Như vậy, với thị trường nội địa, doanh nghiệp VN ít bị phụ thuộc vào biến động của thị trường thế giới. Thị trường nội địa sẽ là nơi để doanh nghiệp “tập dượt” trong cạnh tranh, là điểm tựa để vươn ra thị trường thế giới. Vì muốn cạnh tranh được trên thị trường quốc tế, trước hết phải cạnh tranh được trên thị trường nội địa. Chiếm lĩnh thị trường nội địa là một nội dung kinh tế có tính nguyên tắc nhằm ổn định môi trường kinh doanh, đảm bảo điều kiện cho sự phát triển bền vững của nền kinh tế. Để chiếm lĩnh thị trường nội địa đòi hỏi phải có nhận thức đầy đủ và nỗ lực của toàn xã hội, không chỉ là các doanh nghiệp mà còn có sự tham gia tích cực của các cơ quan quản lý nhà nước, các bộ ngành và cả người tiêu dùngl
7 trang |
Chia sẻ: huongthu9 | Lượt xem: 516 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Thị trường nội địa Việt Nam: Tiềm lực và chính sách phát triển, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Số 25(35) - Tháng 11-12/2015 PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP
Nghiên Cứu & Trao Đổi
29
1. Tiềm lực thị trường nội địa:
Cơ hội lớn cho doanh nghiệp
VN
Thị trường nội địa VN được
đánh giá là rất hấp dẫn,với quy mô
dân số đông khoảng 90 triệu người,
trong đó có tới 60% là dân số trẻ.
Với một lượng lớn là dân số trẻ như
vậy thì đây được coi là thị trường
tiềm năng. Nhu cầu của người dân
ngày một tăng cao, mức chi tiêu cá
nhân của người tiêu dùng VN ngày
một tăng, chi tiêu cá nhân tăng cao
thể hiện mức thu nhập và sức mua
có khả năng thanh toán của dân cư
tăng lên.
Các doanh nghiệp đã, đang tiếp
cận và nắm bắt nhu cầu thị trường
trong từng vùng, từng nhóm dân
cư, kể cả vùng sâu, vùng xa có khó
khăn về giao thông và vận chuyển
hàng hóa để sản xuất và kinh doanh,
mở rộng mạng lưới bán buôn, bán
lẻ nên tổng mức hàng hóa tăng lên.
Ðây được coi như một tín hiệu rất
tốt cho việc tiếp tục phát triển thị
trường nội địa khi thị trường xuất
khẩu bị thu hẹp do tác động của
suy thoái kinh tế toàn cầu.
Mấy năm trở lại đây, chủ trương
phát triển thị trường trong nước
để kích thích tiêu dùng nội địa đã
được triển khai khá rộng khắp trên
cả nước với sự chỉ đạo và điều
hành của nhiều bộ, ngành và các
cấp, từ Trung ương tới địa phương,
sự tham gia của các doanh nghiệp
và sự đồng thuận của các tầng lớp
nhân dân nên đã tạo được những
kết quả quan trọng cho sự phát
triển của đất nước. Theo các công
bố của Tổng cục Thống kê VN thì
sức mua hàng hóa và dịch vụ tiêu
dùng của các tầng lớp dân cư liên
tục tăng qua các năm gần đây, đặc
biệt là trong ngành thương nghiệp.
Chính sức mua của nhân dân được
kích thích nên đã thúc đẩy thị
trường nội địa hoạt động tích cực
và sôi nổi, hiệu quả cao hơn.
Cuộc vận động “Người VN ưu
tiên dùng hàng VN” đã có tác động
lớn đối tới người tiêu dùng trong
nước, hàng hóa của các doanh
nghiệp trong nước có cơ hội tiếp cận
đến người tiêu dùng. Các chương
trình khuyến mại, giảm giá của các
nhà phân phối, các đợt đưa hàng về
nông thôn, về các khu công nghiệp,
các đợt tổ chức các điểm bán hàng,
ổn định giá...cũng được mở rộng.
Bên cạnh đó, nhiều doanh nghiệp
củng cố và mở rộng hệ thống phân
phối, trỉển khai các loại hình bán
buôn, bán lẻ theo hướng hiện đại
và chuyên nghiệp. Mạng lưới chợ
và các loại hình thương mại truyền
thống tiếp tục được quan tâm phát
triển, đặc biệt, thị trường miền núi
Thị trường nội địa Việt Nam:
Tiềm lực và chính sách phát triển
CảNH CHí HOàNG & TRầN THỊ MƠ
Trường Đại học Tài chính – Marketing
Nhận bài: 13/07/2015 - Duyệt đăng: 15/10/2015
Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới gần đây bắt đầu từ năm 2008 và 2009 đã tác động mạnh mẽ đến nền kinh tế VN bởi hiện nay chúng ta đã gia nhập WTO, hoà nhập ngày càng
sâu rộng với nền kinh tế thế giới. Trong suốt một thời gian dài, các
doanh nghiệp VN dường như chỉ mải mê với thị trường xuất khẩu mà
quên mất thị trường nội điạ. Chính vì vậy, khi nền kinh tế thế giới biến
động, các doanh nghiệp VN đã phải loay hoay để tìm đầu ra cho sản
phẩm cuả mình. Trong khi đó, VN là một nền kinh tế năng động cuả khu
vực Châu Á - Thái Bình Dương và là một thị trường tiềm năng và đầy
hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài.
