Nhận xét:
‐ Trong các bệnh nhân NKH đáp ứng với
điều trị kháng sinh (KS) ở 24 giờ đầu, có 38/95
TH (40%) nồng độ PCT2 thay đổi trước sự thay
đổi của tri giác hoặc sốt hoặc sốt và tri giác.
‐ Trong 38/95 TH (40%) nồng độ PCT thay
đổi sớm so với DHLS có:
<0,5ng/ml: 2/5 TH = 40%
≥0,5 – 2ng/ml: 9/14 = 64%
>2 – 10ng/ml: 10/31 = 32%
>10ng/ml: 17/45 = 37%
‐ Trong nhóm không đáp ứng với điều trị
KS, lúc đầu nồng độ PCT thay đổi theo chiều
hướng giảm nhẹ (3/55 TH = 5,5%), nhưng sau vài
ngày điều trị thì nồng độ PCT không giảm nữa
Tuy có sự khác biệt về nồng độ PCT giữa
2 nhóm vi khuẩn Gram (+), Gram (‐), nhưng sự
khác biệt này không có ý nghĩa thống kê
(p=0,06).
‐ Schetz P và CS(8): trên các bệnh nhân
NKH nặng không đáp ứng với điều trị KS,
nồng độ PCT thay đổi rất ít và sự khác biệt
nồng độ giữa các lần xét nghiệm không có ý
nghĩa thống kê (p>0,05).
So sánh sự thay đổi giữa nồng độ PCT và
DHLS (tri giác, nhiệt độ) trên các bệnh nhân
NKH có đáp ứng và không đáp ứng với điều trị
kháng sinh.
Thay đổi giữa nhóm đáp ứng và không đáp
ứng với điều trị kháng sinh.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 5 trang
5 trang | 
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 446 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Theo dõi kết quả điều trị nhiễm khuẩn huyết ‐ choáng nhiễm khuẩn bằng động học của Procalcitonin, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Số 4 * 2014 Nghiên cứu Y học
 107
THEO DÕI KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ NHIỄM KHUẨN HUYẾT‐ 
CHOÁNG NHIỄM KHUẨN BẰNG ĐỘNG HỌC CỦA PROCALCITONIN 
Lê Xuân Trường*, Nguyễn Thanh Bảo*, Nguyễn Thị Băng Sương*, Vũ Kiều Diễm Trinh**,  
Trần Thị Hương Lý*** 
TÓM TẮT 
Đặt vấn đề: Nhiễm khuẩn huyết (NKH)‐choáng nhiễm khuẩn là một bệnh lý nặng, tỷ lệ tử vong cao. Để 
đánh giá điều trị kháng sinh có đáp ứng hay không trong thời gian sớm nhất trước khi có những dấu hiệu đáp 
ứng lâm sàng, y văn thế giới đề cập đến procalcitonin (PCT), một chỉ tố sinh học mới có thể theo dõi việc đáp ứng 
hay không đáp ứng trong sử dụng kháng sinh. 
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Mô tả cắt ngang hàng loạt trường hợp và tiến cứu ở các bệnh 
nhân có tuổi từ 16 đến 94 đang điều trị tại Bệnh viện Chợ Rẫy TP.HCM và Bệnh viện Đa khoa Kiên Giang tỉnh 
Kiên giang từ tháng 01/2013 đến tháng 6/2014. Gồm các bệnh nhân NKH, cấy máu dương tính (n=150 TH). 
Định  lượng PCT  bằng  phương  pháp miễn  dịch  phát  quang  (ILMA),  thuốc  thử  hãng BRAHMS‐PCT, máy 
Lumat LB 9507 của Đức.  
