Kết luận
Nguồn tài chính phục vụ cho phát triển kinh
tế xanh ở nước ta được quy định trong nhiều
văn bản quy phạm pháp luật khác nhau và được
thiết kế lồng ghép vào các chương trình phát
triển một số ngành nghề được nhìn nhận là
“sạch”, thân thiện với môi trường; là một trong
những biện pháp khuyến khích, biện pháp ưu
đãi từ phía Nhà nước đối với các doanh nghiệp
tham gia chương trình sản xuất, kinh doanh
“sạch”, thân thiện với môi trường mà chưa
được thể chế hóa trong một khuôn khổ pháp
luật thống nhất. Thực tế này được minh chứng
bằng sự lệ thuộc vào nguồn tài chính nhà nước
trong phát triển kinh tế xanh, đồng thời, việc
thúc đẩy doanh nghiệp chuyển sang sản xuất
kinh doanh theo hướng tăng trưởng xanh chưa
được quan tâm thích đáng. Mâu thuẫn giữa yêu
cầu tối đa hóa lợi nhuận doanh nghiệp với lợi
ích quốc gia, lợi ích cộng đồng trong thực tiễn
sản xuất kinh doanh chưa được quan tâm giải
quyết triệt để. Đây là những lực cản to lớn cần
phải tập trung khắc phục thì mới có thể chuyển
đổi nền kinh tế nước ta theo hướng phát triển
kinh tế xanh một cách bền vững chỉ có thể được
giải quyết nếu xây dựng được khuôn khổ chính
sách, pháp luật cho hệ thống tài chính xanh cụ
thể, rõ ràng, thống nhất.
10 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 21/01/2022 | Lượt xem: 245 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Thiết lập khuôn khổ chính sách, pháp luật thống nhất cho phát triển tài chính xanh ở Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 36, No. 1 (2020) 1-10
1
Original Article
Establishing Policies and Legal Frameworks
for Developing Green Finance in Vietnam
Vien The Giang*
University of Economics Ho Chi Minh City,
59C Nguyen Dinh Chieu Street, Ward 6, District 3, Ho Chi Minh City, Vietnam
Received 17 February 2020
Revised 06 March 2020; Accepted 06 March 2020
Abstract: The roles of green finance in developing green economics by providing geen capital
services. In Vietnam, the content of the policies and legal frameworks for developing green
finance gét preferential treatment area that causes disunion and difficulties for establishing policies
and legal frameworks for developing green finance in Vietnam.
Keywords: Policy, Law, green finance, green economics.
*
_______
* Corresponding author.
E-mail address: giangvt@ueh.edu.vn
https://doi.org/10.25073/2588-1108/vnueab.4328
VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 36, No. 1 (2020) 1-10
2
Thiết lập khuôn khổ chính sách, pháp luật thống nhất
cho phát triển tài chính xanh ở Việt Nam
Viên Thế Giang*
Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh,
59C Nguyễn Đình Chiểu, Phường 6, Quận 3, Hồ Chí Minh, Việt Nam
Nhận ngày 17 tháng 02 năm 2020
Chỉnh sửa ngày 06 tháng 3 năm 2020; Chấp nhận đăng ngày 17 tháng 3 năm 2020
Tóm tắt: Trong nền kinh tế xanh, các định chế tài chính vừa đóng vai trò là cung cấp nguồn lực
đáp ứng cho các ngành kinh tế theo tiêu chí tăng trưởng xanh bằng cách cung cấp các dịch vụ tài
chính theo tiêu chí tăng trưởng xanh. Ở Việt Nam, nội dung chính sách, pháp luật cho phát triển hệ
thống tài chính xanh chủ yếu là các chính sách ưu đãi dành riêng cho một số ngành, lĩnh vực nên
chưa bảo đảm được tính thống nhất. Thực tế này đặt ra đòi hỏi cần nhanh chóng xây dựng, triển
khai chính sách, pháp luật thống nhất cho phát triển hệ thống tài chính xanh ở Việt Nam.
Từ khóa: Chính sách, pháp luật, tài chính xanh, kinh tế xanh.
1. Giới thiệu vấn đề nghiên cứu *
Chuyển đổi mô hình kinh tế “nâu” sang nền
kinh tế “xanh” là xu hướng tất yếu. Trong quá
trình thực hiện việc chuyển đổi, nguồn lực tài
chính đống vai trò thúc đẩy nhanh và có hiệu
quả thông qua việc đáp ứng nhu cầu nguồn lực
tài chính cho các mục tiêu phát triển kinh tế
xanh. Song song với hoạt động trên, các định
chế tài chính cũng không ngừng đổi mới để
“xanh hóa” hoạt động của mình thông qua các
sản phẩm dịch vụ tài chính xanh. Theo ADB,
tài chính xanh bao gồm việc thu hút sự tham gia
của thị trường tài chính truyền thống trong việc
cung cấp và phối phối các sản phẩm dịch vụ tài
chính vừa mang lại lợi nhuận, vừa mang lại các
hiệu quả tích cực cho môi trường liên quan đến
_______
* Tác giả liên hệ.
Địa chỉ email: giangvt@ueh.edu.vn
https://doi.org/10.25073/2588-1108/vnueab.4328
nội bộ hóa các yếu tố môi trường bên ngoài
trong việc điều chỉnh nhận thức rủi ro nhằm
tăng trường các hoạt động đầu tư thân thiện với
môi trường và giảm các tác nhân gây hại cho
môi trường. Thúc đẩy tài chính xanh ở quy mô
lớn và đạt hiệu quả kinh tế đòi hỏi các khoản
đầu tư xanh cần được ưu tiên hơn là duy trì các
mô hình tăng trưởng không bền vững [1]. Tài
chính xanh nhấn mạnh khả năng gia tăng các
nguồn tài chính như ngân hàng, tín dụng vi mô,
bảo hiểm và đầu tư không chỉ ở khu vực công
(nguồn ngân sách nhà nước) mà còn cả nguồn
tài chính tư nhân cũng như các quỹ phi lợi
nhuận. Vấn đề đặt ra là cần thiết lập khuôn khổ
pháp luật nhằm định hướng các nguồn tài chính
tập trung đầu tư theo hướng tăng trưởng xanh.