Từ khoá: Thị trường nội địa, thị trường xuất khẩu, doanh nghiệp
VN, sức mua, đầu tư nước ngoài.
PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP Số 25(35) - Tháng 11-12/2015
Nghiên Cứu & Trao Đổi
30
và hải đảo được đảm bảo cung cấp
đủ các mặt hàng chính sách thiết
yếu...
Trong năm 2009, Chính phủ
đã dành khoảng 50 tỷ đồng cho
các hoạt động xúc tiến thương mại
thị trường nội địa. Ngoài ra, bên
cạnh việc triển khai hiệu quả các
gói kích thích kinh tế thúc đẩy thị
trường nội địa phát triển, Bộ Công
thương cũng đã chỉ đạo các doanh
nghiệp trong ngành áp dụng nhiều
giải pháp khai thác và chiếm lĩnh
trở lại thị trường nội địa; triển khai
các đợt khuyến mại, các đợt đưa
hàng về nông thôn, tổ chức các hội
chợ, triển lãm; nhiều doanh nghiệp
thương mại đã củng cố và phát
triển hệ thống phân phối, triển khai
các loại hình bán buôn, bán lẻ mới
hiện đại và chuyên nghiệp.
Kể từ năm 2010, thị trường
trong nước có những bước phát
triển khá, nhờ các giải pháp kích
cầu tiêu dùng thông qua Cuộc
vận động “Người VN ưu tiên
dùng hàng VN”, các chương trình
khuyến mại, giảm giá của các
doanh nghiệp phân phối, các đợt
đưa hàng về nông thôn, về các khu
công nghiệp, các đợt tổ chức hội
chợ, triển lãm, thực hiện các đề án
hỗ trợ lãi suất hoặc cho vay vốn để
mở các điểm bán hàng ổn định giá...
Nhiều doanh nghiệp thương mại đã
củng cố và phát triển hệ thống phân
phối, triển khai các loại hình bán
buôn, bán lẻ mới theo hướng hiện
đại và chuyên nghiệp. Mạng lưới
chợ và loại hình thương mại truyền
thống tiếp tục được quan tâm phát
triển. Thị trường miền núi, hải
đảo được bảo đảm cung cấp đầy
đủ các mặt hàng chính sách như
sách vở, muối ăn, dầu hỏa,...Nhờ
đó, cân đối cung cầu các mặt hàng
trọng yếu được bảo đảm, đáp ứng
đủ nhu cầu sản xuất và tiêu dùng
của nhân dân, không để xảy ra tình
trạng “sốt hàng, sốt giá”. Một số
biểu hiện “sốt hàng” đã kịp thời
được can thiệp nên thị trường đã
bình ổn nhanh trở lại. Tuy nhiên,
do giá không ít loại hàng hóa tăng,
cộng thêm với diễn biến phức tạp
của thời tiết, dịch bệnh gây giảm
nguồn cung một số mặt hàng nông
sản thực phẩm thiết yếu đã dẫn đến
tăng CPI và ảnh hưởng đến tiêu thụ
sản phẩm, đến đời sống nhân dân.
Năm 2012, kinh tế thế giới biến
động phức tạp, thương mại toàn cầu
sụt giảm mạnh đã tác động tiêu cực
đến nền kinh tế nước ta. Tuy nhiên,
thị trường trong nước vẫn tiếp tục
phát triển, trở thành chỗ dựa tin cậy
cho hàng hóa VN. Hàng hóa được
cung ứng đầy đủ, đáp ứng nhu cầu
sản xuất và tiêu dùng của nhân dân,
đã góp phần thúc đẩy thương mại
trong nước phát triển, bảo đảm cân
đối cung cầu, bình ổn thị trường -
giá cả, phát triển kết cấu hạ tầng
thương mại, mở rộng hệ thống
phân phối trên khắp các địa bàn,
tăng cường xúc tiến thương mại
Hình 1: Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng
theo ngành kinh doanh
Nguồn: Tổng cục Thống kê
Hình 2: Số lượng chợ, siêu thị, trung tâm thương mại tăng qua các năm
