giải pháp
giúp họ có thái độ tích cực hơn qua đó thực
hiện tốt hơn các biện pháp dự phòng.
4.3. Nhận thức lợi ích của các biện
phòng dự phòng TT do VSN
Cũng theo HBM, nếu một cá nhân tin
rằng những hành động cụ thể sẽ làm giảm
tính nhạy cảm đối với vấn đề sức khỏe hoặc
giảm mức độ nghiêm trọng, thì người đó có
khả năng tham gia vào hành vi đó bất kể sự
thật khách quan liên quan đến hiệu quả của
hành động. Trong kết quả nghiên cứu của
chúng tôi, nhìn chung điều dưỡng đã có thái
độ tích cực với các biện pháp dự phòng TT
do VSN khi có 83.9% điều dưỡng cho rằng
áp dụng các biện pháp dự phòng sẽ giúp họ
giảm nguy cơ phơi nhiễm bệnh. Tương tự
vậy, trong nghiên cứu của Dimie O (2015)
cho thấy hầu hết 95% những người tham
gia nghiên cứu tin rằng các biện pháp phòng
ngừa tiêu chuẩn sẽ ngăn họ khỏi nhiễm
trùng từ bệnh viện [11], và nghiên cứu của
Arif A và cộng sự (2017), 94% có thái độ tích
cực (30% đồng ý và 64% hoàn toàn đồng ý)
rằng họ có thể giảm nguy cơ nghề nghiệp đối
với HIV, HBV nhiễm trùng bằng cách tuân
thủ các biện pháp phòng ngừa tiêu chuẩn
[6]. Cụ thể hơn từ nghiên cứu của chúng
tôi, có 72.5% điều dưỡng nghĩ rằng loại bỏ
kim tiêm và VSN không cần thiết, 83.9% cho
rằng không nên đậy nắp kim bằng hai tay, có
93.9% điều dưỡng cho rằng nên cho ngay
VSN vào thùng đựng VSN sau sử dụng, có
89.9% đồng ý với việc phân loại rác thải đúng,
có 75.2% đồng ý nên báo cáo phơi nhiễm
và thực hiện tiêm phòng HBV chiếm 80.6%.
Kết quả một số nghiên cứu khác cũng cho
thấy điều dưỡng đã có thái độ tốt với các
biện pháp dự phòng TT do VSN trong các
nội dung tương đồng, trong nghiên cứu của
Olufemi O.A (2016), 98.2% NVYT cho rằng
VSN cần được xử lý vào Hộp đựng VSN, có
99% NVYT cho rằng tất cả các phơi nhiễm
cần được báo cáo, có 94.8% NVYT cho rằng
cần tiêm phòng HBV, sởi, quai bị...[5] và
trong nghiên cứu của Mohammed G, Ahmed
D.B, Musa J, Suleiman D (2018) phần lớn
điều dưỡng cho đồng ý với việc tiêm phòng
viêm gan B, với quan điểm cần thiết chiếm
92% (40.8% và rất cần thiết chiếm 51.2%)
[10]. Trong các nghiên cứu cho thấy hầu hết
NVYT có thái độ tích cực với việc báo cáo
TT do VSN nhưng trong thực tế việc báo cáo
TT do VSN còn thấp ở qua nhiều nghiên cứu
khác nhau, mà nguyên nhân chủ yếu do sợ
gặp rắc rối hoặc sợ bị đổ lỗi khi báo cáo [12],
hạn chế về thời gian, các VSN gây ra thương
tích không được sử dụng cho bất kỳ người
bệnh nào, người bệnh nguồn không có bệnh
đáng lo ngại... [3]. Như vậy, điều dưỡng
phần lớn đã nhận thức được tầm quan trọng
của các biện pháp dự phòng phơi nhiễm do
VSN, và để thực hiện được các biện pháp
dự phòng có đầy đủ hay không thì còn dựa
vào kiến thức của họ về vấn đề này và các
rào cản khác có thể ngăn cản việc sử dụng
các biện pháp dự phòng của họ.
74
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 01
4.4. Nhận thức rào cản với việc thực
hiện các hành vi dự phòng TT do VSN
Nhận thức rào cản là sự đánh giá của một
cá nhân về những trở ngại đối với thay đổi
hành vi. Ngay cả khi một cá nhân nhận thấy
tình trạng sức khỏe là đe dọa và tin rằng một
hành động cụ thể sẽ làm giảm mối đe dọa một
cách hiệu quả, các rào cản có thể ngăn chặn
hành vi thúc đẩy sức khỏe. Trong nghiên cứu
của chúng tôi, có 59.8% điều dưỡng cho rằng
thiếu dụng cụ và thiết bị an toàn, xấp xỉ 40%
cho rằng quá tải công việc, 57% điều dưỡng
cho rằng thiếu nhân sự và 14.8% cho rằng
họ thiếu kiến thức về dự phòng TT do VSN.