Kết quả: Giá trị trung vị của PCT ở nhóm NKH = 12,58 (0,09‐448,2)ng/ml. Ở nhóm NKH đáp ứng với 
điều  trị KS:  trung vị  của PCT  thay  đổi  từ 11,46  (0,10‐182,0)ng/ml → 8,41  (0,2‐135,1)ng/ml → 3,01  (0,08‐
78,26)ng/ml → 0,90 (0,07‐23,11)ng/ml. Sự thay đổi giữa các lần xét nghiệm có ý nghĩa thống kê (p<0,001). Ở 
nhóm NKH không đáp ứng với điều trị KS: trung vị của PCT thay đổi từ 21,02 (0,09‐448,2)ng/ml → 19,61 
(0,11‐310,0)ng/ml → 3,19 (0,68‐87,88)ng/ml → 4,12 (0,82‐92,35)ng/ml. Sự thay đổi giữa các  lần xét nghiệm 
không có ý nghĩa thống kê (p>0,05). 
Kết luận: Có thể theo dõi kết quả điều trị kháng sinh trên các bệnh nhân NKH bằng động học của PCT. 
Nồng độ PCT giảm khi bệnh nhân đáp ứng với điều trị kháng sinh. Khi không đáp ứng với điều trị kháng sinh, 
nồng độ PCT tăng hoặc thay đổi nhưng sự khác biệt giữa các lần xét nghiệm không có ý nghĩa thống kê. 
Từ khóa: procalcitonin, nhiễm khuẩn huyết.  
ABSTRACT 
DIAGNOSTIC VALUE AND TREATMENT MONITORING OF PROCALCITONIN IN SEPSIS 
 AND SEPTIC SHOCK  
Le Xuan Truong, Nguyen Thanh Bao, Nguyen Thi Bang Suong, Vu Kieu Diem Trinh, 
 Tran Thi Huong Ly * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ No 4 ‐ 2014: 107 ‐ 111 
Back ground: Sepsis and septic shock is the serious illness and mortality rate is high. Diagnosis depends on 
blood culture but it is slow and low positive. On the other way, antibiotic treatment almost depends on physical 
experience at the first time. This problem leads non response to antibiotic treatment. In order to estimate antibiotic 
treatment have response or haven’t response in early time before clinical signals change in order to change early 
antibiotic treatment. The aim of the study is to confirm diagnostic value of procalcitonin and follow‐up in sepsis 
and septic shock by the kinetic of procalcitonin. 
Material and method: Research 150 septic patients (positive blood culture) with ages from 16 to 94 at Cho 
Ray Hospital, HoChiMinh City and General Hospital Kien Giang, Kien Giang province from Jan 2013 to Jun 
2014. Procalcitonin quantitative analysis by BRAHMS‐PCT‐LIA, Lumat LB 9507, Germany. 
* Đại học Y Dược TP.HCM, ** Bệnh viện Đa Khoa Kiên Giang, *** Trường Cao Đẳng Y tế Kiên Giang 
Tác giả liên lạc: TS. Lê Xuân Trường   ĐT: 01269872057  Email: lxtruong57@yahoo.com 
Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Số 4 * 2014
 108
Results: Mean value of serum PCT in septic patients is 12.58ng/ml. Follow‐up of kinetic of PCT 
who respond well to antibiotic treatment, mean value of PCT1 before antibiotic treatment is 11.46ng/ml 
(10‐182); after 1 day of antibiotic treatment PCT2 is 8.41ng/ml (0.2‐135.1); after 2 days of antibiotic 
treatment PCT3  is  3.01ng/ml  (0.08‐78.26);  after  6  days  of  antibiotic  treatment PCT4  is  0.90ng/ml 
(0.07‐23.11). The changes of kinetic of PCT at group non response to antibiotic treatment: PCT1: 21.02 
ng/ml (0.09‐448.2) → PCT2: 19.61 ng/ml (0.11‐310) → PCT3: 3.19 ng/ml (0.68‐87.88) → PCT4: 4.12 
ng/ml (0.82‐92.35). There are no differences in PCT levels between groups, (p>0.05).  