Nguồn: Tổng cục Thống kê
Số 25(35) - Tháng 11-12/2015 PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP
Nghiên Cứu & Trao Đổi
31
Tên ngành
Chỉ số
tiêu thụ
ngành
CN chế
biến,
chế tạo
tháng
5/2015
so với
tháng
5/2014
(%)
Chỉ số
tiêu thụ
ngành
CN chế
biến,
chế tạo
tháng
5 năm
2015 so
cùng kỳ
2014
(%)
Chỉ số
tiêu thụ
ngành
CN chế
biến,
chế tạo
5 tháng
2015 so
cùng kỳ
2014
(%)
Chỉ số
tồn kho
ngành
CN chế
biến, chế
tạo
01/6/
2015 so
tháng
trước
(%)
Chỉ số
tồn kho
ngành
CN chế
biến,
chế tạo
01/6/
2015
so với
cùng kỳ
2014
(%)
Tổng số 107.5 112.3 112.7 103.2 111.8
Sản xuất chế biến thực
phẩm 106.5 107.2 105.8 107.7 145.1
Sản xuất đồ uống 104.8 103.1 105.4 119.0 185.0
Sản xuất sản phẩm thuốc
lá 97.1 102.7 97.4 107.0 94.4
Dệt 111.6 128.7 114.5 95.9 107.8
Sản xuất trang phục 104.4 113.9 107.4 108.0 104.6
Sản xuất da và các sản
phẩm có liên quan 100.3 100.3 112.0 101.6 144.2
Sản xuất giấy và sản
phẩm từ giấy 102.8 115.9 112.4 99.2 141.4
Sản xuất hóa chất và sản
phẩm hóa chất 103.5 106.7 108.8 107.4 105.7
Sản xuất thuốc, hóa dược
và dược liệu 126.0 125.0 110.9 99.4 108.5
Sản xuất sản phẩm từ
cao su và plastic 106.7 112.6 105.9 99.5 92.7
Sản xuất sản phẩm từ
khoáng phi kim loại khác 94.6 110.5 110.3 118.0 127.9
Sản xuất kim loại 112.9 121.4 123.3 103.4 120.9
Sản xuất sản phẩm từ
kim loại đúc sẵn (trừ máy
móc, thiết bị)
110.0 104.7 108.0 98.9 133.5
Sản xuất sản phẩm điện
tử, máy vi tính và sản
phẩm quang học
136.1 131.7 130.6 73.8 240.4
Sản xuất thiết bị điện 118.2 108.4 110.2 96.0 97.9
Sản xuất xe có động cơ 93.3 116.7 135.5 92.4 101.6
Sản xuất phương tiện vận
tải khác 107.6 104.1 93.1 86.9 87.3
Sản xuất giường, tủ, bàn,
ghế 98.2 123.5 106.2 88.8 125.7
thị trường trong nước hưởng ứng
Cuộc vận động “Người VN ưu tiên
dùng hàng VN” sau hơn 3 năm
thực hiện đã đạt được nhiều kết quả
đáng ghi nhận.
Nhìn chung sản xuất công
nghiệp sau một thời gian dài với
nhiều khó khăn và giữ nhịp độ tăng
trưởng chậm đã có những tín hiệu
tốt, tuy chưa thực sự đột phá nhưng
đã cho thấy sự phục hồi khả quan
của sản xuất công nghiệp nói riêng
và nền kinh tế nói chung trong thời
gian tới. Một số ngành có tốc độ
tăng chỉ số sản xuất cao so với tốc
độ tăng chung của toàn ngành như:
Sản xuất trang phục, tăng 19%; chế
biến gỗ và sản phẩm từ gỗ, mây
tre giang, tăng 39%; sản xuất giấy
và sản phẩm từ giấy, tăng 21,3%;
sản xuất hóa chất và sản phẩm hóa
chất, tăng 9%; sản xuất thuốc, hóa
dược và dược liệu, tăng 23,5%; sản
xuất sản phẩm từ khoáng phi kim
loại khác, tăng 16,5%; sản xuất xe
có động cơ, tăng 39,3%..
Tuy nhiên, một số ngành, do
vẫn chưa thoát ra được khó khăn về
tiêu thụ sản phẩm, hoặc thiếu vốn
lưu động cho sản xuất... có chỉ số
sản xuất giảm so với cùng kỳ năm
trước như: Sản xuất chế biến thực
phẩm, giảm 7,8%; công nghiệp
dệt, giảm 9,6%; sản xuất sản phẩm
cao su, plastic, giảm 14%; sản xuất
kim loại, giảm 18,4%...