Ở Việt Nam, sau hơn 30 năm thực hiện đổi mới
đất nước theo cơ chế thị trường việc chuyển
dịch cơ cấu kinh tế theo phát triển kinh tế xanh
là xu hướng tất yếu [2]. Chiến lược quốc gia về
V.T. Giang / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 36, No. 1 (2020) 1-10
3
tăng trưởng xanh thời kỳ 2011- 2020 và tầm
nhìn đến năm 2050 Ban hành kèm theo Quyết
định số 1393/QĐ-TTg ngày 25-9-2012 của Thủ
tướng Chính phủ nhấn mạnh khẳng định quan
điểm phát triển theo hướng tăng trưởng xanh:
i) là một nội dung quan trọng của phát triển bền
vững, đảm bảo phát triển kinh tế nhanh, hiệu
quả, bền vững và góp phần quan trọng thực
hiện Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu;
ii) phải do con người và vì con người, góp phần
tạo việc làm, xóa đói giảm nghèo, nâng cao đời
sống vật chất và tinh thần của người dân; iii)
dựa trên tăng cường đầu tư vào bảo tồn, phát
triển và sử dụng hiệu quả các nguồn vốn tự
nhiên, giảm phát thải khí nhà kính, cải thiện
nâng cao chất lượng môi trường, qua đó kích
thích tăng trưởng kinh tế trên cơ sở khoa học và
công nghệ hiện đại, phù hợp với điều kiện Việt
Nam, đồng thời nhấn mạnh tăng trưởng xanh là
sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân, các cấp
chính quyền, các Bộ, ngành, địa phương, các
doanh nghiệp và tổ chức xã hội.
Một trong những nhiệm vụ của Bộ Tài
chính được thể hiện trong Chiến lược quốc gia
về tăng trưởng xanh thời kỳ 2011- 2020 và tầm
nhìn đến năm 2050 Ban hành kèm theo Quyết
định số 1393/QĐ-TTg ngày 25-9-2012 của Thủ
tướng Chính phủ là: chủ trì, phối hợp với Bộ Kế
hoạch và Đầu tư trình cấp có thẩm quyền phê
duyệt dự toán và đảm bảo kinh phí cho việc
triển khai thực hiện chiến lược tại các Bộ,
ngành theo quy định hiện hành; phối hợp với
Bộ Kế hoạch và Đầu tư xây dựng chính sách
khuyến khích các thành phần kinh tế, các tổ
chức và cá nhân đầu tư phát triển kinh tế xanh
ở Việt Nam. Để thực hiện được thành công quan
điểm, mục tiêu tăng trưởng xanh ở nước ta đòi
hỏi phải huy động được nguồn tài chính phục
vụ cho quan điểm, mục tiêu tăng trưởng xanh.
Nói cách khác, hình thành và phát triển được hệ
thống tài chính xanh là chìa khóa cho việc thực
hiện thành công các mục tiêu tăng trưởng xanh.
Sự kết hợp hài hòa giữa nguồn tài chính nhà
nước, sản phẩm tín dụng xanh của tổ chức tín
dụng, nguồn tài chính doanh nghiệp, nguồn vốn
đầu tư nước ngoài và sự đồng thuận của toàn xã
hội vì mục tiêu tăng trưởng xanh là nội dung
cốt yếu của chính sách, pháp luật về hệ thống
tài chính xanh ở Việt Nam. Để đạt được mục
tiêu này cần thiết lập khuôn khổ pháp lý nhằm
huy động rộng rãi các nguồn lực tài chính phục
vụ cho các mục tiêu tăng trưởng xanh. Khi
dòng chảy tài chính cho các dự án xanh phát
triển sẽ dần từng bước định hình cấu trúc nguồn
tài chính xanh, từ đó giúp chính phủ phân bổ
hợp lý và định hướng nguồn tài chính xanh
đồng bộ cho tất cả các ngành kinh tế.
2. Khuôn khổ pháp luật cho phát triển hệ
thống tài chính xanh ở Việt Nam: Đa dạng
nguồn tài chính nhưng vẫn dựa vào nguồn
tài chính nhà nước và các ưu đãi của
Chính phủ
Cũng như các nước đang phát triển, Việt
Nam đã trải qua giai đoạn phát triển lệ thuộc
vào nguồn lực tài nguyên, mang bản chất của
kinh tế “nâu” thông qua việc khai thác các
nguồn tài nguyên thiên nhiên. Trong nền kinh tế
nâu, lợi thế khai thác tài nguyên cộng với
nguồn nhân lực giá rẻ đã tạo ra sức cạnh tranh
cho nền kinh tế Việt Nam. Tổng kết một số vấn
đề lý luận và thực tiễn qua 30 năm đổi mới
(1986-2016), Đảng ta nhận định: kinh tế chủ
yếu phát triển theo chiều rộng, chậm chuyển
sang phát triển theo chiều sâu; thiếu bền vững
[3]. Nhận thức lý luận về công nghiệp hóa, hiện
đại hóa còn nhiều hạn chế, bất cập như: Chưa
có chiến lược tổng thể phát triển các ngành
công nghiệp [3], có biểu hiện ỷ lại vào nguồn
tài nguyên thiên nhiên [3], việc quản lý, khai
thác và sử dụng tài nguyên thiên nhiên còn lỏng
lẻo và gây lãng phí nghiêm trọng. Những khiếm
khuyết trong quá trình công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đã bộc lộ sự phát triển thiếu bền vững
cả về kinh tế, văn hóa, xã hội và môi trường [3].