Conclusion: Mean value of serum PCT in septic patients is high. The kinetic of PCT can follow‐up 
treatment  in  sepsis,  septic  shock. PCT  concentration  decreases when  patients  response  to  antibiotic 
treatment and PCT concentration increases or change but no differences when patients non response to 
antibiotic treatment. 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Nhiễm khuẩn huyết  (NKH)  là một bệnh  lý 
nặng, tỷ lệ tử vong cao, triệu chứng lâm sàng đa 
dạng, đôi khi không điển hình. Chẩn đoán xác 
định dựa vào cấy máu, nhưng kết quả cấy máu 
thì chậm và dương tính thấp. Mặc khác, những 
nghiên cứu gần đây cho thấy việc xuất hiện các 
chủng  vi  khuẩn  kháng  thuốc  đối  với  một  số 
kháng  sinh  trong  nhiễm  khuẩn  bệnh  viện  nói 
chung và NKH‐choáng nhiễm khuẩn nói  riêng 
ngày một gia tăng(1,3,4,5,6,9,11). 
Một trong những hậu quả của việc gia tăng 
kháng  thuốc  là do  điều  trị kháng  sinh không 
phù  hợp  và  đây  là  một  yếu  tố  quan  trọng 
quyết định tỷ lệ tử vong ở bệnh viện. Việc lựa 
chọn kháng sinh ban đầu trước khi có kết quả 
xét nghiệm vi  sinh,  các nhà  lâm  sàng  thường 
dựa vào kinh nghiệm  tức  là dựa vào  tần suất 
các  loại  vi  khuẩn  gây  ra  nhiễm  khuẩn  bệnh 
viện đang  lưu hành và tình hình kháng thuốc 
của chúng. Chiến lược sử dụng kháng sinh ban 
đầu  theo  kinh  nghiệm  hiện  nay  là  lựa  chọn 
kháng sinh phổ rộng đủ mạnh, bao phủ phần 
lớn các tác nhân gây bệnh. Sau khi có kết quả 
xét nghiệm, kháng  sinh  sẽ  điều  chỉnh  lại  cho 
phù hợp. Tuy nhiên trong NKH‐choáng nhiễm 
khuẩn  vấn  đề  chẩn  đoán  đúng  và  việc  lựa 
chọn  đúng  kháng  sinh  là  yếu  tố  quan  trọng 
hàng đầu, khẩn cấp(7,10,12). 
Để giải quyết vấn đề trên, gần đây y văn thế 
giới đã đề cập đến một chỉ điểm sinh học mới là 
procalcitonin  (PCT),  PCT  có  thể  giúp  các  nhà 
lâm sàng có thể theo dõi được việc đáp ứng hay 
không đáp ứng trong việc sử dụng kháng sinh, 
Để đánh giá đầy đủ vai trỏ của PCT trong chẩn 
đoán cũng như theo dõi đáp ứng điều trị kháng 
sinh  (KS)  trong  nhiễm  khuẩn  huyết‐choáng 
nhiễm khuẩn, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề 
tài này(2,7,8,9,10). 
ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Đối tượng nghiên cứu 
Gồm những bệnh nhân NKH  có  tuổi  ≥  16. 
Thời gian thực hiện đề tài từ tháng 01/2013 đến 
tháng 6/2014  tại Bệnh viện Chợ Rẫy TP.Hồ Chí 
Minh  và  Bệnh  viện  Đa  khoa Kiên Giang‐Tỉnh 
Kiên Giang. 
Phương pháp nghiên cứu 
Thiết kế nghiên cứu: mô  tả cắt ngang hàng 
loạt trường hợp và tiến cứu. 
Cỡ mẫu được tính là những bệnh nhân NKH 
nhập vào 2 bệnh viện  ở khoảng  thời gian  trên. 
Lấy mẫu 4  lần để  làm động học,  lần 1:  lúc mới 
nhập viện trước khi điều trị kháng sinh (PCT1), 
lần 2: sau 24 giờ điều trị kháng sinh (PCT2), lần 
3: sau 48 giờ điều  trị kháng sinh  (PCT3),  lần 4: 
sau 6 ngày điều trị kháng sinh (PCT4). 