Tính đến 1/6/2015, chỉ số tồn
kho của toàn ngành công nghiệp
chế biến, chế tạo tăng 46,4% so với
cùng thời điểm năm trước. Một số
ngành sản phẩm sức tiêu thụ sản
phẩm còn chậm, nhiều khó khăn,
lượng tồn kho ứ đọng kéo dài, mức
tồn kho cộng dồn tương đối cao
so với cùng kỳ như: Sản xuất chế
biến thực phẩm, tăng 30,5%; chế
biến gỗ và sản phẩm từ gỗ, mây tre
giang đan, tăng 106%; sản xuất hóa
chất và sản phẩm hóa chất, tăng
117,1%.. Tuy chỉ số tồn kho sản
phẩm, nhìn chung vẫn ở mức cao,
nhưng xét theo chỉ số sản xuất và
chỉ số tiêu thụ sản phẩm thì kết quả
chung đã phản ánh sản xuất phục
hồi và đã được đẩy mạnh, sức tiêu
thụ sản phẩm đã có những chuyển
biến tích cực và khả quan hơn so
với năm ngoái
Bảng 1: Chỉ số tiêu thụ và tồn kho ngành công nghiệp chế biến
Nguồn: Tổng cục Thống kê
PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP Số 25(35) - Tháng 11-12/2015
Nghiên Cứu & Trao Đổi
32
2. Phát triển thị trường nội địa:
Những khó khăn và thách thức
2.1. Khó khăn, thách thức từ thị
trường
Thị trường trong nước cũng
đang phải đối mặt với không ít khó
khăn, thách thức trong tình hình
nền kinh tế tăng trưởng nhưng chưa
thực sự ổn định, khả năng tái lạm
phát cao vẫn tiềm ẩn, nhập siêu còn
lớn, sức cạnh tranh của nền kinh tế
còn thấp, chỉ số giá tiêu dùng của cả
nước mặc dù đã giảm nhiều so với
năm 2011 nhưng vẫn ở mức cao
đã tác động đến thị trường tiêu thụ
trong nước, các biện pháp phòng
chống buôn lậu, gian lận thương
mại còn chưa đầy đủ, chưa đồng
bộ, sự phối hợp giữa các lực lượng
chức năng chưa thật chặt chẽ, tinh
thần trách nhiệm của một bộ phận
cán bộ trong lực lượng quản lý thị
trường chưa cao dẫn đến hậu quả
công tác này còn hạn chế. Bên
cạnh đó, tình hình chính trị, kinh
tế thế giới có nhiều biến động khó
lường, khủng hoảng nợ công ở một
số nước châu Âu, sức ép tăng giá
hàng hóa và nguy cơ lạm phát tại
nhiều nước trên thế giới tăng cao
cùng với phản ứng tâm lý sau việc
tăng giá một số hàng hóa thiết yếu
đã ảnh hưởng lớn đến sức mua của
người tiêu dùng và hiệu quả sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Tất cả cho thấy thị trường nội địa
đang chờ đợi những giải pháp để
phát triển bền vững và ổn định.
2.2. Khó khăn, thách thức từ phía
các doanh nghiệp
Hàng Việt đã đáp ứng một phần
nhu cầu của thị trường và dần chiếm
ưu thế trong lòng người Việt. Tuy
nhiên, các chương trình phủ sóng
hàng Việt còn thiếu tính bền vững,
chưa tạo lập được kênh phân phối
vững chắc tại địa bàn nông thôn,
khu vực chiếm tới 70% doanh số
hàng tiêu dùng nhưng chưa được
khai thác nhiều. Cùng với đó, việc
quảng bá sản phẩm của các doanh
nghiệp hiện nay còn yếu khiến tính
cạnh tranh của một số loại hàng
Việt còn thấp.
Hàng Việt có chất lượng, nguồn
gốc xuất xứ rõ ràng hiện chỉ được
bày bán chủ yếu tại các hệ thống
bán buôn, bán lẻ hiện đại như siêu
thị, trung tâm thương mại – vốn là
nơi được kiểm soát chặt chẽ các
quy định về chất lượng và xuất
xứ hàng hóa. Trong khi đó, tại các
vùng nông thôn, thị trường tiêu
dùng tiềm năng, số lượng các siêu
thị chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ nên hàng
hóa được phân phối chủ yếu ở
mạng lưới chợ. Tuy nhiên, đa phần
sản phẩm hàng Việt được phân
phối tại đây chủ yếu là hàng lương
thực, thực phẩm thiết yếu, còn các
nhóm sản phẩm như may mặc, đồ
điện tử, gia dụng...tỷ lệ hàng Việt
khá thấp.
Bên cạnh đó, việc cạnh tranh
với hàng ngoại cùng tâm lý “sính
ngoại” của người dân vẫn đang là
bài toán muôn thuở của các doanh
nghiệp.
2.3. Khó khăn, thách thức từ cơ
chế hỗ trợ doanh nghiệp
VN với dân số khoảng 90 triệu
dân và được đánh giá là thị trường
tiềm năng, nhưng mảnh đất được
coi là “màu mỡ” này vẫn chưa
được khai thác đúng mức. Hàng
Việt dù đã gần hơn với người tiêu
dùng nhưng nạn hàng giả, hàng
nhái vẫn hoành hành và doanh
nghiệp đôi khi còn gặp nhiều trở
ngại khi đến với vùng sâu, vùng xa.
Muốn kích thích doanh nghiệp phát
triển hệ thống phân phối ngoài vấn
đề thuế, phí, những hỗ trợ về mặt
bằng cũng là điều kiện quan trọng
Bảng 2: Chỉ số giá tiêu dùng cả nước
Đơn vị tính: %
Nguồn: Tổng cục Thống kê
CHỈ SỐ GIÁ THÁNG 6 NĂM 2015 SO VỚI 6 tháng
đầu
năm
2015 so
với cùng
kỳ 2014
Kỳ gốc
năm
2009
Tháng
6 năm
2014
Tháng
12 năm
2014
Tháng
5 năm
2015
CHỈ SỐ GIÁ TIÊU DÙNG 159,44 101,00 100,55 100,35 100,86
1. Hàng ăn và dịch vụ ăn
uống 164,73 101,54 100,50 99,97 102,01
2. Đồ uống và thuốc lá 144,40 102,04 101,26 100,24 102,29
3. May mặc, mũ nón, giầy
dép 154,01 103,30 101,38 100,17 103,43
4. Nhà ở và vật liệu xây
dựng 167,23 98,99 101,06 100,30 97,67
5. Thiết bị và đồ dùng gia
đình 135,79 102,00 100,99 100,12 102,20
6. Thuốc và dịch vụ y tế 197,69 102,09 100,97 100,38 102,35
7. Giao thông 137,93 90,15 98,09 103,54 87,24
8. Bưu chính viễn thông 87,52 100,51 99,78 99,97 100,37
9. Giáo dục 211,36 108,25 100,13 100,00 108,30
10. Văn hóa, giải trí và du
lịch 129,36 101,72 101,34 100,26 101,56
11. Hàng hóa và dịch vụ
khác 160,39 103,02 101,72 100,12 103,16
Số 25(35) - Tháng 11-12/2015 PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP
Nghiên Cứu & Trao Đổi
33
để phát triển hệ thống phân phối.