Các vấn đề liên quan đến yêu cầu tăng
trưởng dựa trên khoa học, công nghệ, đổi mới
sáng tạo cũng như sử dụng nguồn năng lượng
tái tạo, thân thiện với môi trường được đặt ra
như một trong những nội dung của phát triển
bền vững được đặt ra như yêu cầu tất yếu diễn
ra trong bối cảnh Việt Nam ngày càng hội nhập
sâu rộng vào nền kinh tế thế giới, nhất là các
vấn đề liên quan đến bảo vệ môi trường trong
V.T. Giang / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 36, No. 1 (2020) 1-10
4
các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới mà
Việt Nam đã và đang nỗ lực đàm phán, tham
gia cũng như hiện thực hóa. Khác với hiệp định
thương mại tự do truyền thống, các hiệp định
thương mại tự do thế hệ mới điều chỉnh cả
những vấn đề phi thương mại như lao động,
môi trường, cam kết phát triển bền vững, quản
trị [4].
Để đáp ứng các yêu cầu của các hiệp
thương mại tự do thế hệ mới, khuôn khổ pháp
luật cho phát triển bền vững, tăng trưởng xanh
dựa trên nguồn tài chính xanh cũng đang dần
từng bước hình thành. Luật bảo vệ môi trường
quy định đa dạng hóa các nguồn vốn đầu tư cho
bảo vệ môi trường; bố trí khoản chi riêng cho
bảo vệ môi trường trong ngân sách với tỷ lệ
tăng dần theo tăng trưởng chung; các nguồn
kinh phí bảo vệ môi trường được quản lý thống
nhất và ưu tiên sử dụng cho các lĩnh vực trọng
điểm trong bảo vệ môi trường (Khoản 5 Điều 5
Luật bảo vệ môi trường 2014), ưu đãi, hỗ trợ về
tài chính, đất đai cho hoạt động bảo vệ môi
trường, cơ sở sản xuất, kinh doanh thân thiện
với môi trường (Khoản 5 Điều 5 Luật bảo vệ
môi trường 2014) là một trong những chính
sách của nhà nước về bảo vệ môi trường đã có
nhiều nội dung bảo đảm nguồn tài chính cho
phát triển kinh tế xanh. Với vai trò là đạo luật
“quy định về hoạt động đầu tư kinh doanh tại
Việt Nam và hoạt động đầu tư kinh doanh từ
Việt Nam ra nước ngoài”, Luật Đầu tư 2014 đã
dành nhiều quy định thể hiện yêu cầu phát triển
bền vững của hoạt động đầu tư kinh doanh như:
Nhà nước có chính sách khuyến khích và tạo
điều kiện thuận lợi để nhà đầu tư thực hiện hoạt
động đầu tư kinh doanh, phát triển bền vững
các ngành kinh tế; hoạt động công nghệ cao,
sản phẩm công nghiệp hỗ trợ công nghệ cao;
hoạt động nghiên cứu và phát triển; sản xuất vật
liệu mới, năng lượng mới, năng lượng sạch,
năng lượng tái tạo; sản xuất sản phẩm có giá trị
gia tăng từ 30% trở lên, sản phẩm tiết kiệm
năng lượng là những ngành nghề ưu đãi đầu tư.
Thể chế hóa quan điểm phát triển bền vững
đất nước trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện
đại hóa, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành
nhiều văn bản để cụ thế hóa, triển khai các quan
điểm phát triển bền vững của Đảng như: Quyết
định số 153/2004/QĐ-TTg của Thủ tướng
Chính phủ về "Định hướng chiến lược phát
triển bền vững ở Việt Nam" (Chương trình nghị
sự 21 của Việt Nam); Quyết định số 1032/QĐ-
TTg ngày 27-9-2005 Thủ tướng Chính phủ về
thành lập Hội đồng Phát triển bền vững Quốc
gia, sau đó là Ban Chỉ đạo/Hội đồng phát triển
bền vững; Quyết định số 432/QĐ-TTg ngày
12-4-2012 của Thủ tướng Chính phủ về “Chiến
lược Phát triển bền vững Việt Nam giai đoạn
2011- 2020”; Quyết định số 1393/QĐ-TTg
ngày 25-9-2012 về “Chiến lược quốc gia về
tăng trưởng xanh cho thời kỳ 2011-2020 và tầm
nhìn đến 2050”; Quyết định số 339/QĐ-TTg
ngày 19-2-2013 phê duyệt “Đề án tổng thể tái
cơ cấu kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng
trưởng theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu
quả và năng lực cạnh tranh giai đoạn
2013 - 2020”; Quyết định số 1250/QĐ-TTG
ngày 31-7-2013 phê duyệt “Chiến lược quốc gia
về đa dạng sinh học đến năm 2020, tầm nhìn
đến năm 2030”; Chiến lược bảo vệ môi trường
quốc gia đến năm 2010 và định hướng đến năm
2020; Chiến lược sản xuất sạch hơn trong công
nghiệp đến năm 2020; Chương trình mục tiêu
quốc gia về sử dụng năng lượng tiết kiệm và
hiệu quả; Quyết định số 158/2008/QĐ-TTg
ngày 02-12-2008 phê duyệt Chương trình mục
tiêu quốc gia ứng phó với biến đổi khí hậu
(NTP);Quyết định số 2139/QĐ-TTg ngày
05-12-2011 phê duyệt Chiến lược Quốc gia về
biến đổi khí hậu (VCCS); Quyết định số
1474/QĐ-TTg ngày 05-10-2012 phê duyệt Kế
hoạch hành động quốc gia về biến đổi khí hậu
giai đoạn 2012 - 2020 (NAP).
Từ khuôn khổ chính sách, pháp luật về tăng
trưởng xanh cho thấy, nguồn tài chính đóng vai
trò quan trọng cho việc hình thành các mục tiêu
tăng trưởng xanh. Nguồn tài chính bảo đảm cho
thực thi chính sách phát triển kinh tế xanh
bao gồm:
Thứ nhất, nguồn tài chính nhà nước.