Phương  pháp  định  lượng:  sử  dụng  test 
BRAHMS‐PCT LIA. Máy Lumat LB  9507  của 
Đức. 
Xử lý số liệu bằng phần mềm SPSS 18.0. 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Số 4 * 2014 Nghiên cứu Y học
 109
KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN 
Theo dõi động học của PCT để xem việc sử 
dụng kháng  sinh ban  đầu  có phù hợp không 
để  thay  đổi  phát  đồ  điều  trị  trong  thời  gian 
sớm nhất. 
Nồng độ PCT ở nhóm NKH đáp ứng với điều 
trị kháng sinh 
Bảng 1. Nồng độ PCT (ng/ml) thay đổi trước và sau 
điều trị ở nhóm NKH đáp ứng với điều trị kháng sinh 
PCT T1 T2 T3 T4 
N 95 95 95 93 
Trung 
bình 
22,23 ± 
32,84 
15,25 ± 
24,72 
7,92 ± 
12,97 
2,76 ± 
4,96 
Trung vị 11,46 8,41 3,01 0,90 
Nhỏ nhất 0,10 0,20 0,08 0,07 
Lớn nhất 182,0 135,1 78,26 23,11 
p <0,001 <0,001 <0,001 
Biểu đồ 1. Đường biểu diễn động học của nhóm bệnh 
nhân NKH đáp ứng với điều trị kháng sinh 
‐ Ở lần xét nghiệm thứ 2 sau 24 giờ điều trị 
kháng  sinh  có  83/95  TH,  chiếm  88%  nồng  độ 
PCT2 giảm ngay so với PCT1. Chỉ có 12/95 TH, 
chiếm 12% nồng  độ PCT2 còn  tăng. Tuy nhiên 
tất  cả  các TH này  (95/95 TH=100%)  sau  48 giờ 
điều trị KS đều có nồng độ PCT3 giảm. 
‐ Nhóm BN đáp ứng có thời gian nhập viện 
sớm,  trung bình  là 5,5 ngày  sau khi bệnh khởi 
phát, 54/95 TH (chiếm 56%) có điều trị KS tiêm 
và  31/95 TH  (chiếm  32%)  có  bệnh  lý  nền  kèm 
theo như đái  tháo đường, viêm  đa khớp, gout, 
cao huyết áp... 
Theo một số tác giả: 
‐ N.N.Tuấn(6): trước và sau 72 giờ điều trị KS 
trung vị PCT của nhóm NKH  thay  từ 9,9ng/ml 
→ 6,3ng/ml và nhóm choáng nhiễm khuẩn thay 
đổi từ 62,9ng/ml → 7,1ng/ml.  
‐  L.X.Trường(5):  trước  và  sau  điều  trị  KS  2 
ngày,  6  ngày  trung  vị  của  PCT  thay  đổi  từ 
7,13ng/ml → 1,23ng/ml → 0,35ng/ml. 
Nồng độ PCT ở nhóm NKH không đáp ứng với 
điều trị kháng sinh 
Bảng 2. Nồng độ PCT (ng/ml) thay đổi trước và sau 
điều trị KS ở nhóm NKH không đáp ứng điều trị 
kháng sinh 
PCT T1 T2 T3 T4 
N 55 46 24 19 
Trung 
bình 
48,73 ± 
84,57 
41,84 ± 
64,73 
16,96 ± 
23,94 
15,31 ± 
22,78 
Trung vị 21,02 19,61 3,19 4,12 
Nhỏ nhất 0,09 0,11 0,68 0,82 
Lớn nhất 448,2 310,0 87,88 92,35 
p 0,589 0,132 0,082 
Biểu đồ 2. Đường biểu diễn động học của nhóm bệnh 
nhân NKH không đáp ứng với điều trị kháng sinh 
‐ Có  27/55 TH  (chiếm  49%)  nồng  độ PCT2 
cao hơn PCT1  sau 24 giờ điều  trị KS. Có 14/27 
TH  (chiếm  52%) nồng  độ PCT3  cao hơn PCT2 
sau 48 giờ điều trị KS. Có 8/14 TH (chiếm 57%) 
nồng  độ PCT4  tăng  cao hơn PCT3  sau  6 ngày 
điều trị KS. 
