Markovic và CS (2001) [6] đánh giá
ảnh hưởng của TSNCT lên chức năng
thận tiến hành trên xạ hình thận chức
năng với 99mTc-DTPA, đánh giá kết quả
trước và sau TSNCT theo các mốc thời
gian trước và sau TSNCT 7 ngày và sau
3 tháng. Kết quả, chức năng thận không
khác biệt trước và sau điều trị 7 ngày và
sau 3 tháng, thời gian đạt đỉnh hấp thụ
hoạt chất (Tmax) giảm có ý nghĩa thống
kê (p < 0,05), tác giả kết luận MLCT được
cải thiện sau 3 tháng điều trị sỏi thận
bằng TSNCT. Naito và CS (1995) [7]
nghiên cứu ảnh hưởng của TSNCT (máy
tán sỏi MPL9000) lên chức năng thận có
sỏi được điều trị trên xạ hình thận chức
năng trước và sau điều trị, kết quả không
có thay đổi đáng kể về hoạt động lọc và
bài tiết của thận có sỏi ở thời điểm trước
và sau TSNCT 1 ngày, 1 tháng. Tuy
nhiên, phân tích biểu đồ kéo dài trong 30
phút trong thời gian 24 giờ đầu sau
TSNCT cho thấy có hiện tượng ứ đọng
bài tiết nước tiểu (đình trệ bài tiết thuốc),
đặc biệt là vùng thận trực tiếp chịu tác
động của sóng xung kích mặc dù không
có sự tắc nghẽn đường bài xuất nước
tiểu. Sự thay đổi này phục hồi hoàn toàn
và không còn dấu hiệu gì sau 1 tháng.
Tác giả kết luận, điều trị sỏi thận bằng
TSNCT trên máy MPL9000 làm giảm khu
trú (vị trí tán sỏi) tạm thời chức năng bài
tiết nước tiểu tại thận có sỏi được điều trị,
ảnh hưởng rất ít hoặc không tác động
đến hoạt động bài tiết nước tiểu của thận.
Kết quả này tương đồng với nghiên cứu
của Nguyễn Khoa Hùng [1] điều trị sỏi đài
dưới thận bằng TSNCT. Kết quả này phù
hợp với nghiên cứu của chúng tôi: Mặc
dù chỉ số urea và creatinin thay đổi trong
24 giờ đầu của từng phương pháp LSTQD
và TSNCT, nhưng kết quả chung khi kết
hợp 2 phương pháp không thấy thay đổi
2 chỉ số này trước và sau điều trị và
MLCT trên xạ hình thận.
Trong nghiên cứu này, chúng tôi chưa
xác định rõ được phân bố bắt xạ khu trú
trên từng vị trí của mỗi thận trên xạ hình,
đặc biệt là vị trí tạo đường hầm vào thận
trong LSTQD và những TH có biến chứng
chảy máu hoặc vị trí đài thận có sỏi được
TSNCT. Do đó, chưa đánh giá được
nguy cơ tổn thương nhu mô thận khu trú
do tác động của đường hầm trong
LSTQD và sóng xung kích trong TSNCT
tại vị trí can thiệp.