Tuy nhiên, hiện nay, các chính sách
cho phát triển thương mại vẫn chưa
được quan tâm đúng mức và đó
cũng là lý do khiến hạ tầng thương
mại nội địa vẫn chưa phát triển.
Quản lý nhà nước về thương mại
tuy đã được đổi mới nhưng trên
nhiều mặt chưa theo kịp với thực
tiễn hoạt động thương mại, dịch
vụ. Các biện pháp điều hành của
Chính phủ là phù hợp, song việc
thực hiện còn có độ trễ, một số thủ
tục còn phức tạp, gây không ít khó
khăn cho các doanh nghiệp trong
việc tiếp cận nguồn hỗ trợ.
Chưa hình thành được những
doanh nghiệp nội địa lớn giữ vai
trò định hướng và tổ chức lưu
thông, liên kết với sản xuất và xuất
nhập khẩu tạo thành một hệ thống
phân phối hiện đại, phát triển bền
vững. Các doanh nghiệp nhỏ và
vừa ở một số lĩnh vực, ngành nghề
vẫn chưa xây dựng được thương
hiệu uy tín đối với người tiêu dùng,
làm ảnh hưởng đến khả năng cạnh
tranh của sản phẩm trong nước.
Cùng với đó, việc tiếp cận nguồn
vốn của các doanh nghiệp vừa và
nhỏ còn gặp nhiều khó khăn. Bởi
vậy, điều quan trọng là phải có cơ
chế hỗ trợ để xây dựng các cửa
hàng tiện lợi, hệ thống phân phối,
đặc biệt là ở nông thôn.
Bên cạnh sự hỗ trợ của Nhà
nước, điều quan trọng hơn cả là
bản thân các doanh nghiệp sản
xuất và phân phối cần có sự kết nối
chặt chẽ, từ đó cùng hỗ trợ nhau
trong việc tiêu thụ sản phẩm, tăng
sự hiện diện của hàng Việt tại thị
trường nội địa.
3. Chính sách phát triển
3.1. Đối với bản thân các doanh
nghiệp
Mỗi doanh nghiệp cần phải
hướng vào khách hàng, lấy khách
hàng làm trọng tâm để hoạch định
chiến lược và triển khai các chương
trình hành động ở mọi bộ phận của
doanh nghiệp, không chỉ trong
lĩnh vực tiếp thị. Từ đó giúp doanh
nghiệp đưa ra thị trường những sản
phẩm đáp ứng đựơc mong đợi của
khách hàng, bán với mức giá mà
khách hàng chấp nhận được, phân
phối ở nơi thuận tiện cho khách
hàng và làm công tác truyền thông
theo cách mà khách hàng thích.
Đồng thời mỗi doanh nghiêp phải
hướng tới xây dựng thương hiệu
và bảo vệ thương hiệu của mình.
Doanh nghiêp phải chủ động đầu tư
hoặc liên kết đầu tư đổi mới công
nghệ, tăng năng suất lao động, tăng
hiệu quả đầu tư vốn, cải thiện hàng
hoá cả về giá trị sử dụng lẫn giá giá
trị nhằm nâng dần sức cạnh tranh
của hàng nội. Không coi nhẹ công
tác tuyên truyền, quảng bá sản
phẩm nhằm xây dựng uy tín của
hàng hoá và của doanh nghiệp.
l Đối với sản xuất
- Đẩy mạnh tốc độ phát triển
vùng nguyên liệu từng bước khắc
phục những mặt cân đối khác (như:
vốn, trình độ quản lý...) để nhanh
chóng đáp ứng nguyên liệu kịp thời
cho sản xuất giảm tới mức tối đa
phụ thuộc vào nguyên liệu nhập
khẩu.
- Đẩy mạnh đầu tư mới theo
nguyên tắc đảm bảo cân đối đồng
bộ các điều kiện tối thiểu (về
nguyên liệu, vốn, cán bộ...) trên
cơ sở xác định, định hướng lâu dài
để tiến hành đầu tư từng bước phù
hợp, đảm bảo đầu tư đến đâu phát
huy hiệu quả đến đấy, đầu tư bước
trước phải làm nền và tạo đà cho
đầu tư bước sau thuận lợi và hiệu
quả hơn.
- Đi tắt đón đầu trước hết trong
công tác nghiên cứu và phát triển.