Nguồn tài chính nhà nước đóng vai trò quan
trọng cho việc cung ứng các nguồn đầu tư. Tại
Anh, nguồn tài chính nhà nước được cung cấp
thông qua các nguồn đầu tư xanh do ngân hàng
xanh (Green Investment Bank) đảm nhận. Bên
cạnh đó, Chính phủ cũng bảo đảm các khoản
V.T. Giang / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 36, No. 1 (2020) 1-10
5
vay cho phát triển hạ tầng bên cạnh đó là những
quỹ riêng cho các dự án năng lượng cộng đồng
[5]. Nguồn tài chính nhà nước ở Việt Nam được
quy định trong Luật Ngân sách nhà nước và
Luật bảo vệ môi trường. Theo đó, Luật Ngân
sách nhà nước quy định chi cho sự nghiệp bảo
vệ môi trường thuộc nhiệm vụ chi của ngân
sách trung ương (Điểm i Khoản 3 Điều 36 Luật
Ngân sách nhà nước 2015) và ngân sách địa
phương (Điểm h Khoản 2 Điều 38 Luật Ngân
sách nhà nước 2015). Theo quy định tại Khoản
1 Điều 147 Luật Bảo vệ môi trường 2014, chi
hoạt động sự nghiệp bảo vệ môi trường gồm:
- Xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế
hoạch, quy trình kỹ thuật, hướng dẫn kỹ thuật,
định mức kinh tế kỹ thuật, quy chuẩn kỹ thuật
môi trường, chương trình, đề án về bảo vệ
môi trường;
- Thẩm định quy hoạch bảo vệ môi trường,
báo cáo đánh giá môi trường chiến lược;
- Hoạt động quan trắc môi trường; xây dựng
hệ thống thông tin môi trường và báo cáo
môi trường;
- Hỗ trợ công tác thanh tra, kiểm tra; kiểm
soát ô nhiễm môi trường, xử lý ô nhiễm môi
trường, phòng ngừa, ứng phó và khắc phục sự
cố môi trường; quản lý chất thải và bảo tồn đa
dạng sinh học; đào tạo, truyền thông về bảo vệ
môi trường; phổ biến và đánh giá tình hình thực
hiện pháp luật về bảo vệ môi trường; hợp tác
quốc tế về bảo vệ môi trường;
- Các hoạt động quản lý bảo vệ môi
trường khác.
Ngoài chi cho sự nghiệp bảo vệ môi trường,
pháp luật còn quy định chi đầu tư phát triển bảo
vệ môi trường gồm chi cho các dự án xây dựng,
cải tạo công trình xử lý chất thải, xây dựng và
trang bị trạm quan trắc và phân tích môi trường
do Nhà nước quản lý; đầu tư phương tiện, trang
thiết bị phòng ngừa, ứng phó, khắc phục ô
nhiễm, suy thoái, sự cố môi trường; ứng phó
với biến đổi khí hậu; bảo tồn đa dạng sinh học;
cải tạo nguồn nước bị ô nhiễm, trồng và chăm
sóc cây xanh tại nơi công cộng, khu vực công
ích (Khoản 2 Điều 147 Luật bảo vệ môi
trường 2014).
Thứ hai, nguồn tài chính hỗ trợ từ phía nhà
nước thông qua chính sách ưu đãi thuế, đất đai
đối với doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh hàng
hóa dịch vụ thân thiện với môi trường. Nguồn
tài chính hỗ trợ từ phía Nhà nước đối với doanh
nghiệp sản xuất, kinh doanh hàng hóa dịch vụ
thân thiện với môi trường giúp cho các doanh
nghiệp này giảm thiểu nguồn tài chính phải nộp
cho ngân sách nhà nước từ đó doanh nghiệp có
thêm nguồn tài chính để phục vụ cho hoạt động
của doanh nghiệp. Các nguồn tài chính hỗ trợ từ
phía nhà nước phục vụ cho mục tiêu phát triển
nền kinh tế xanh bao gồm:
- Ưu đãi, hỗ trợ hoạt động bảo vệ môi
trường theo quy định tại Nghị định
19/2015/NĐ-CP ngày 14-2-2015 của Chính phủ
quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật
Bảo vệ môi trường quy định rõ: Nhà nước thực
hiện ưu đãi, hỗ trợ về đất đai, vốn; miễn, giảm
thuế đối với hoạt động bảo vệ môi trường; trợ
giá, hỗ trợ tiêu thụ sản phẩm từ hoạt động bảo
vệ môi trường và các ưu đãi, hỗ trợ khác đối
với hoạt động bảo vệ môi trường. Mức độ và
phạm vi ưu đãi, hỗ trợ hoạt động bảo vệ môi
trường được điều chỉnh bảo đảm phù hợp với
chính sách về bảo vệ môi trường từng thời kỳ.
Đối tượng được ưu đãi, hỗ trợ bao gồm các tổ
chức, cá nhân có hoạt động đầu tư công trình
bảo vệ môi trường; hoạt động sản xuất, kinh
doanh, dịch vụ về bảo vệ môi trường.
- Hỗ trợ dự án đầu tư theo cơ chế phát triển
sạch theo Quyết định số 130/2007/QĐ-TTg
ngày 2-8-2007 về cơ chế, chính sách tài chính
đối với dự án đầu tư theo cơ chế phát triển sạch.