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 4 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Thay đổi chức năng thận trong điều trị sỏi san hô bằng kết hợp phương pháp lấy sỏi thận qua da với tán sỏi ngoài cơ thể, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 5-2020
62
THAY ĐỔI CHỨC NĂNG THẬN TRONG ĐIỀU TRỊ SỎI SAN HÔ
BẰNG KẾT HỢP PHƯƠNG PHÁP LẤY SỎI THẬN QUA DA VỚI
TÁN SỎI NGOÀI CƠ THỂ
Kiều Đức Vinh1, Trần Các1, Nguyễn Phú Việt2
TÓM TẮT
Mục tiêu: Đánh giá chức năng thận sau điều trị sỏi san hô bằng phương pháp kết hợp lấy
sỏi thận qua da (LSTQD) với tán sỏi ngoài cơ thể (TSNCT). Đối tượng và phương pháp: Nghiên
cứu tiến cứu trên 77 bệnh nhân (BN) với 80 sỏi san hô thận được điều trị bằng kết hợp phương
pháp LSTQD với TSNCT tại Bệnh viện TWQĐ 108 từ tháng 9/2014 - 9/2017. Trong đó, chức
năng thận được khảo sát qua 53 trường hợp (TH) chụp thận thuốc tĩnh mạch và 54 TH xạ hình
thận với hoạt chất Tc99m-DTPA. Kết quả: Sau can thiệp, chức năng bài tiết và lưu thông
đường dẫn niệu cải thiện rõ rệt với 100% TH thận ngấm thuốc cản quang phút thứ 15 và 56,6%
(30/53 TH) thận không giãn sau điều trị so với trước điều trị đều có giãn đài bể thận (100%) (p =
0,008). Trên xạ hình thận với thận được điều trị, chức năng phân biệt tương đối giảm nhẹ có ý
nghĩa thống kê (50 ± 14% và 49 ± 14%, p = 0,02). Kết luận: Phương pháp kết hợp LSTQD với
TSNCT điều trị sỏi san hô làm giảm chức năng thận, nhưng không làm thay đổi đáng kể mức
lọc cầu thận (MLCT). Kết hợp 2 kỹ thuật này trong điều trị sỏi san hô thận giải quyết lưu thông
đường dẫn niệu, cải thiện rõ mức độ giãn ứ nước thận trước và sau điều trị.
* Từ khoá: Sỏi san hô; Chức năng thận; Lấy sỏi thận qua da; Tán sỏi ngoài cơ thể.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Hiện nay, các phương pháp điều trị sỏi
thận ít sang chấn được ứng dụng một
cách tối ưu hoá để hạn chế ảnh hưởng
đến chức năng thận, trong đó LSTQD và
TSNCT là 2 phương pháp phổ biến nhất.
Phương pháp kết hợp LSTQD với TSNCT
trong điều trị sỏi san hô cũng đã được áp
dụng nhằm nâng cao hiệu quả sạch sỏi
và giảm mức độ sang chấn cho nhu mô
thận. Để đánh giá kết quả can thiệp bằng
kết hợp 2 kỹ thuật này, chúng tôi tiến
hành nghiên cứu: Đánh giá chức năng
thận trước và sau điều trị sỏi san hô bằng
phương pháp kết hợp LSTQD với TSNCT.
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
1. Đối tượng nghiên cứu
77 BN (gồm 80 thận) có sỏi san hô
được điều trị bằng phương pháp kết hợp
LSTQD với TSNCT tại Bệnh viện TWQĐ
108 từ tháng 9/2014 - 9/2017.
1Khoa Ngoại Tiết niệu, Bệnh viện TWQĐ 108
2Khoa Ngoại Tiết niệu, Bệnh viện Quân y 103, Học viện Quân y
Người phản hồi: Kiều Đức Vinh (kieuvinh2006@gmail.com)
Ngày nhận bài: 02/6/2020
Ngày bài báo được đăng: 18/6/2020
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 5-2020
63
2. Phương tiện nghiên cứu
Bộ dụng cụ LSTQD với nong cứng
bằng kim loại của Alken kết hợp ống
nhựa Amplatz; máy tán sỏi nội soi Swiss
Lithoclast Master với cơ chế siêu âm và
xung hơi; máy TSNCT Modulith SLX F2
với cơ chế phá sỏi điện từ trường.
3. Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu tiến cứu, mô tả cắt ngang,
không đối chứng.
* Các bước tiến hành:
- Bước 1: Lấy sỏi thận qua da.
- Bước 2: Điều trị tiếp phần sỏi còn lại
bằng TSNCT.
* Các chỉ số nghiên cứu đánh giá chức
năng thận:
Chỉ số urea và creatinin máu tại các
thời điểm trước điều trị, 24 giờ sau
LSTQD (n = 77), 24 giờ sau TSNCT
(n = 41) và sau điều trị 1 tháng (n = 42).
