Mút cắn đồ vật: Trong nghiên cứu này, ghi
nhận được mối tương quan có ý nghĩa thống kê
giữa mút cắn đồ vật với tình trạng lệch lạc răng
trước (p=0,021). Điều này cũng phù hợp với
những nhận định trong y văn thế giới vì thói
quen mút cắn đồ vật thường chỉ tác động khu
trú trên một vài răng chịu lực(5), trong đó vùng
răng trước thường thuận tiện cho trẻ đặt vật hơn.
Bên cạnh đó, cắn bút bi là thói quen phổ biến
nhất trong nhóm này.
Cắn má: Trong nghiên cứu này, có sự khác
biệt có ý nghĩa thống kê trong sự phân bố của
thói quen cắn má với cắn kéo răng sau (p=0,04).
Trên một khớp cắn bình thường, độ phủ ngoài
của răng sau trên giúp giữ cho niêm mạc môi má
tách khỏi mặt nhai của răng sau dưới trong quá
trình ăn nhai. Độ phủ ngoài quá mức của các
răng trên trong cắn dạng kéo hoàn toàn có thể là
yếu tố khởi phát cho thói quen này. Nhưng xét ở
khía cạnh khác, động tác cắn kèm mút má có thể
tạo các lực bất thường làm thu hẹp cung răng
dưới gây cắn kéo.
Mút cắn môi, cắn móng tay, nghiến răng:
Nghiên cứu này không ghi nhận được mối
tương quan có ý nghĩa thống kê nào giữa 3
TQXRM này với các dạng SKC.
5 trang |
Chia sẻ: huongthu9 | Lượt xem: 472 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Thói quen xấu về răng miệng và tình trạng sai khớp cắn ở nhóm trẻ 6-10 tuổi tại Quận 8, TP. Hồ Chí Minh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 92
THÓI QUEN XẤU VỀ RĂNG MIỆNG VÀ TÌNH TRẠNG SAI KHỚP CẮN
Ở NHÓM TRẺ 6 – 10 TUỔI TẠI QUẬN 8, TP. HỒ CHÍ MINH
Nguyễn Thị Bạch Lan*, Cù Hoàng Anh*
TÓM TẮT
Mục tiêu: Xác định tỉ lệ thói quen xấu về răng miệng (TQXRM) và khảo sát tương quan giữa các thói quen
này và các dạng sai khớp cắn trên một nhóm trẻ 6-10 tuổitại quận 8thành phố Hồ Chí Minh.
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang mô tả thực hiện trên 634 trẻ 6-10 tuổi tại quận 8, thành
phố Hồ Chí Minh, bao gồm 310 nam và 324 nữ. Các TQXRM và các dạng sai khớp cắn được xác định thông qua
khám lâm sàng, bảng câu hỏi phỏng vấn trực tiếp trẻ và bảng câu hỏi dành cho phụ huynh.
Kết quả: Tỉ lệ trẻ mắc phải ít nhất một TQXRM là 76,8%, trong đó nhai một bên hàm chiếm tỉ lệ cao nhất
(34,7%), tiếp theo là cắn móng tay (26,2%) và thở miệng (20,4%). Đối với đa số các dạng TQXRM, không có sự
khác biệt về mặt thống kê giữa hai giới và giữa các độ tuổi, ngoại trừ thói quen mút cắn đồ vật (p<0,01) và cắn má
(p<0,05) phổ biến ở trẻ nam hơn trẻ nữ và thói quen nhai một bên có tỉ lệ cao ở nhóm 6, 7 tuổi, giảm dần ở lứa
tuổi lớn hơn (p<0,01). Nghiên cứu cho thấy một số tương quan có ý nghĩa thống kê giữa: Thở miệng – Cắn hở
răng trước (p=0,016), Đẩy lưỡi – Cắn chìa quá mức (p=0,01), Mút ngón tay – Cắn hở răng trước (p=0,016), Mút
ngón tay – Xoay lệch răng trước (p=0,008), Mút cắn đồ vật- Xoay lệch răng trước (p=0,021), Cắn má - Cắn kéo
răng sau (p=0,004).
Kết luận: Nghiên cứu chứng minh được tương quan chặt chẽ giữa TQXRM và sai khớp cắn đồng thời cho
thấy tỉ lệ TQXRM ở nhóm trẻ khảo sát rất cao.