- Đầu tư những thiết bị công
nghệ hiện đại nhất đối với những
khâu có tính chất quyết định đến
chất lượng sản phẩm, nâng cao
năng suất lao động , giảm chi phí,
đảm bảo sản phẩm sản xuất ra cạnh
tranh được với các mặt hàng nhập
khẩu. Những khâu khác tận dụng
khả năng kỹ thuật. công nghệ trong
nước để giảm khó khăn về vốn.
l Đối với kinh doanh thương
mại
- Khuyến khích các doanh
nghiệp xây dựng cho mình thương
hiệu những mặt hàng chủ lực để tập
trung cho công tác marketing. Tìm
mọi biện pháp hạ thấp giá thành
sản xuất để tăng sức cạnh tranh với
hàng hoá của doanh nghiệp nước
ngoài.
- Phát triển các mặt hàng phù
hợp với thị hiếu của khách hàng và
từng phân khúc thị trường.
3.2. Đối với cơ quan quản lý, điều
hành.
Nhà nước cần có biện pháp
mạnh để chống nạn hàng lậu và
ủng hộ hàng Việt bằng chính sách
thuế; xây dựng hàng rào phi thuế
quan để hạn chế hàng hóa nhập
khẩu; tiếp tục xây dựng các chính
sách, giải pháp hỗ trợ và phát triển
thị trường trong nước theo cam kết
WTO. Trong quá trình kiểm tra,
kiểm soát thị trường cần tập trung
vào các khâu từ nhập khẩu đến
nhà phân phối, tiêu dùngTrong
đó, biện pháp thực tế nhất là tập
trung kiểm tra hệ thống phân phối,
giá cả các mặt hàng để xử lý kịp
thời các hành vi cạnh tranh không
lành mạnh; theo dõi sát tình hình
diễn biến cung - cầu, giá cả của thị
trường thông qua hệ thống thu thập
và xử lý thông tin nhanh; chủ động
can thiệp kịp thời bằng các công cụ
gián tiếp là chủ yếu (như tín dụng,
lãi suất, thuế, dự trữ quốc gia) để
tác động đến thị trường thông qua
PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP Số 25(35) - Tháng 11-12/2015
Nghiên Cứu & Trao Đổi
34
các doanh nghiệp đầu nguồn.
Đổi mới cơ chế chính sách,
trước hết về tài chính, vừa huy
động được nhiều nguồn tài lực cho
xúc tiến thương mại, hoàn thiện hệ
thống xúc tiến thương mại, tạo ra
sự liên kết, phối hợp giữa các tổ
chức xúc tiến thương mại của các
địa phương, các ngành hàng, vừa
bảo đảm hài hòa lợi ích của mỗi tổ
chức, vừa phát huy sức mạnh tổng
hợp của cả hệ thống. Trên cơ sở
khảo sát tổng thể hiện trạng về cơ
sở hạ tầng cho xúc tiến thương mại,
sẽ điều tra, khảo sát và xây dựng
các dự án hài hòa trong quy hoạch
phát triển kinh tế - xã hội của toàn
quốc cũng như của địa phương.
Trên cơ sở đó tập trung tài lực xây
dựng các trung tâm hội chợ triển
lãm, trung tâm tổ chức hội nghị và
sự kiện, sàn giao dịch..., ngang tầm
khu vực và thế giới. Tăng cường
việc đào tạo với nhiều hình thức,
bằng nhiều nguồn vốn nhằm nâng
cao năng lực xúc tiến thương mại
cho cán bộ các cơ quan xúc tiến
thương mại địa phương, các hiệp
hội ngành hàng; tăng cường kỹ
năng tiếp thị, bán hàng của doanh
nghiệp.
l Về quản lý chất lượng sản
phẩm
Chính phủ nên đưa ra tiêu chuẩn
cho các loại hàng hoá và kiểm soát
thường xuyên. Ứng dụng công
nghệ điện tử, tăng cường năng lực
khai thác, tiếp nhận, phân tích, xử
lý, dự báo thông tin trong lĩnh vực
sản xuất, lưu thông, nhất là ở các sở
Công thương, các tổ chức xúc tiến
thương mại địa phương, các hiệp
hội ngành hàng. Xúc tiến đầu tư
phát triển công nghiệp nhằm góp
phần nâng cao năng lực sản xuất
hàng hóa chất lượng tốt, hợp thị
hiếu, giá cả hợp lý làm phong phú
quỹ hàng hóa, kích thích người tiêu
dùng.