Dựa trên xạ hình thận chức năng
trước và sau điều trị 1 tháng (n = 54):
MLCT chung, MLCT riêng biệt thận được
điều trị, chức năng phân biệt tương đối
của thận được điều trị dựa trên mức độ
bắt xạ đo được trên xạ hình thận.
Dựa trên thận thuốc tĩnh mạch trước
và sau điều trị 1 tháng (n = 53): Mức độ
giãn đài bể thận, thận ngấm thuốc cản
quang sau tiêm tĩnh mạch ở phút thứ 15.
* Xử lý số liệu: Phân tích so sánh cặp
từng chỉ số trước và sau điều trị bằng
phần mềm SPSS 25.0.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
1. Đặc điểm nhóm nghiên cứu
Tuổi trung bình 54 ± 11 (từ 27 - 78 tuổi). Nam giới chiếm tỷ lệ cao hơn nữ giới
(57,7% so với 42,5%).
Kích thước sỏi trung bình 46 ± 13 mm (từ 25 - 84 mm).
Thời gian nằm viện sau can thiệp trung bình 7,3 ± 2,2 ngày.
2. Biến đổi đài bể thận trước và sau can thiệp
Bảng 1: Hình thái đài bể thận trước và sau điều trị trên UIV.
Độ giãn
đài bể thận
n (%)
(n = 80)
Trước điều trị n (%)
(n = 53)
Sau điều trị n (%)
(n = 53)
Không giãn 0 (0,0) 0 (0,0) 30 (56,6)
Độ I 55 (68,8) 34 (64,2) 21 (39,6)
Độ II 25 (31,2) 19 (35,8) 2 (3,8)
53/80 TH chụp UIV sau điều trị. Chức năng bài tiết nước tiểu của thận được điều trị
đảm bảo tốt, mức độ lưu thông nước tiểu sau điều trị đạt kết quả tốt với 56,6% (30/53
TH) đài bể thận không giãn sau điều trị (p = 0,008).
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 5-2020
64
Bảng 2: Thay đổi tỷ lệ thận giãn trước và sau điều trị.
Sau điều trị n (%)
Mức độ giãn đài bể thận
Không giãn Độ I Độ II
Tổng
Không giãn 0 (0,0) 0 (0,0) 0 (0,0) 0 (0,0)
Độ I 24 (70,6) 10 (29,4) 0 (0,0) 34 (100,0)
Trước điều trị
Độ II 6 (31,6) 11 (57,9) 2 (10,2) 19 (100,0)
Độ giãn đài bể thận cải thiện rõ rệt: 70,6% thận giãn độ I trước mổ không còn giãn
sau mổ, 57,9% thận giãn độ II giảm xuống độ I, chỉ còn 2 TH thận giãn độ II. Sự khác
biệt có ý nghĩa thống kê (p = 0,009).
3. Biến đổi mức lọc cầu thận trước và sau can thiệp
Bảng 3: Thay đổi sớm về chỉ số urea và creatinin sau 24 giờ LSTQD.
Chỉ số n Trước điều trị ( ± SD) Sau LSTQD ( ± SD) p
Urea (mmol/l) 77 5,8 ± 1,6 5,4 ± 1,7 0,064
Creatinin (µmol/l) 77 85 ± 26 86 ± 33 0,773
Không có thay đổi về chỉ số urea và creatinine huyết thanh trước và sau khi LSTQD.
Bảng 4: Thay đổi sớm về chỉ số urea và creatinin sau 24 giờ TSNCT.
Chỉ số n Trước TSNCT ( ± SD) Sau TSNCT ( ± SD) p
Urea (mmol/l) 41 5,3 ± 1,7 6,2 ± 1,7 0,000
Creatinin (µmol/l) 41 85 ± 28 85 ± 27 0,902
Nồng độ urea huyết thanh tăng đáng kể sau TSNCT sau 24 giờ (p = 0,000), chỉ số
creatinin thay đổi không đáng kể (p > 0,05).