Dự án đầu tư theo cơ chế phát triển sạch
(CDM) là dự án đầu tư sản xuất theo công nghệ
mới, tiên tiến thân thiện với môi trường, có kết
quả giảm phát thải khí nhà kính được Ban chấp
hành quốc tế về CDM (là tổ chức được các
nước tham gia Công ước Khí hậu thành lập và
uỷ quyền giám sát các dự án CDM) chấp thuận
đăng ký và cấp chứng chỉ giảm phát thải khí
nhà kính. Phát thải khí nhà kính là phát thải các
khí gây biến đổi khí hậu bị kiểm soát bởi Nghị
định thư Kyoto gồm: CO2, CH4, N20, HFCs,
PFCs, SF6 và các loại khí khác được quy định
trong Nghị định thư Kyoto. Doanh nghiệp thực
hiện dự án CDM được miễn thuế nhập khẩu
V.T. Giang / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 36, No. 1 (2020) 1-10
6
đối với hàng hoá nhập khẩu để tạo tài sản cố
định của dự án, hàng hoá nhập khẩu là nguyên
liệu, vật tư, bán thành phẩm trong nước chưa
sản xuất được nhập khẩu để phục vụ sản xuất
của dự án; được miễn, giảm tiền sử dụng đất,
tiền thuê đất theo quy định của pháp luật hiện
hành áp dụng đối với dự án thuộc lĩnh vực đặc
biệt ưu đãi đầu tư; được phép huy động vốn
dưới hình thức hợp tác, liên kết với các doanh
nghiệp khác, các tổ chức kinh tế, tổ chức tài
chính trong và ngoài nước để xây dựng dự án
CDM, đầu tư thực hiện dự án CDM. Ngoài các ưu
đãi trên, sản phẩm của dự án CDM được trợ giá từ
Quỹ Bảo vệ môi trường Việt Nam khi đáp ứng
các điều kiện sau: i) Trong danh mục sản phẩm
của dự án CDM thuộc lĩnh vực ưu tiên; ii) Chi phí
thực tế để sản xuất ra sản phẩm lớn hơn giá bán
thực tế theo hợp đồng được ký kết.
- Nhà nước hỗ trợ qua tín dụng nhà nước
đối với các dự án sản xuất sạch hơn trong công
nghiệp; các dự án đầu tư áp dụng sản xuất sạch
hơn của các cơ sở sản xuất được hưởng chính
sách ưu đãi tài chính theo quy định tại Quyết
định số 1419/QĐ-TTg ngày 7-9-2009 của Thủ
tướng Chính phủ phê duyệt “Chiến lược sản
xuất sạch hơn trong công nghiệp đến
năm 2020”.
- Cơ chế chính sách hỗ trợ các sản phẩm
năng lượng tái tạo, năng lượng sinh học như:
chính sách hỗ trợ phát triển các dự án diện gió
tại Việt Nam (Quyết định số 37/2011/QĐ-TTg
ngày 29-6-2011 của Thủ tướng Chính phủ về cơ
chế hỗ trợ phát triển các dự án diện gió tại Việt
Nam); cơ chế hỗ trợ phát triển các dự án điện
sinh khối tại Việt Nam (Quyết định số
24/2014/QĐ-TTg ngày 24-3-2014 của Thủ
tướng Chính phủ về cơ chế hỗ trợ phát triển các
dự án điện sinh khối tại Việt Nam ); đề án phát
triển nhiên liệu sinh học đến năm 2015, tầm
nhìn đến năm 2020 (Quyết định số
177/2007/QĐ-TTg ngày 20-11-2007 của Thủ
tướng Chính phủ về việc phê duyệt “Đề án phát
triển nhiên liệu sinh học đến năm 2015, tầm
nhìn đến năm 2020”).
Thứ ba, nguồn tài chính doanh nghiệp phục
vụ cho mục tiêu phát triển nền kinh tế xanh.
Nguồn tài chính doanh nghiệp phục vụ cho mục
tiêu phát triển xanh đang được tập trung vào
việc thúc đẩy hoạt động sản xuất hàng hóa,
cung ứng dịch vụ thân thiện với môi trường.
Các doanh nghiệp trong nền kinh tế đã ý thức
được vị trí, tầm quan trọng của việc cung cấp
các sản phẩm sạch, thân thiện với môi trường,
có lợi cho sức khỏe của người tiêu dùng. Đây là
tín hiệu đáng mừng cho việc xây dựng nền kinh
tế xanh tại Việt Nam. Bởi lẽ, khi ý thức được
vai trò của phát triển hoạt động kinh doanh theo
hướng thân thiện với môi trường, có lợi cho sức
khỏe của người tiêu dùng, các doanh nghiệp dễ
dàng chiếm được cảm tình, niềm tin của người
tiêu dùng đối với các sản phẩm do doanh
nghiệp cung cấp. Đồng thời, thông qua việc
phát triển sản phẩm sạch, thân thiện với môi
trường, có lợi cho sức khỏe của người tiêu dùng
góp phần hình thành các ngành kinh doanh thân
thiện với môi trường, là một trong những lợi thế
cạnh tranh có thể làm thay đổi thói quen tiêu
dùng của người tiêu dùng.
Thứ tư, nguồn vốn đầu tư nước ngoài, các
khoản viện trợ phục vụ cho hoạt động bảo vệ
môi trường, hỗ trợ cho hoạt động sản xuất xanh,
thân thiện với môi trường. Đây là nguồn vốn
“ngoại” có vai trò quan trọng cho việc thúc đẩy
phát triển hoạt động sản xuất xanh tại Việt
Nam. Với nguồn vốn đầy tư nước ngoài, Việt
Nam có thể thu hút được nguồn vốn đầu tư, có
thể “nhập khẩu” công nghệ sản xuất xanh vào
từng ngành, từng lĩnh vực khác nhau. Vì vậy,
thu hút và sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư nước
ngoài, các khoản viện trợ phục vụ cho hoạt
động bảo vệ môi trường, hỗ trợ cho hoạt động
sản xuất xanh, thân thiện với môi trường gúp
cho việc định hình rõ hơn ngành nghề, lĩnh vực
sản xuất, loại sản phẩm hàng hóa, dịch vụ theo
tiêu chuẩn nền kinh tế xanh.
Thứ năm, nguồn vốn tín dụng. Nguồn vốn
tín dụng được cung cấp thông qua hai hình
thức: nguồn vốn tín dụng nhà nước thông qua
các chương trình hỗ trợ, ưu đãi doanh nghiệp
sản xuất kinh doanh thân thiện với môi trường
và nguồn vốn tín dụng được thưc hiện thông
qua nghiệp vụ kinh doanh của tổ chức tín dụng.