Tuyên truyền, nâng cao khả
năng của người tiêu dùng nhận
biết về chất lượng, công năng hàng
hóa để thúc đẩy các nhà sản xuất
cải tiến mẫu mã, bảo đảm vệ sinh
an toàn, nâng cao chất lượng, khả
năng cạnh tranh.
l Về cơ chế, chính sách
khuyến khích phát triển và kích
thích tiêu dùng nội địa
Thực tế cho thấy khả năng tiêu
dùng sản phẩm hàng hóa ở thị
trường trong nước của các tầng lớp
dân cư, nhất là cư dân ở nông thôn
nước ta hiện còn thấp. Nguyên
nhân thì nhiều nhưng có thể thấy
rõ là do kinh tế của nước ta còn
nghèo, phân hóa giàu nghèo ngày
càng lớn, nhu cầu mua sắm hàng
hóa có khả năng thanh toán hằng
năm không lớn. Ðồng thời, đa số
dân cư có tâm lý “tích của” còn
nặng, quỹ tiết kiệm trong dân chưa
được khai thác phục vụ cho tiêu
dùng vì công việc làm ăn chưa ổn
định, nhiều rủi ro trong cuộc sống
của nhân dân thường diễn ra do
thiên tai, do nhân họa khó lường...
Ðó quả là những cản trở to lớn hạn
chế khả năng sản xuất hàng hóa,
phát triển các dịch vụ tiêu dùng
và các hoạt động dịch vụ tối thiểu
khác. Một bộ phận không nhỏ cư
dân ở nông thôn, nhất là vùng sâu,
vùng xa thuộc diện phải xóa đói,
giảm nghèo có thu nhập cực thấp
lại đang thiếu những nhu yếu phẩm
thiết yếu trong khi năng lực sản
xuất của các doanh nghiệp trong
nước lại dư thừa đang là nghịch lý
cần phải xử lý. Nếu xử lý các mâu
thuẫn này thì có thể khai thác hiệu
quả tiềm năng thị trường nội địa.
Để kích thích tiêu dùng hàng nội
địa, thiết nghĩ cần có sự phối hợp
đồng bộ bên cạnh việc đẩy mạnh
công tác thông tin, tuyên truyền,
vận động, làm cho người tiêu dùng
trong nước và ngoài nước nhận
thức đúng khả năng sản xuất, kinh
doanh của doanh nghiệp VN. Các
doanh nghiệp, người sản xuất, kinh
doanh trong nước khi triển khai
thực hiện các dự án, công trình
sử dụng các trang thiết bị, nguyên
vật liệu nội địa và dịch vụ có chất
lượng tương đương hàng ngoại
nhập để sản xuất và kinh doanh.
Rà soát, ban hành bổ sung luật
pháp, cơ chế, chính sách bảo vệ thị
trường người tiêu dùng trong nước,
sản xuất trong nước không trái với
các quy định của Tổ chức Thương
mại Thế giới, khuyến khích và định
hướng tiêu dùng của nhân dân.
Ðối với việc phát triển thị trường
trong nước và kích thích tiêu dùng
nội địa thì các chính sách của Nhà
nước phải phù hợp với thực tế phát
triển kinh tế và nhu cầu tiêu dùng
của người dân, các chính sách đó
phải tạo ra được môi trường thuận
lợi và khuôn khổ pháp lý cho hoạt
động trao đổi hàng hóa trên thị
trường trong nước và bảo đảm lòng
tin của người tiêu dùng đối với các
hàng hóa tiêu thụ.
Nhà nước cần tiếp tục có cơ chế
khuyến khích các hoạt động của
các hiệp hội, hợp tác xã, làng nghề
chuyên môn hóa theo từng chủng
loại mặt hàng, sản phẩm. Hỗ trợ
thiết thực cho các doanh nghiệp
xây dựng hệ thống thương mại điện
tử..., xây dựng các website giới
thiệu hình ảnh các công ty, lĩnh vực
kinh doanh, tìm kiếm bạn hàng,
ký kết hợp đồng, các sàn giao dịch
điện tử, thu hút khách hàng...
Kiên trì nguyên tắc về cơ chế,
chính sách ưu đãi, hỗ trợ đầu tư các
công trình, dự án phát triển kết cấu
hạ tầng thương mại; nâng cấp và
phát triển các cơ sở bán buôn, bán
lẻ thuộc các hệ thống phân phối
Số 25(35) - Tháng 11-12/2015 PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP
Nghiên Cứu & Trao Đổi
35
nòng cốt và chủ lực theo hướng
hiện đại và chuyên nghiệp, giống
như ưu đãi và hỗ trợ đầu tư phát
triển cho các lĩnh vực sản xuất kinh
doanh khác (về đất đai, thuế, tín
dụng).
l Về khâu lưu thông hàng
hoá
Bên cạnh đó, các chính sách
của Chính phủ về thị trường nội
địa cũng cần tạo được môi trường
kinh doanh dịch vụ bán buôn, bán
lẻ đều được phát triển để mọi thành
phần kinh tế, mọi chủ thể kinh tế
trong hệ thống ngành dịch vụ bán
buôn, bán lẻ đều phát triển, có vị trí
cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng.
Nhà nước cũng cần ban hành một
pháp lệnh về hệ thống bán lẻ và tổ
chức đào tạo nhân lực để nghiên
cứu phát triển thị trường, đồng thời
tiếp tục hỗ trợ các nhà bán lẻ VN
trong việc đưa hàng về nông thôn.
Có như vậy mới mở rộng được
mạng lưới bán hàng về khu vực
nông thôn.