Bảng 5: Thay đổi chỉ số urea và creatinin trước và sau LSTQD và TSNCT.
Chỉ số n Trước điều trị ( ± SD) Sau điều trị ( ± SD) p
Urea (mmol/l) 42 5,8 ± 1,7 6,0 ± 1,5 0,311
Creatinin (µmol/l) 42 86 ± 28 87 ± 25 0,513
Chức năng thận theo chỉ số urea và creatinin không thay đổi (p > 0,05).
Bảng 6: Xạ hình thận chức năng trước và sau điều trị.
Xạ hình thận chức năng n Trước điều trị ( ± SD) Sau điều trị ( ± SD) p
Tỷ lệ hấp thu xạ trên thận điều trị (%) 54 50 ± 14 49 ± 14 0,02
MLCT chung (ml/phút) 54 92 ± 24 88 ± 24 0,284
MLCT riêng thận điều trị (ml/phút) 54 45 ± 13 43 ± 16 0,232
Giá trị trung bình chức năng thận được điều trị trên xạ hình thận giảm từ 50% xuống
49% sau điều trị (p = 0,02).
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 5-2020
65
Mức lọc cầu thận chung và riêng biệt trên thận can thiệp giảm sau điều trị, sự khác
biệt không có ý nghĩa thống kê (p = 0,284 và p = 0,232).
Bảng 7: Thay đổi tỷ lệ suy thận trước và sau điều trị.
Chỉ số Trước điều trị n (%) Sau điều trị n (%) p
MLCT ≥ 60 ml/phút 50 (92,6%) 44 (81,5%)
MLCT < 60 ml/phút 4 (7,4%) 1 (1,9%) 0,436
Trong số 50 TH không suy thận trước điều trị, có 6 TH (12%) suy thận. Trong 4 TH
suy thận trước điều trị, có 3 TH chức năng thận cải thiện. Tuy nhiên, sự khác biệt
không có ý nghĩa thống kê (p = 0,436).
BÀN LUẬN
1. Tình trạng giãn đài bể thận
Kết quả chụp UIV trước và sau điều trị
cho thấy thuốc ngấm trên thận trong 15
phút đầu tiên ở cả 53 TH (100%), lưu
thông bài xuất nước tiểu cải thiện rõ rệt.
Thể hiện rõ ở 56,6% (30/53 TH) đài bể
thận không giãn so với trước điều trị đều
có giãn (100%). Đài bể thận giãn độ I
giảm từ 34 TH (34/53 = 64,2%) xuống 21
TH (21/53 = 39,6%), đài bể thận giãn độ II
giảm từ 19 TH (19/53 = 35,8%) xuống 2
TH (2/53 = 3,8%) (p = 0,008). Sau điều trị,
có tới 70,6% (24/34 TH) thận giãn độ I
không còn giãn sau điều trị. Trong số 19
TH thận giãn độ II, sau điều trị có 31,6%
(6/19 TH) thận không còn giãn và 57,9%
(11/19 TH) thận đã co lại, đánh giá giãn
độ I di chứng do sỏi gây ra. Sự khác biệt
có ý nghĩa thống kê (p = 0,009).
Bệnh nhân sỏi thận bị tắc nghẽn
đường bài tiết nước tiểu do sỏi, dẫn đến
ứ nước giãn đài bể thận, bề dày nhu mô
thận bị thu hẹp, các đơn vị thận bị tổn
thương mạn tính không hồi phục. Chính
vì vậy, sau khi lấy sỏi, hệ thống bài tiết
nước tiểu lưu thông tốt nhưng chức năng
thận không hồi phục mà ngược lại có thể
giảm chức năng thận do các tác động của
đường hầm nong qua nhu mô thận trong
LSTQD và sóng xung kích trong TSNCT
lên nhu mô thận.