Ở giai đoạn đầu khi chuyển đổi sang nền kinh
tế xanh, nguồn vốn tín dụng thông qua các
chương trình ưu đãi của Nhà nước chiếm ưu
thế. Khi nền kinh tế đã phát triển theo tiêu chí
V.T. Giang / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 36, No. 1 (2020) 1-10
7
tăng trưởng xanh, nguồn vốn tín dụng từ các tổ
chức tín dụng chiếm ưu thế. Trong giai đoạn
này, bảo đảm các tiêu chuẩn môi trường là một
trong những tiêu chí để được cấp tín dụng. Pháp
luật về cấp tín dụng hiện hành dành quyền chủ
động cho tổ chức tín dụng trong việc lựa chọn
khách hàng, dự án đầu tư, chịu trách nhiệm về
kết quả thẩm định cấp tín dụng.
3. Định hướng nội dung chính sách, pháp
luật góp phần hình thành và phát triển hệ
thống tài chính xanh ở Việt Nam
3.1. Xây dựng tiêu chí lựa chọn ngành nghề,
lĩnh vực sản xuất, kinh doanh đáp ứng tiêu
chuẩn phát triển nền kinh tế xanh để hình thành
chính sách tài chính xanh
Nghiên cứu cơ chế pháp lý về các nguồn tài
chính phục vụ cho việc thực thi chính sách phát
triển kinh tế xanh ở Việt Nam cho thấy, các cơ
chế, chính sách này không có sự thống nhất về
tiêu chí. Các quy định về nguồn tài chính phục
vụ cho việc thực thi chính sách phát triển kinh
tế xanh ở Việt Nam vừa được thiết kế theo
những chính sách ưu đãi chung, vừa xây dựng
riêng trong một số ngành nghề nhất định.
Một trong những giải pháp được Chiến lược
quốc gia về tăng trưởng xanh thời kỳ
2011- 2020 và tầm nhìn đến năm 2050 đề cập
là: Rà soát quy hoạch tổng thể phát triển các
ngành kinh tế, đặc biệt là những ngành tác động
nhiều tới tài nguyên, môi trường, có hiệu quả sử
dụng vốn và tài nguyên không cao, để xác định
yêu cầu xanh hóa sản xuất, sử dụng tiết kiệm tài
nguyên thiên nhiên, kiểm soát ô nhiễm và quản
lý chất thải một cách có hiệu quả vào các quy
hoạch ngành hiện có và quy hoạch mới. Các
ngành kinh tế phải xây dựng và thực hiện
chương trình hành động theo hướng tăng trưởng
xanh, chú trọng ứng dụng công nghệ xanh, hệ
thống quản lý và kiểm soát hoạt động theo kinh
nghiệm thực hành tốt để tiết kiệm tài nguyên,
giảm phát thải và xử lý ô nhiễm, cải thiện môi
trường sinh thái. Tuy nhiên, Chiến lược quốc
gia về tăng trưởng xanh thời kỳ 2011-2020 và
tầm nhìn đến năm 2050 đòi hỏi “Thực hiện một
chiến lược “công nghiệp hóa sạch” thông qua
rà soát, điều chỉnh những quy hoạch ngành
hiện có, sử dụng tiết kiệm và hiệu quả tài
nguyên, khuyến khích phát triển công nghiệp
xanh, nông nghiệp xanh với cơ cấu ngành nghề,
công nghệ, thiết bị bảo đảm nguyên tắc thân
thiện với môi trường, đầu tư phát triển vốn tự
nhiên; tích cực ngăn ngừa và xử lý ô nhiễm”
với những chỉ tiêu chủ yếu đến năm 2020 gồm:
Giá trị sản phẩm ngành công nghệ cao, công
nghệ xanh trong GDP là 42 - 45%; tỷ lệ các cơ
sở sản xuất kinh doanh đạt tiêu chuẩn về môi
trường là 80%, áp dụng công nghệ sạch hơn
50%, đầu tư phát triển các ngành hỗ trợ bảo vệ
môi trường và làm giàu vốn tự nhiên phấn đấu
đạt 3 - 4% GDP, nhưng lại chưa đề cập đến các
tiêu chí về sản xuất xanh. Theo chúng tôi,
những tiêu chí dưới đây cần được quy định
trong các văn bản quy phạm pháp luật làm cơ
sở cho việc lựa chọn ngành nghề sản xuất xanh
và là điều kiện để được tiếp cận nguồn
tài chính:
- Sử dụng ít nhiên liệu hóa thạch, có trên
70% nguồn năng lượng được sử dụng từ nguồn
năng lượng tái tạo.
- Xả thải ra môi trường ở mức thấp nhất.
Các doanh nghiệp bảo đảm được quy trình xử
lý chất thải công nghiệp khép kín, không gây
thiệt hại cho môi trường.
- Giảm phát thải khí nhà kính thông qua
phát triển nông nghiệp hữu cơ bền vững, nâng
cao tính cạnh tranh của sản xuất nông nghiệp
3.2. Giảm phụ thuộc vào nguồn tài chính nhà
nước và phát huy được nguồn tài chính doanh
nghiệp, sự hỗ trợ từ phía các tổ chức quốc tế để
bảo đảm tính bền vững cho hệ thống tài
chính xanh
Thực tế cho thấy, nếu nguồn tài chính phục
vụ cho phát triển nền kinh tế xanh nếu lệ thuộc
vào nguồn tài chính nhà nước sẽ làm tăng gánh
nặng chi tiêu công và cũng có thể là nguyên
nhân gây nền tình trạng gia tăng nợ công.
Nguyên nhân chính của hiện tượng này là do
Việt Nam chưa có một quan niệm thống nhất,
rõ ràng về phát triển kinh tế xanh là yêu cầu bắt
buộc hay chỉ là chính sách khuyến khích từ phía
nhà nước.