‐ Theo dõi trung vị của PCT giữa các lần xét 
nghiệm  cho  thấy  nồng  độ  PCT4  tăng  cao  hơn 
PCT3 trên nhóm bệnh nhân không đáp ứng với 
điều trị KS. 
‐  Nhóm  BN  không  đáp  ứng  có  thời  gian 
nhập viện hơi muộn, trung bình là 8,5 ngày sau 
0
5
10
15
20
25
T1 T2 T3 T4
Trung bình Trung vị 
0
20
40
60
T1 T2 T3 T4
Trung bình Trung vị 
Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Số 4 * 2014
 110
khi  bệnh  khởi  phát,  46/55  TH  (chiếm  83%)  có 
điều  trị  KS  tiêm  và  41/55  TH  (chiếm  75%)  có 
bệnh lý nền kèm theo như đái tháo đường, viêm 
đa khớp, gout. 
Theo một số nghiên cứu: 
‐  L.X.Trường(2):  nghiên  cứu  24  trường  hợp 
NKH không  đáp  ứng với  điều  trị KS,  trung vị 
của PCT  thay  đổi  trước và  sau 2 ngày, 6 ngày 
điều  trị  như  sau:  19,36ng/ml  →  22,74ng/ml  → 
17,23 → 52ng/ml. 
‐  Schetz  P  và  CS(8):  trên  các  bệnh  nhân 
NKH  nặng  không  đáp  ứng  với  điều  trị  KS, 
nồng  độ  PCT  thay  đổi  rất  ít  và  sự  khác  biệt 
nồng  độ giữa  các  lần  xét nghiệm không  có ý 
nghĩa thống kê (p>0,05). 
So  sánh  sự  thay  đổi giữa nồng  độ PCT và 
DHLS  (tri  giác,  nhiệt  độ)  trên  các  bệnh  nhân 
NKH có đáp ứng và không đáp ứng với điều trị 
kháng sinh. 
Thay đổi giữa nhóm đáp ứng và không đáp 
ứng với điều trị kháng sinh. 
Bảng 3. Tỷ lệ % PCT và DHLS thay đổi giữa 2 nhóm đáp ứng và không đáp ứng với điều trị kháng sinh  
% PCT Đáp ứng với điều trị KS (N=95 
TH) 
Không đáp ứng với điều trị KS (N=55) Tổng số (n=150)
Thay đổi sớm so với DHLS 38 (40%) 3 (5,5%) 41 (27,3%) 
Thay đổi tương ứng với DHLS 57 (60%) 52 (94,5%) 109 (72,7%) 
Phép kiểm 2, p = 0,074. 
 Nhận xét: 
‐  Trong  các  bệnh  nhân NKH  đáp  ứng  với 
điều  trị kháng sinh  (KS) ở 24 giờ đầu, có 38/95 
TH (40%) nồng độ PCT2 thay đổi trước sự thay 
đổi của tri giác hoặc sốt hoặc sốt và tri giác. 
‐ Trong 38/95 TH  (40%) nồng  độ PCT  thay 
đổi sớm so với DHLS có: 
<0,5ng/ml: 2/5 TH = 40% 
≥0,5 – 2ng/ml: 9/14 = 64%  
>2 – 10ng/ml: 10/31 = 32% 
>10ng/ml: 17/45 = 37% 
‐ Trong  nhóm  không  đáp  ứng  với  điều  trị 
KS,  lúc  đầu  nồng  độ PCT  thay  đổi  theo  chiều 
hướng giảm nhẹ (3/55 TH = 5,5%), nhưng sau vài 
ngày điều trị thì nồng độ PCT không giảm nữa 
hoặc  tăng  trở  lại  trước khi bệnh nhân  tử vong 
hoặc xin về vì suy đa cơ quan (12/55 TH = 22%). 