2. Thay đổi mức lọc cầu thận trước,
trong và sau điều trị
Chỉ số urea huyết thanh trung bình
trước điều trị (5,8 ± 1,6 mmol/l) giảm không
đáng kể sau thì LSTQD trong 24 giờ
(5,4 ± 1,7 mmol/l) (p = 0,064), chỉ số
này tăng lên sau TSNCT trong 24 giờ
(từ 5,3 ± 1,7 mmol/l lên 6,2 ± 1,7 mmol/l),
sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p = 0,000).
So sánh trước điều trị và sau điều trị
> 1 tháng cho thấy, mức urea huyết thanh
trung bình tăng từ 5,8 ± 1,7 mmol/l lên
6,0 ± 1,5 mmol/l, sự khác biệt không có
ý nghĩa thống kê (p = 0,311).
Chỉ số creatinin huyết thanh trung bình
được đánh giá từng giai đoạn trước
điều trị (85 ± 26 µmol/l) và sau LSTQD
(86 ± 33 µmol/l) không có sự khác biệt
(p = 0,773). Sau TSNCT, chỉ số creatinin
trung bình không thay đổi (lần lượt là
85 ± 28 µmol/l và 85 ± 27 µmol/l ; p = 0,902).
So sánh trước và sau điều trị 1 tháng, chỉ
số creatininhuyết thanh trung bình tăng,
nhưng không có ý nghĩa thống kê (p = 0,513)
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 5-2020
66
(trước và sau can thiệp lần lượt là 86 ±
28 µmol/l và 87 ± 25 µmol/l).
2 TH thận đơn độc do thận đối diện bị
cắt vì bệnh lý thận mất chức năng lành
tính, 2 TH thận bên đối diện giảm nặng
chức năng (xạ hình thận chức năng còn <
20%). Kết quả 4 TH này chức năng thận
không giảm sau điều trị.
Trên thực tế, chỉ số urea và creatinin
không thể đánh giá đầy đủ chức năng
thận vì chức năng thận được bù trừ của
thận bên còn lại. Tuy nhiên, khi can thiệp
tác động vào một thận (thận có sỏi) sẽ có
hiện tượng phản ứng co mạch cấp tính
trong 6 giờ đầu ở cả 2 thận (Handa, [3]).
Do đó, các chỉ số urea và creatinine phần
nào đánh giá sự thay đổi của chức năng
thận do các can thiệp kỹ thuật tác động ở
thời điểm này. Các chỉ số này đặc biệt có
giá trị trên những TH thận đơn độc hoặc
đơn độc về mặt chức năng. Trong nghiên
cứu của chúng tôi, 4 TH không thay đổi
về chức năng thận trước và sau can thiệp
kỹ thuật.
Nghiên cứu của Handa và CS (2009)
[3] thực nghiệm trên thận lợn và hồi cứu
trên thận người được LSTQD với 1 đường
hầm và 2 đường hầm, đánh giá chức
năng riêng biệt trên thận được can thiệp
và chức năng chung của 2 thận. Tác giả
kết luận, tại thời điểm cấp tính (6 giờ đầu)
sau LSTQD có hiện tượng phản ứng co
mạch tại thận dẫn đến giảm lưu lượng
huyết tương qua thận, giảm MLCT trong
6 giờ đầu sau LSTQD, hiện tượng phản
ứng co mạch xảy ra ở cả 2 thận (thận
được LSTQD và thận lành bên đối diện).
Nghiên cứu của chúng tôi, các xét nghiệm
thực hiện trong 24 giờ (> 12 - 24 giờ),
thời điểm thận bị tác động của can thiệp
LSTQD trong 6 giờ đầu đã qua đi, chức
năng thận hồi phục và hoạt động bình
thường. Kết quả, không thấy thay đổi
đáng kể về chỉ số urea và creatinin trong
thì LSTQD.