ABSTRACT
ORAL HABITS, PREVALENCE AND EFFECTS ON OCCLUSION OF 6-10 YEAR OLD CHILDREN IN
DISTRICT 8, HO CHI MINH CITY
Nguyen Thi Bach Lan, Cu Hoang Anh
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 - Supplement of No 2 - 2013: 92 - 96
Objectives: To determine the prevalence of oral habits and to evaluate the effect of these habits on the
occlusion in a group of 6-10 year-old children in HCM city.
Methods: A cross-sectional & descriptive study was realized on 634 children aged 6-10 years from a primary
school in District 8 of Ho Chi Minh City, including 310 boys and 324 girls. Oral habits and malocclusion were
determined through parents’questionaire, children’s interview and clinical examination.
Results: Of the total studied population, 76.8% children exhibited at least one oral habits. One-side chewing
was the habit with highest prevalence (34.7%), followed by nail biting (26.2%) and mouth breathing (20.4). There
was no significant difference in prevalence of habits between male and female except for object biting (p<0.01) and
cheek biting (p<0.05). The relationship between age and prevalence of habits was not statistically significant
except for one-side chewing (p<0.01). Significant relationship were found between mouth breathing and anterior
open bite (p=0.016), tongue thrusting and increased overjet (p=0.01), digit sucking and anterior open bite
(p=0.016), digit sucking and irregularity of anterior teeth (p=0.008), object biting and irregularity of anterior teeth
(p=0.021), cheek biting and scissor bite (p=0.004).
* Khoa Răng Hàm Mặt, Đại học Y Dược TP.HCM
Tác giả liên lạc: Nguyễn Thị Bạch Lan, ĐT: 01257402339, Email: drbachlan.nguyen@gmail.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 93
Conclusion: This study shows a high prevalence of bad oral habits and a tight relationship between these
harmful habits and malocclusions in primary school children in Ho Chi Minh city.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Các lực cân bằng từ môi, má bên ngoài và
lưỡi bên trong giúp răng sắp xếp đều đặn trên
cung hàm. Khi trẻ mắc phải TQXRM, cân bằng
này bị phá vỡ gây sai lệch vị trí răng, cản trở sự
tăng trưởng hàm mặt bình thường cũng như làm
xáo trộn chức năng hệ thống thần kinh cơ
miệng-mặt. Nếu các TQXRM được phát hiện
sớm và loại trừ kịp thời ở giai đoạn răng sữa hay
giai đoạn răng hỗn hợp có thể giúp các sai lệch
răng tự điều chỉnh hoặc không tiến triển xấu
hơn, giúp giảm nhẹ điều trị chỉnh hình răng mặt
toàn diện về sau.
Nghiên cứu này là một nghiên cứu thăm dò
bước đầu với các mục tiêu như sau: (1)Xác định
tỉ lệ các thói quen xấu về răng miệng thường gặp
ở trẻ em từ 6 - 10 tuổi tại quận 8, thành phố Hồ
Chí Minh. (2) Khảo sát sự khác biệt tỉ lệ các thói
quen xấu về răng miệng theo tuổi và theo giới
tính. (3) Đánh giá tương quan giữa các thói quen
xấu về răng miệng và các dạng sai khớp cắn.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu cắt ngang mô tả thực hiện trên
mẫu thuận tiện gồm 634 trẻ từ 6 - 10 tuổi tại một
trường tiểu học công lập thuộc quận 8, TP.Hồ
Chí Minh.
Các TQXRM được chọn khảo sát trong
nghiên cứu của chúng tôi bao gồm: thở miệng,
đẩy lưỡi, nhai một bên, nhóm thói quen mút
(mút ngón tay, mút cắn môi, mút cắn đồ vật),
nhóm thói quen cắn (cắn móng tay, cắn má),
nghiến răng. Việc xác định trẻ có hay không các
TQXRM nêu trên được thực hiện thông qua
khám lâm sàng kết hợp với phỏng vấn trẻ và
phụ huynh. Việc phỏng vấn phụ huynh thông
qua bảng câu hỏi soạn sẵn điền tại nhà. Việc
phỏng vấn trẻ diễn ra độc lập và trước quá trình
khám lâm sàng.