Cần tiếp tục hoàn thiện mô hình
quản lý nhà nước các hệ thống
phân phối cho phù hợp, từ trung
ương đến địa phương, đảm bảo sự
vận hành tự nhiên và khách quan
của cơ chế thị trường trong sự định
hướng, kiểm soát và điều tiết của
Nhà nước vì mục tiêu ổn định và
phát triển bền vững thị trường trong
từng thời kỳ, góp phần ổn định và
phát triển bền vững kinh tế - xã hội
của đất nước.
l Định hướng phát triển khu
vực thị trường thành thị, nông thôn
và khu vực thị trường vùng núi,
vùng sâu, vùng xa
- Định hướng phát triển khu
vực thị trường thành thị: Thành
thị là trung tâm tiêu thụ, phân phối
hàng hoá và là đầu mối liên kết thị
trường nội vùng với ngoại vùng,
giữa thị trường trong nước với thị
trường quốc tế, có khả năng điều
tiết và định hướng thị trường xã
hội. Do vậy thị trường thành thị
cần phải được tổ chức thành nhiều
tầng, nhiều nấc, nhiều loại quy mô
đan xen nhau trong đó các tầng,
các loại quy mô có chức năng và
nhiệm vụ khác nhau. Cụ thể là phải
hình thành các tập đoàn thương
mại quy mô lớn đặt trung tâm tại
các thành thị lớn nhưng có chân
rết đến mọi khu vực của thị trường
nội địa trong cả nước. Hình thành
các công ty chuyên doanh một số
nhóm hàng lớn làm nhiệm vụ phân
phối hàng và buôn bán. Xây dựng
hệ thống kho, chợ bán buôn làm
đầu mối phân phối hàng đi các khu
vực. Hình thành các công ty kinh
doanh tổng hợp, các trung tâm
thương mại, các siêu thị để dẫn dắt
thương mại thành thị. Tổ chức lại
mạng lưới bán lẻ, các chợ theo cụm
dân cư, từng đường phố đảm bảo
trật tự văn minh thương nghiệp.
- Định hướng phát triển thị
trường nông thôn: Khu vực này
phải đảm bảo hai mục tiêu là đảm
bảo cho nông dân mua được vật
tư cho sản xuất, hàng hoá cho tiêu
dùng và sinh hoạt một cách thuận
lợi, giá cả cạnh tranh, phù hợp với
cơ chế quản lý nông nghiệp của
Nhà nước và tiêu thụ kịp thời, có
hiệu quả nguồn nông - lâm - thuỷ
sản hàng hoá của khu vực nông
thôn sáng tạo ra. Vì vậy định hướng
là phải hình thành các trung tâm,
cụm kinh tế - thương mại - dịch
vụ tại các thị trấn, thị tứ, đầu nút
giao thông. Các trung tâm này bao
gồm các cơ sở thu mua, bảo quản,
chế biến, phân loại, đóng gói, vận
chuyển, tiêu thụ nông sản và cung
ứng các sản phẩm công nghiệp.
- Định hướng phát triển khu vực
thị trường vùng núi, vùng sâu, vùng
xa: Đây là khu vực có sức sản xuất
còn thấp, hạ tầng yếu kém, kinh tế
hàng hoá chưa phát triển, một số
khu vực sản xuất còn mang nặng
tính tự cấp, tự túc. Hướng phát
triển là: Phát triển các chân rết của
các tập đoàn, các công ty thương
mại trong việc thu mua sản phẩm
hàng hoá và cung ứng hàng tư liệu
sản xuất, tư liệu tiêu dùng cho nông
dân, đồng bào dân tộc. Các chân
rết này còn có chức năng chế biến
và sơ chế nông lâm sản và có thể
gắn với các lâm trường, trạm y tế,
trường học, đồn biên phòng
Như vậy, với thị trường nội địa,
doanh nghiệp VN ít bị phụ thuộc
vào biến động của thị trường thế
giới. Thị trường nội địa sẽ là nơi
để doanh nghiệp “tập dượt” trong
cạnh tranh, là điểm tựa để vươn ra
thị trường thế giới. Vì muốn cạnh
tranh được trên thị trường quốc
tế, trước hết phải cạnh tranh được
trên thị trường nội địa. Chiếm lĩnh
thị trường nội địa là một nội dung
kinh tế có tính nguyên tắc nhằm ổn
định môi trường kinh doanh, đảm
bảo điều kiện cho sự phát triển bền
vững của nền kinh tế. Để chiếm
lĩnh thị trường nội địa đòi hỏi phải
có nhận thức đầy đủ và nỗ lực của
toàn xã hội, không chỉ là các doanh
nghiệp mà còn có sự tham gia tích
cực của các cơ quan quản lý nhà
nước, các bộ ngành và cả người
tiêu dùngl
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Đỗ Huyền. Tiếp sức hàng Việt giành lại thị
trường nội địa.
http//www.mof.gov.vn
http//www.chinhphu.vn/
http//www.gos.gov.vn/
MPhương (TH). Phát huy tiềm lực của thị
trường nội địa.
Nguyễn Thị Nga. Thị trường nội địa định
hướng và giải pháp phát triển. Sở Công
thương
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- thi_truong_noi_dia_viet_nam_tiem_luc_va_chinh_sach_phat_trie.pdf