So  sánh  sự  thay  đổi  của PCT  so với DHLS 
(tri giác, nhiệt độ). 
Bảng 4. So sánh sự thay đổi của PCT so với DHLS 
(tri giác, nhiệt độ) 
PCT Bệnh nhân Tỷ lệ%
PCT thay đổi sớm so với tri giác 8 19,5 
PCT thay đổi sớm so với nhiệt độ 27 65,9 
PCT thay đổi sớm so với tri giác 
và nhiệt độ 
6 14,6 
Tổng cộng 41 100 
PCT  thay đổi sớm hơn dấu hiệu  thân nhiệt 
(sốt) chiếm tỷ lệ cao nhất (27/41 TH = 65,9%).  
So sánh nồng độ PCT theo vi khuẩn Gram 
(+), Gram (‐) 
Bảng 5. So sánh nồng độ PCT theo loại vi khuẩn 
Nồng độ (ng/ml) Gram (+) (N = 73) Gram (-) (N = 77) Tổng (N = 150) 
Trung bình 22,86 ± 30,87 40,56 ± 75,37 31,95 ± 58,62 
Trung vị 11,46 14,08 12,58 
Nhỏ nhất 0,09 0,10 0,09 
Lớn nhất 128,97 448,2 448,2 
p = 0, 064  
‐ Tuy có sự khác biệt về nồng độ PCT giữa 
2 nhóm vi khuẩn Gram (+), Gram (‐), nhưng sự 
khác  biệt  này  không  có  ý  nghĩa  thống  kê 
(p=0,06). 
Tỷ  lệ % vi khuẩn nhạy và không nhạy với 
kháng sinh đồ 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Số 4 * 2014 Nghiên cứu Y học
 111
Bảng 6 Tỷ lệ % vi khuẩn nhạy và không nhạy với kháng sinh đồ 
Nhóm bệnh KSĐ Tiến triển bệnh 
Đáp ứng với điều trị KS: 95/150 TH Nhạy KSĐ 76 TH (80%) Tốt, xuất viện. 
Không nhạy KSĐ 19 TH (20%) Đổi KSĐ → tốt, xuất viện. 
Không đáp ứng với điều trị KS: 55/150 TH Nhạy KSĐ 19 TH (34%) - Suy đa cơ quan 
- Có điều trị dài ngày trước đó 
- Bệnh lý nền kèm theo 
Không nhạy KSĐ 36 TH (66%) - Tử vong, xin về 
Trong 55 TH không đáp ứng với điều trị có 
28/55 TH xin về hoặc chuyển viện  trước khi có 
kết quả KSĐ (chỉ ≤ 3 ngày nằm viện): 
‐ Cấy máu  cho  thấy  có  6 TH phù hợp  với 
KSĐ nhưng không đáp ứng với điều  trị, chúng 
tôi thấy các BN này có thời gian dài điều trị tại 
nhà (tự mua thuốc uống hoặc đến bác sĩ tư điều 
trị), có bệnh cảnh lâm sàng rất nặng do suy đa cơ 
quan hoặc  có bệnh  lý nền khác kèm  theo như 
ĐTĐ, gout, viêm đa khớp. 
‐ 22 TH còn lại cho kết quả không nhạy với 
kháng sinh đồ. 
 KẾT LUẬN 
Động học của PCT có  thể giúp  theo dõi kết 
quả  điều  trị kháng  sinh  trên bệnh nhân nhiễm 
khuẩn  huyết‐choáng  nhiễm  khuẩn.  Nồng  độ 
PCT giảm khi bệnh nhân  đáp  ứng với  điều  trị 
kháng  sinh.  PCT  thay  đổi  không  có  ý  nghĩa 
thống  kê  khi  kháng  sinh  điều  trị  không  thích 
hợp hoặc bệnh nhân suy đa cơ quan. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Barbie  J.  et  al  (2013).  “Kinetics  of  changes  in  serum 
concentrations of procalcitonin,  interleukin‐6, and C‐reactive 
protein  after  elective  abdominal  surgery.  Can  it  be  usedto 
detect postoperative”. Coll Antropol. 2013 Mar; 37(1): 195‐201. 