Khám đánh giá biểu hiện của TQXRM bao
gồm:
Khám mũi: hình dạng lỗ mũi, tình trạng thở.
Khám môi: tình trạng niêm mạc môi, khả
năng khép kín môi.
Khám lưỡi: kích thước, dấu răng trên bờ
lưỡi, vị trí đặt lưỡi ở tư thế nghỉ, điểm bám
thắng lưỡi.
Khám ngón tay: da nhăn nheo, chai sẹo.
Khám móng tay: móng nham nhở, sắc nhọn.
Khám niêm mạc má: các vết sẹo chai tương
ứng với bờ nhai các răng sau.
Một TQXRM được ghi nhận là có nếu
thông tin thu thập từ việc phỏng vấn phụ
huynh và trẻ đồng thuận dương tính với kết
quả khám lâm sàng.
Các dạng sai khớp cắn khảo sát bao gồm:
Tương quan răng cối vĩnh viễn thứ nhất theo
phân loại Angle, cắn chìa quá mức, cắn chéo
răng trước, cắn sâu, cắn hở răng trước, cắn chéo
răng sau, cắn kéo răng sau, cắn hở răng sau, lệch
đường giữa răng cửa, lệch lạc răng trước.
Đánh giá độ kiên định của điều tra viên giữa
2 lần khám cho chỉ số Kappa từ 0,73 đến 1,0.
Đánh giá sự đồng thuận giữa 2 điều tra viên thu
được chỉ số Kappa từ 0,62 đến 1,0.
Dữ liệu từ phiếu khám và các bảng câu hỏi
được nhập và mã hóa bằng phần mềm Excel
2007, sau đó được đưa vào xử lý bằng phần mềm
Stata 10.0. Các khác biệt về tỉ lệ TQXRM theo
tuổi và giới được xác định bằng phép kiểm chi
bình phương Pearson và Fisher’s Exact với độ tin
cậy 95% (p<0.05). Để khảo sát mối tương quan
giữa các dạng TQXRM và các dạng SKC, chúng
tôi sử dụng phân tích hồi quy logistic.
KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN
Mẫu nghiên cứu
Mẫu nghiên cứu là 634 trẻ bao gồm 324 trẻ
nữ, chiếm tỉ lệ 51,1% và 310 trẻ nam, chiếm tỉ lệ
48,9%. Tỉ lệ trẻ thuộc 5 lứa tuổi 6,7,8,9 và 10 lần
lượt là 27,4%, 29,5%, 11,4%, 11,7% và 20%.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 94
Tỉ lệ thói quen xấu về răng miệng
Số trẻ mắc phải một trong các dạng TQXRM
khảo sát trong nghiên cứu là 487 trong tổng số
634 trẻ, chiếm tỉ lệ 76,8%. Tỉ lệ này rất cao so với
các nghiên cứu khác cùng thể loại: Andrija
Bošnjak(1)và cs (2002) nghiên cứu trên 1025 trẻ 6-
11 tuổi báo cáo tỉ lệ này là 33,37%, Deepak(2) và cs
(2009)(1000 trẻ 11-13 tuổi) tỉ lệ 38%, Quashie(7)và
cs (2010) (928 trẻ 4-15 tuổi) tỉ lệ 34,1%.
Tỉ lệ phần trăm các loại TQXRM khảo sát
trong nghiên cứu được biểu diễn theo biểu đồ 1.
Biểu đồ 1: Tỉ lệ răng miệng phần trăm thói quen xấu
được khảo sát trong nghiên cứu.
So với nghiên cứu của Andrija Bošnjak và cs
(2002), Deepak và cs (2009), Quashie và cs (2010)
là 3 nghiên cứu có cỡ mẫu tương đương, cũng
khảo sát nhiều loại thói quen xấu răng miệng- thì
các tỉ lệ biểu diễn ở Biểu đồ 1 cao hơn nhiều.
So với các nghiên cứu khác chỉ khảo sát một
loại thói quen xấu răng miệng thì tỉ lệ này là
tương đương hoặc thấp hơn. Cụ thể, Valdenice
Aparecida de Menezes(11) và cs (2007) nghiên cứu
về thở miệng cho tỉ lệ 55,2%, Rajchanovska
Domnika(8) và cs (2010) nghiên cứu về cắn móng
tay cho tỉ lệ 22,02%.