Kết quả xét nghiệm xạ hình thận chức
năng với 99mTc-DTPA trước và sau điều
trị cho thấy: Chức năng phân biệt tương
đối riêng thận có sỏi được điều trị sau
điều trị (49 ± 14%) giảm so với trước can
thiệp (50 ± 14%) (p = 0,020). MLCT
chung và riêng thận được can thiệp sau
điều trị cũng giảm đáng kể so với trước
điều trị, lần lượt là 92 ± 24 ml/phút và
45 ± 15 ml/phút so với 88 ± 24 ml/phút
và 43 ± 16 ml/phút, sự khác biệt không có
ý nghĩa thông kê (p = 0,284 và p = 0,232).
Tỷ lệ BN chuyển từ không suy thận
sang suy thận là 6/50 TH (12%), ngược
lại có 3/4 TH (75%) phục hồi suy thận sau
điều trị. Như vậy, BN suy thận tăng từ
4/54 TH lên 7/54 TH. Tuy nhiên, kết quả
này không có ý nghĩa thống kê (p = 0,436),
do đó chưa có đầy đủ bằng chứng để
khẳng định can thiệp bằng LSTQD và
TSNCT vào thận gây tăng nguy cơ
suy thận.
Fentes P (2014) [4] nghiên cứu 30 TH
được điều trị sỏi thận bằng LSTQD, dựa
trên các chỉ số creatinine và xạ hình thận
chức năng với 99mTc-DMSA, đánh giá
chức năng thận có sỏi được điều trị trước
và sau LSTQD sau 3 tháng. Kết quả cho
thấy sự tác động của LSTQD lên chức
năng thận rất ít, chủ yếu tại vị trí tạo
đường hầm vào thận, trong đó biến
chứng chảy máu là yếu tố làm tăng nguy
cơ giảm chức năng thận. Moskovitz và
CS (2006) [5] nghiên cứu trên xạ hình
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 5-2020
67
chức năng thận với 99mTc-DMSA (n = 76)
trước và sau LSTQD từ 1,5 đến 24 tháng
thấy tại vùng nhu mô thận có đường hầm
đi qua giảm hấp thu thuốc đáng kể,
nhưng đánh giá tổng thể chức năng thận
được can thiệp không có thay đổi về tình
trạng hấp thu thuốc trước và sau LSTQD.
Nghiên cứu của chúng tôi, chức năng
thận giảm có ý nghĩa thống kê sau điều trị
(50 ± 14% so với 49 ± 14%; p = 0,020).
Tuy nhiên, MLCT chung và riêng của thận
điều trị không khác biệt trước và sau
điều trị.
Markovic và CS (2001) [6] đánh giá
ảnh hưởng của TSNCT lên chức năng
thận tiến hành trên xạ hình thận chức
năng với 99mTc-DTPA, đánh giá kết quả
trước và sau TSNCT theo các mốc thời
gian trước và sau TSNCT 7 ngày và sau
3 tháng. Kết quả, chức năng thận không
khác biệt trước và sau điều trị 7 ngày và
sau 3 tháng, thời gian đạt đỉnh hấp thụ
hoạt chất (Tmax) giảm có ý nghĩa thống
kê (p < 0,05), tác giả kết luận MLCT được
cải thiện sau 3 tháng điều trị sỏi thận
bằng TSNCT. Naito và CS (1995) [7]
nghiên cứu ảnh hưởng của TSNCT (máy
tán sỏi MPL9000) lên chức năng thận có
sỏi được điều trị trên xạ hình thận chức
năng trước và sau điều trị, kết quả không
có thay đổi đáng kể về hoạt động lọc và
bài tiết của thận có sỏi ở thời điểm trước
và sau TSNCT 1 ngày, 1 tháng. Tuy
nhiên, phân tích biểu đồ kéo dài trong 30
phút trong thời gian 24 giờ đầu sau
TSNCT cho thấy có hiện tượng ứ đọng
bài tiết nước tiểu (đình trệ bài tiết thuốc),
đặc biệt là vùng thận trực tiếp chịu tác
động của sóng xung kích mặc dù không
có sự tắc nghẽn đường bài xuất nước
tiểu. Sự thay đổi này phục hồi hoàn toàn
và không còn dấu hiệu gì sau 1 tháng.