2. Koivula  L.  and  col.  (2011).  “Elevated  procalcitonin  predicts 
Gram‐negative sepsis  in haematological patients with  febrile 
neutropenia”. Scand J Infect Dis. 2011 Jul; 43(6‐7): 471‐8.   
3. Kopterides  P,  Tsangaris  I.  (2012).  “Procalcitoni  and  sepsis: 
recent  data  on  diagnostic  utility  prognostic  potential  and 
therapeutic  implications  in  critically  ill  patients”.  Minerva 
Anestesiol. 2012 Jul; 78(7): 823‐35. 
4. Lê Xuân Trường (2009). “Giá trị chẩn đoán và tiên lượng của 
procalcitonin huyết thanh trong nhiễm trùng huyết”. Tạp chí 
Y học TP.HCM, tập 13, phụ bản số 1, tr.189‐194.   
5. Lê Xuân  Trường  (2009).  “Theo  dõi  kết  quả  điều  trị  nhiễm 
trùng  huyết  và  choáng  nhiễm  trùng  bằng  động  học  của 
procalcitonin”. Tạp chí Y học TP.HCM, tập 13, phụ bản số 1, 
tr.213‐221. 
6. Nguyễn Nghiêm Tuấn (2008). “Vai trò của procalcitonin trong 
chẩn đoán và điều trị nhiễm khuẩn huyết”. Luận văn Thạc sĩ 
Y học. Chuyên ngành Nội khoa – Đại học Y Dược TP.Hồ Chí 
Minh. 
7. Ruiz‐Rodriguez  JC,  Rello  J  (2013).  “Predicting  treatment 
failure in severe sepsis and septic shock: looking for the Holy 
Grail”. Crit Care. 2013 Sep 4; 17(5): 180.   
8. Schuetz P, Maurer P  (2013).  ”Procalcitonin decease  over  72 
hours in US critical care units predicts fatal outcome in sepsis 
patients”. Crit Care. 2013 Jun 20; 17(3): R115. 
9. Theodorou  VP  and  col.  (2012).  “Procalcitonin  and 
procalcitonin  kinetics  for  diagnosis  and  prognosis  of 
intravascular  catheter‐related  bloodstream  infections  in 
selected  critically  ill  patients:  a  prospective  observational 
study”. BMC Infect Dis. 2012 Oct 8; 12:247. 
10. Venkatesh  B,  Kennedy  D,  Kruger  DS,  Looke  D  (2011). 
“Changes  in  serum  procalcitonin  and  C  reactive  protein 
following  antimicrobialtherapy  as  a  guide  to  antibiotic 
duration  in  the  critically  ill:  a  prospective  evaluation”. 
Anaesth Intensive Care, 2011 Jan, 37(1), pp. 20‐26. 
11. Weidner  W,  Wagenlehner  FM  (2014),  “Procalcitonin  as  a 
diagnostic marker for sepsis”, Eur Urol, 66(1), pp. 178.    
12. Yukioka H., Yoshida G., Kurita  S., Kato N  (2012).  ”Plasma 
procalcitonin  in  sepsis  and  organ  failure”. Ann Acad Med 
Singapore. 30(5). pp. 528‐531.   
Ngày nhận bài báo:       03/08/2014 
Ngày phản biện đánh giá bài báo:   10/08/2014 
Ngày bài báo được đăng:     30/08/2014 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 theo_doi_ket_qua_dieu_tri_nhiem_khuan_huyet_choang_nhiem_khu.pdf theo_doi_ket_qua_dieu_tri_nhiem_khuan_huyet_choang_nhiem_khu.pdf