Sự khác biệt trên có thể do yếu tố địa dư, do
đó cần mở rộng địa bàn khảo sát và cỡ mẫu để
xác định vai trò của yếu tố địa lý trên tỉ lệ thói
quen xấu răng miệng.
Sự phân bố các dạng TQXRM theo giới tính và độ tuổi
Bảng 1: Phân bố các dạng thói quen xấu về răng miệng theo giới tính và độ tuổi
N = 634 Giới tính ðộ tuổi
Nữ Nam 6 tuổi 7 tuổi 8 tuổi 9 tuổi 10 tuổi
n (%) n (%) p n (%) n (%) n (%) n (%) n (%) P
Thở miệng 69 (10,9) 60 (9,5) 0,557 26 (4,1) 37 (5,8) 14 (2,2) 22 (3,5) 30 (4,7) 0,09
ðẩy lưỡi 17 (2,7) 14 (2,2) 0,676 8 (1,3) 4 (0,6) 4 (0,6) 4 (0,6) 11 (1,7) 0,113
Nhai một bên 118 (18,6) 102(16,1) 0,528 70 (11,0) 79 (12,5) 20(3,2) 16 (2,5) 35 (5,5) 0,002
Mút ngón tay 55 (8,7) 55(8,7) 0,797 36 (5,7) 28 (4,4) 7 (1,1) 14 (2,2) 25 (3,9) 0,223
Mút môi 43 (6,8) 52 (8,2) 0,203 26 (4,1) 26 (4,1) 10 (1,6) 8 (1,3) 25 (3,9) 0,524
Mút cắn vật 41 (6,5) 66 (10,4) 0,004 30 (4,7) 30 (4,7) 14 (2,2) 9 (1,4) 24 (3,8) 0,827
Cắn móng tay 78 (12,3) 88 (13,9) 0,205 43 (6,8) 44 (6,9) 28 (4,4) 16 (2,5) 35 (5,5) 0,121
Cắn má 23 (3,6) 36 (5,7) 0,05 12 (1,9) 17 (2,7) 6 (0,9) 5 (0,8) 19 (3,0) 0,154
Nghiến răng 37 (5,8) 40 (6,3) 0,4 26 (4,1) 21 (3,3) 12 (1,9) 7 (1,1) 11 (1,7) 0,225
TQXRM 246 (38,8) 241 (38,0) 0,588 138 (21,8) 139 (21,9) 58 (9,1) 54 (8,5) 98 (15,5) 0,655
Nhìn chung, không có sự khác biệt có ý
nghĩa thống kê về tỉ lệ mắc phải TQXRM giữa
nam và nữ trong nghiên cứu này (p > 0,05). Điều
này phù hợp với kết quả từ các nghiên cứu tại
Việt Nam (Vũ Hải Liêm (2010)(12)) cũng như trên
thế giới (châu Á: Deepak P.B (2009)(2); châu Phi:
Quashie (2010)(7); châu Âu: Andrija B. (2002)(1)).
Tuy nhiên, khi xét riêng từng loại TQXRM,
tật mút cắn đồ vật (chủ yếu là cắn bút) phổ biến
ở trẻ nam (10,4%) hơn trẻ nữ (6,5%) có ý nghĩa
thống kê (p = 0,004). Tật cắn má cũng phổ biến ở
trẻ nam (5,7%) hơn trẻ nữ (3,6%) (p = 0,05). Theo
Massler, các TQXRM kéo dài lâu hơn ở trẻ nam
so với trẻ nữ bởi vì các bé trai thường có khuynh
hướng chống lại các quy định của gia đình hoặc
xã hội(6).
Kết quả trình bày ở bảng 1cho thấy không có
sự khác biệt có ý nghĩa trong sự phân bố tỉ lệ của
đa số các dạng TQXRM theo độ tuổi (p>0,05).
Điều này phù hợp với nghiên cứu của Andrija B.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 95
(2002)(1) trên trẻ Croatia 6-11 tuổi.
Xét riêng từng loại TQXRM, có sự khác biệt
có ý nghĩa ở thói quen nhai một bên với tỉ lệ cao
ở nhóm 6, 7 tuổi và giảm đi nhiều ở nhóm 8, 9, 10
tuổi (p<0,01). Cần các nghiên cứu dọc với cỡ mẫu
lớn hơn để chứng thực và giải thích thấu đáo
phát hiện này.