Tác giả kết luận, điều trị sỏi thận bằng
TSNCT trên máy MPL9000 làm giảm khu
trú (vị trí tán sỏi) tạm thời chức năng bài
tiết nước tiểu tại thận có sỏi được điều trị,
ảnh hưởng rất ít hoặc không tác động
đến hoạt động bài tiết nước tiểu của thận.
Kết quả này tương đồng với nghiên cứu
của Nguyễn Khoa Hùng [1] điều trị sỏi đài
dưới thận bằng TSNCT. Kết quả này phù
hợp với nghiên cứu của chúng tôi: Mặc
dù chỉ số urea và creatinin thay đổi trong
24 giờ đầu của từng phương pháp LSTQD
và TSNCT, nhưng kết quả chung khi kết
hợp 2 phương pháp không thấy thay đổi
2 chỉ số này trước và sau điều trị và
MLCT trên xạ hình thận.
Trong nghiên cứu này, chúng tôi chưa
xác định rõ được phân bố bắt xạ khu trú
trên từng vị trí của mỗi thận trên xạ hình,
đặc biệt là vị trí tạo đường hầm vào thận
trong LSTQD và những TH có biến chứng
chảy máu hoặc vị trí đài thận có sỏi được
TSNCT. Do đó, chưa đánh giá được
nguy cơ tổn thương nhu mô thận khu trú
do tác động của đường hầm trong
LSTQD và sóng xung kích trong TSNCT
tại vị trí can thiệp.
KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu thay đổi chức năng
thận trước và sau điều trị sỏi san hô bằng
phương pháp kết hợp LSTQD với
TSNCT, chúng tôi rút ra nhận xét:
- Tỷ lệ giãn đài bể thận giảm so với
trước điều trị có ý nghĩa (p < 0,05).
- Giảm chức năng thận khi đánh giá
mức hấp thu xạ trên hình ảnh xạ thận
chức năng, nhưng không làm thay đổi
đáng kể MLCT.
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 5-2020
68
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Khoa Hùng. Nghiên cứu điều trị
sỏi đài dưới thận bằng tán sỏi ngoài cơ thể
và ảnh hưởng của sóng xung kích lên thận.
Luận án Tiến sĩ. Học viện Quân y 2011.
2. Preminger GM. Chapter 1: AUA
guideline on management of staghorn calculi:
diagnosis and treatment recommendations.
J Urol 2005; 173(6).
3. Handa K, Evan P, Willis R, et al. Renal
functional effects of multiple-tract percutaneous
access. Journal of Endourology 2009;
23:1951-1956.
4. Pérez-Fentes D, Cortés J, Gude F, et al.
Does percutaneous nephrolithotomy and its
outcomes have an impact on renal function?
Quantitative analysis using SPECT-CT
DMSA. Urolithiasis 2014; 42(5):461-467.
5. Moskovitz B, Halachmi S, Sopov V, et al.
Effect of percutaneous nephrolithotripsy on
renal function: Assessment with quantitative
SPECT of 99mTc-DMSA renal scintigraphy.
Journal of Endourology 2006; 20(2):102-106.
6. Marković S, Butorajac J, Ajdinović B,
et al. Dynamic scintigraphy of the kidney using
99m-Tc-DTPA before and after extracorporeal
shock wave lithotripsy. Vojnosanitetski pregled
2001; 58(3):259-261.
7. Naito S, Yoshida T, Ogata N, et al.
Effect of MPL 9000 extracorporeal shock
wave lithotripsy on renal hemodynamics and
urine flow: Assessment by 99mTc-DTPA renal
scintigraphy. Urologia internationalis 1995;
54(2):85-88.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
thay_doi_chuc_nang_than_trong_dieu_tri_soi_san_ho_bang_ket_h.pdf