V.T. Giang / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 36, No. 1 (2020) 1-10
8
Nếu phát triển kinh tế xanh là bắt buộc đối
với các doanh nghiệp trong nền kinh tế thì sẽ
tạo ra sự chủ động trong việc chuyển dịch chiến
lược kinh doanh, thay đổi chất lượng hàng hóa,
dịch vụ, tăng cường các sản phẩm thân thiện
với môi trường khi đó mục tiêu phát triển nền
kinh tế xanh có thể dễ dàng đạt được các mục
tiêu. Tuy nhiên, nếu phát triển kinh tế xanh là
bắt buộc đối với các doanh nghiệp trong nền
kinh tế có thể vấp phải sự phản ứng, làm đối
phó của cộng đồng doanh nghiệp, giảm số
lượng nhà đầu tư tiềm năng do những đòi hỏi
của phát triển kinh tế xanh. Ngược lại, nếu phát
triển kinh tế xanh là khuyến khích đối với các
doanh nghiệp trong nền kinh tế thì các doanh
nghiệp không hưởng ứng hoặc nếu có hưởng
ứng cũng chỉ là sự “lạm dụng” những chính
sách ưu đãi của nhà nước đối với các ngành
nghề, lĩnh vực kinh doanh hoạt động theo
hướng tăng trưởng xanh. Từ thái độ, cách hành
động của cộng đồng doanh nghiệp dẫn đến sự
hình thành nền kinh tế xanh ở nước ta cũng chỉ
mang tính hình thức, không bền vững.
Để bảo đảm sự đa dạng của nguồn tài chính
phục cho hoạt động phát triển kinh tế xanh,
chúng tôi kiến nghị:
- Nhà nước cần xây dựng, công bố lộ trình
thực hiện nền kinh tế xanh ở Việt Nam từ nay
đến năm 2020, trong đó phải xác định được
những ngành, lĩnh vực được ưu tiên phát triển
theo hướng kinh tế xanh.
- Bổ sung quy định trích quỹ dự phòng phục
vụ phát triển kinh tế xanh trong các doanh
nghiệp là bắt buộc.
- Cụ thể hóa các chính sách ưu đãi về thuế,
phí, lệ phí, đất đai cho doanh nghiệp tham gia
mạng lưới doanh nghiệp phát triển xanh, sản
xuất xanh, cung cấp sản phẩm hàng hóa dịch vụ
thân thiện với môi trường.
- Sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn nước
ngoài hỗ trợ cho phát triển kinh tế xanh.
3.3. Phát huy vai trò của nguồn vốn tín dụng
trong hệ thống tài chính xanh
Luật các tổ chức tín dụng 2010 quy định khi
xét duyệt cấp tín dụng, tổ chức tín dụng phải
yêu cầu khách hàng cung cấp tài liệu chứng
minh phương án sử dụng vốn khả thi, khả năng
tài chính của mình, mục đích sử dụng vốn hợp
pháp, biện pháp bảo đảm tiền vay trước khi
quyết định cấp tín dụng (Khoản 1 Điều 94 Luật
các tổ chức tín dụng 2010). Ngoài quy định về
bảo đảm tiền vay, Luật các tổ chức tín dụng
2010 quy định trong trường hợp khách hàng
không trả được nợ đến hạn, nếu các bên không
có thỏa thuận khác thì tổ chức tín dụng có
quyền xử lý nợ, tài sản bảo đảm tiền vay theo
hợp đồng cấp tín dụng, hợp đồng bảo đảm và
quy định của pháp luật (Khoản 2 Điều 95 Luật
các tổ chức tín dụng 2010). Tăng trưởng tín
dụng xanh mới chỉ dừng lại ở các biện pháp
mang tính khuyến nghị chủ động triển khai xây
dựng chương trình, chính sách tín dụng xanh
nhằm tăng dần tỷ trọng tín dụng xanh trong cơ
cấu danh mục đầu tư tín dụng của tổ chức tín
dụng. Chẳng hạn, Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam mới chỉ ban hành các văn bản điều hành
để triển khai nhiệm vụ của mình liên quan đến
phát triển kinh tế xanh như Chỉ thị số 03/CT-
NHNN ngày 24-3-2015 về việc thúc đẩy tín
dụng xanh và quản lý rủi ro môi trường và xã
hội trong hoạt động cấp tín dụng; Kế hoạch
hành động quốc gia về tăng trưởng xanh giai
đoạn 2014-2020 tại Quyết định số 403/QĐ-
TTg ngày 20/3/2014 của Thủ tướng Chính phủ.
Các quy định về cấp tín dụng chưa có quy
định bảo đảm yêu cầu bảo vệ môi trường đối
với khách hàng có nhu cầu cấp tín dụng
[6]. Chiến lược phát triển ngành ngân hàng đến
năm 2010, tầm nhìn đến năm 2020 đòi hỏi các
tổ chức tín dụng tập trung phát triển và đa dạng
hóa các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng, đặc biệt
là huy động vốn, cấp tín dụng, thanh toán với
chất lượng cao và mạng lưới phân phối phát
triển hợp lý nhằm cung ứng đầy đủ, kịp thời,
thuận tiện các dịch vụ, tiện ích ngân hàng cho
nền kinh tế trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa; phát triển hệ thống dịch vụ
ngân hàng đa dạng, đa tiện ích được định
hướng theo nhu cầu của nền kinh tế trên cơ sở
tiếp tục nâng cao chất lượng và hiệu quả các
dịch vụ ngân hàng truyền thống, đồng thời tiếp
cận nhanh hoạt động ngân hàng hiện đại và
dịch vụ tài chính, ngân hàng mới có hàm lượng
công nghệ cao.
V.T. Giang / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 36, No. 1 (2020) 1-10
9
Để từng bước xây dựng sản phẩm tín dụng
xanh phục vụ yêu cầu tăng trưởng xanh ở nước
ta trong thời gian tới, chúng tôi kiến nghị:
Thứ nhất, bổ sung yêu cầu bảo vệ môi
trường trong phần các quy định chung về hoạt
động của các tổ chức tín dụng.
Thứ hai, bổ sung quy định cho phép tổ
chức tín dụng được thu hồi vốn trước hạn nếu
tổ chức, cá nhân trong quá trình sử dụng vốn
thực hiện hành vi xâm hại môi trường.
Thứ ba, Ngân hàng Nhà nước nghiên cứu
xây dựng tiêu chí tín dụng xanh và quy định cụ
thể tiêu chí tín dụng xanh trong Quy chế cho
vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng,
quy chế bảo lãnh ngân hàng và hoạt động cho
thuê tài chính.