Đây là những yếu tố được điều dưỡng xác
định rằng nó sẽ cản trở đến thực hành dự
phòng TT do VSN trong quá trình chăm sóc
người bệnh. Trong nghiên cứu của Dimie O
(2015) chỉ ra một số rào cản sau: 66,1%, xác
định thiếu thiết bị phù hợp hoặc đủ để thực
hành các biện pháp phòng ngừa tiêu chuẩn,
52,4% thiếu đào tạo thường xuyên về kiểm
soát nhiễm trùng, thiếu 38,9% ủy ban kiểm
soát và phòng ngừa nhiễm trùng và quá tải
công việc chiếm 34,8% [11], trong nghiên
cứu của Mohammed G, Ahmed D.B, Musa J,
Suleiman D (2018) sự cản trở việc thực hiện
các biện pháp phòng chống nhiễm khuẩn
được điều dưỡng cho là 16% cho rằng quá
tải công việc, 50.4% cho rằng thiếu thiết bị
an toàn và 8% cho rằng thiếu thời gian thực
hiện [10] và nghiên cứu của Arif A và cộng
sự (2017), 84% đồng ý rằng áp lực công việc
khiến điều dưỡng thỉnh thoảng quên sử dụng
các biện pháp bảo vệ [6]. Một số rào cản khác
cũng đã được báo cáo bao gồm thùng xử lý
vật sắc nhọn không được thay đổi thường
xuyên [16], hoạt động dự phòng TT do VSN
chưa được thường xuyên quan tâm [14].
Cuối cùng, theo học thuyết niềm tin sức
khỏe để cá nhân có thể tham gia vào các
hành vi bảo vệ sức khỏe cần có tín hiệu cho
hành động và sự tự hiểu quả của mỗi cá
nhân điều dưỡng. Trong tín hiệu cho hành
động, đó có thể là việc tổ chức tập huấn của
bệnh viện về phòng rủi ro nghề nghiệp, sự
giám sát của phòng điều dưỡng trong thực
hành của điều dưỡng... Tuy nhiên, trong
thực tế những năm gần đây bệnh viện chưa
thực sự chú trọng trong việc tập huấn NVYT,
mảng tiêm an toàn cho người bệnh được
chú ý giám sát kiểm tra nhưng an toàn cho
điều dưỡng thì vẫn chưa được chú trọng.
Ngoài ra, mức độ tự hiệu quả của các cá
nhân là khác nhau, để cá nhân có thể tham
gia vào hành vi bảo vệ sức khỏe, họ cần đấu
tranh với các thói quen có hại đã tồn tại trước
đó và vượt qua các rào cản trong công việc
như quá tải, thiếu nhân sự, thiếu dụng cụ an
toàn Hơn thế nữa để thực hiện các hành
vi đầy đủ và tốt nhất, điều dưỡng cần phải có
kiến thức đầy đủ và toàn diện về dự phòng
TT do VSN.
Tổn thương do vật sắc nhọn là một trong
những vấn đề sức khỏe nghề nghiệp phổ
biến ở điều dưỡng. Nghiên cứu thái độ của
điều dưỡng đối với TT do VSN là một vấn đề
cần thiết để có thể dự báo hành vi cũng như
có thể xây dựng được các biện pháp can
thiệp giúp kiểm soát vấn đề sức khỏe này ở
điều dưỡng. Nghiên cứu hiện tại đã áp dụng
mô hình niềm tin sức khỏe trong đánh giá
thái độ của điều dưỡng đối với TT do VSN và
nó cung cấp dữ liệu rất hữu ích từ một khu
vực cơ sở chăm sóc sức khỏe tại Việt Nam.
Mặc dù vậy nghiên cứu chưa đề cập đến thái
độ của điều dưỡng về sự tự hiệu quả của cá
nhân và tín hiệu cho hành động khi áp dụng
mô hình niềm tin sức khỏe.
5. KẾT LUẬN
Phần lớn điều dưỡng trong nghiên cứu có
thái độ tích cực về tổn thương do vật sắc
nhọn, dựa trên học thuyết “mô hình niềm tin
sức khoẻ” có khả năng cao các điều dưỡng
trong nghiên cứu này sẽ thực hiện các biện
pháp dự phòng tổn thương do vật sắc nhọn.