3.4. Thiết lập chính sách hỗ trợ để thay đổi
hành vi tiêu dùng hướng tới tiêu dùng bền vững
giúp phát huy hiệu quả của hệ thống tài chính
xanh [7]
Tiêu dùng bền vững là “việc sử dụng hàng
hóa và dịch vụ để đáp ứng những nhu cầu cơ
bản và nâng cao chất lượng cuộc sống trong khi
sử dụng ít hơn tài nguyên thiên nhiên và các
chất độc hại, đồng thời giảm phát thải và chất
gây ô nhiễm trong chu trình sống và không làm
tổn hại tới việc đáp ứng nhu cầu của các thế hệ
mai sau” (Chiến lược quốc gia về tăng trưởng
xanh thời kỳ 2011- 2020 và tầm nhìn đến năm
2050). Đây là xu hướng tiêu dùng cần được
khuyến khích. Để bảo đảm tiêu dùng bền vững
cần xem xét đối với cả nhà sản xuất, kinh doanh
hàng hóa dịch vụ đáp ứng tiêu chuẩn tiêu dùng
bền vững và hành vi của người tiêu dùng.
Đối với người kinh doanh, việc sản xuất,
kinh doanh hàng hóa dịch vụ nhằm mục đích
tìm kiếm lợi nhuận. Để có được lợi nhuận tối đa
đòi hỏi hàng hóa, dịch vụ cung ứng phải được
tiêu dùng với chi phí kinh doanh là thấp nhất.
Trong khi đó, để có thể thực hiện sản xuất xanh,
các doanh nghiệp phải đầu tư nguồn vốn lớn,
công nghệ sản xuất hiện đại, điều này sẽ làm
tăng chi phí sản xuất kinh doanh và cũng kéo
theo giá cả của hàng hóa dịch vụ đáp ứng
tiêu chuẩn
Đối với người tiêu dùng, khi tiêu dùng hàng
hóa, dịch vụ, người tiêu dùng còn phải cân nhắc
đến tính hợp lý của việc tiêu dùng với mức thu
thập, khả năng tiếp cận hàng hóa, dịch vụ đáp
ứng tiêu dùng bền vững. Người tiêu dùng khó
có thể đáp ứng tiêu chí tiêu dùng bền vững nếu
các sản phẩm hàng hóa dịch vụ đáp ứng tiêu
chuẩn tiêu dùng bền vững có giá cả cao.
Để giải quyết mâu thuẫn này đòi hỏi phải có
sự tham gia hỗ trợ từ phía nhà nước
theo hướng:
- Nhà nước có chính sách trợ giá đối với sản
phẩm sử dụng ít hơn tài nguyên thiên nhiên và
các chất độc hại, đồng thời giảm phát thải và
chất gây ô nhiễm trong chu trình sống và không
làm tổn hại tới việc đáp ứng nhu cầu của các thế
hệ mai sau.
- Thiết lập hệ thống phân phối công hàng
hóa đáp ứng yêu cầu tiêu dùng bền vững.
4. Kết luận
Nguồn tài chính phục vụ cho phát triển kinh
tế xanh ở nước ta được quy định trong nhiều
văn bản quy phạm pháp luật khác nhau và được
thiết kế lồng ghép vào các chương trình phát
triển một số ngành nghề được nhìn nhận là
“sạch”, thân thiện với môi trường; là một trong
những biện pháp khuyến khích, biện pháp ưu
đãi từ phía Nhà nước đối với các doanh nghiệp
tham gia chương trình sản xuất, kinh doanh
“sạch”, thân thiện với môi trường mà chưa
được thể chế hóa trong một khuôn khổ pháp
luật thống nhất. Thực tế này được minh chứng
bằng sự lệ thuộc vào nguồn tài chính nhà nước
trong phát triển kinh tế xanh, đồng thời, việc
thúc đẩy doanh nghiệp chuyển sang sản xuất
kinh doanh theo hướng tăng trưởng xanh chưa
được quan tâm thích đáng. Mâu thuẫn giữa yêu
cầu tối đa hóa lợi nhuận doanh nghiệp với lợi
ích quốc gia, lợi ích cộng đồng trong thực tiễn
sản xuất kinh doanh chưa được quan tâm giải
quyết triệt để. Đây là những lực cản to lớn cần
phải tập trung khắc phục thì mới có thể chuyển
đổi nền kinh tế nước ta theo hướng phát triển
kinh tế xanh một cách bền vững chỉ có thể được
giải quyết nếu xây dựng được khuôn khổ chính
V.T. Giang / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 36, No. 1 (2020) 1-10
10
sách, pháp luật cho hệ thống tài chính xanh cụ
thể, rõ ràng, thống nhất.
Tài liệu tham khảo
[1] ADB, Green Finance, explained,
https://development.asia/explainer/green-finance-
explained.
[2] Vien The Giang, Green economic development in
Vietnam from the law and policy perspective,
Jurisprudence Journal 211(12) (2017).
[3] The Communist Party of Vietnam, Report on
theoretical and practical in 30 - years of Do Moi
(1986 - 2016), National Publishing House,
Hanoi, 2015.
[4] Vu Kim Ngan, Pham Hong Son, Some theoretical
issues regarding new generation free trade
agreement: When the objective is not just free
trade, Vietnamese Journal of Legal Sciences
124(3) (2019) 3-15.
[5] House of Commons Environmental Audit
Committee, Green Finance, Twelfth Report of
Session 2013-14, Volume I, Additional written
evidence is contained in Volume II, 2014.
[6] Vien The Giang, Vo Thi My Huong, Policy for
developing green credit and legal issues, Banking
Review 23(12) (2019) 20-24.
[7] Vien The Giang, Policy for green consumer credit
in green growth strategy, Banking special
issue, 2019.
H
h
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- thiet_lap_khuon_kho_chinh_sach_phap_luat_thong_nhat_cho_phat.pdf