Một số yếu tố được xem như là rào cản là tải
công việc, thiếu nhân sự, thiếu dụng cụ an
toàn, thiếu kiến thức về dự phòng tổn thườn
do vật sắc nhọn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hoàng Văn Khuê (2015), Thực trạng
và một số yếu tố liên quan đến tổn thương do
75
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 01
vật sắc nhọn ở điều dưỡng tại bệnh viện Đa
khoa tỉnh Bắc Giang trong 6 tháng từ tháng
9/2014 đến tháng 2/2015, Luận văn Thạc sỹ
Y tế công cộng, Trường Đại học Y tế công
cộng, Việt Nam.
2. Dương Khánh Vân (2013), Nghiên cứu
tổn thương nghề nghiệp do vật sắc nhọn
ở nhân viên y tế và giải pháp can thiệp tại
một số bệnh viện khu vực Hà Nội, Luận án
tiến sỹ, National Institute of Hygiene and
Epidemiology, Việt Nam.
3. T. Bekele et al. (2015), “Attitude,
reporting behavour and management
practice of occupational needle stick and
sharps injuries among hospital healthcare
workers in Bale zone, Southeast Ethiopia: a
cross-sectional study”, J Occup Med Toxicol.
10, page. 42.
4. Centers for Disease Control and
Prevention (CDC) Sharps Safety for
Healthcare Settings, https://www.cdc.gov/
sharpssafety/. Accessed by 12/2018.
5. Olufemi Oludare Aluko et al. (2016),
“Knowledge, attitudes and perceptions of
occupational hazards and safety practices in
Nigerian healthcare workers”, BMC research
notes. 9, page. 71-71.
6. Areeba Arif et al. (2018), “Knowledge,
attitudes and practices of standard
precautions among nursing professionals
at a teaching hospital”, Original Article. 33,
page. 314-319.
7. Tolesa Bekele et al. (2015), “Attitude,
reporting behavour and management practice
of occupational needle stick and sharps
injuries among hospital healthcare workers
in Bale zone, Southeast Ethiopia: a cross-
sectional study”, Journal of occupational
medicine and toxicology (London, England).
10, page. 42-42.
8. C. E. Cooke and J. M. Stephens (2017),
“Clinical, economic, and humanistic burden
of needlestick injuries in healthcare workers”,
Med Devices (Auckl). 10, page. 225-235.
9. M. Honda et al. (2011), “Sharps injuries
among nurses in a Thai regional hospital:
prevalence and risk factors”, Int J Occup
Environ Med. 2(4), page. 215-23.
10. G Mohammed et al. (2018),
“Knowledge, attitude, self-efficacy and
practice of standard precaution measures by
nursing and midwifery students in Damaturu,
North-Eastern Nigeria”, International Journal
of Advanced Community Medicine. 1(2),
page. 41-46.
11. Dimie Ogoina et al. (2015), “Knowledge,
attitude and practice of standard precautions
of infection control by hospital workers in
two tertiary hospitals in Nigeria”, Journal of
infection prevention. 16(1), page. 16-22.
12. Varsha K. Pavithran et al. (2015),
“Knowledge, attitude, and practice of needle
stick and sharps injuries among dental
professionals of Bangalore, India”, Journal
of International Society of Preventive &
Community Dentistry. 5(5), page. 406-412.
13. Sheng-Li Huang et al. (2017),
“Sharp instrument injuries among hospital
healthcare workers in mainland China: a
cross-sectional study”, BMJ open. 7(9),
page. e017761-e017761.
14. Anitha Madhavan et al. (2019),
“Comparison of knowledge, attitude, and
practices regarding needle-stick injury
among health care providers”, Journal of
family medicine and primary care. 8(3),
page. 840-845.
15. Irwin M. Rosenstock (1974), “Historical
Origins of the Health Belief Model”, Health
Education Monographs. 2(4), page. 328-335.
16. Asgad suliman et al. (2016),
“Knowledge, Attitude and Practice Towards
Needle Stick Injury Among Health Care
Workers in a Tertiary Sudanese Hospital”,
South American Journal of Clinical Research.
1.
17. World Health Organization (2010),
WHO best practices for injections and
related procedures toolkit, World Health
Organization, , Geneva, Switzerland.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
thai_do_doi_voi_ton_thuong_do_vat_sac_nhon_cua_dieu_duong_mo.pdf