Tương quan giữa các dạng thói quen xấu về răng miệng và các dạng sai khớp cắn
Bảng 2: Tương quan giữa các thói quen xấu về răng miệng và các dạng sai khớp cắn
N = 634 Thở miệng ðẩy lưỡi Nhai một bên Mút môi Mút ngón
tay
Mút cắn ñồ
vật
Cắn má Cắn móng
tay
Nghiến
rang
n(%) n(%) n(%) n(%) n(%) n(%) n(%) n(%) n(%)
Lệch ñường giữa R cửa 61 (9,6) 14 (2,2) 96 (15,1) 43 (6,8) 44 (6,9) 45 (7,1) 26 (4,1) 77 (12,1) 33 (5,2)
Cắn chéo răng sau 4 (0,6) 0 (0) 8 (1,3) 2 (0,3) 4 (0,6) 5 (0,8) 0 (0) 3 (0,5) 2 (0,3)
Cắn kéo răng sau 0 (0) 1 (0,2) 3 (0,5) 2 (0,3) 2 (0,3) 2 (0,3) 4 (0,6) 4 (0,6) 0 (0)
Cắn sâu 36 (5,7) 9 (1,4) 51 (8) 27 (4,3) 31 (4,9) 26 (4,1) 14 (2,2) 30 (4,7) 19 (3)
Cắn hở răng trước 7 (1,1) 0 (0) 8 (1,3) 1 (0,2) 5 (0,8) 2 (0,3) 0 (0) 2 (0,3) 2 (0,3)
Cắn hở răng sau 3 (0,5) 0 (0) 2 (0,3) 0 (0) 0 (0) 3 (0,5) 1 (0,2) 1 (0,2) 0 (0)
Cắn chìa quá mức 32 (5) 12 (1,9) 47 (7,4) 18 (2,8) 25 (3,9) 22 (3,5) 7 (1,1) 26 (4,1) 17 (2,7)
Cắn chéo răng trước 12 (1,9) 2 (0,3) 18 (2,8) 11 (1,7) 8 (1,3) 8 (1,3) 8 (1,3) 17 (2,7) 6 (0,9)
Hạng II 25 (3,9) 5 (0,8) 39 (6,2) 23 (3,6) 21 (3,3) 19 (3,0) 9 (1,4) 31 (4,9) 13 (2,1)
Hạng III 18 (2,8) 5 (0,8) 25 (3,9) 17 (2,7) 16 (2,5) 12 (1,9) 14 (2,2) 22 (3,5) 8 (1,3)
Xoay lệch răng trước 16 (2,5) 3 (0,5) 16 (2,5) 14 (2,2) 17 (2,7) 5 (0,8) 4 (0,6) 19 (3) 10 (1,6)
Thở miệng: Nghiên cứu ghi nhận mối tương
quan có ý nghĩa thống kê giữa thở miệng và cắn
hở răng trước (p=0.016). Nhiều tài liệu y văn cũng
khẳng định cắn hở răng trước là một dạng SKC
thường gặp ở trẻ thở miệng. Điều này phù hợp
với kết quả từ nghiên cứu của chúng tôi cũng
như của Souki BQ (2009)(9) và Vũ Hải Liêm
(2010)(12).
Đẩy lưỡi: Cắn chìa quá mức tương quan có ý
nghĩa với đẩy lưỡi (p=0.010). Kết quả này phù
hợp với nghiên cứu của Tahereh Jalaly và cs
(2009)(10) khi khẳng định độ cắn chìa trung bình
tăng có ý nghĩa ở nhóm trẻ có đẩy lưỡi (p<0.05).
Nhai một bên: Không tìm thấy tương quan
giữa nhai một bên và sai khớp cắn mặc dù tỉ lệ
trẻ có lệch đường giữa răng cửa ở nhóm có thói
quen nhai một bên là cao nhất. Điều này phù
hợp với nhận định của H. Yamaguchi (2003)(3)
rằng trẻ có thói quen nhai một bên có thể dẫn
đến sự nghiêng sang bên của mặt phẳng khớp
cắn và sự lệch đường giữa răng dưới sang bên
ăn nhai.
Mút ngón tay: Nghiên cứu của chúng tôi ghi
nhận được mối tương quan có ý nghĩa thống kê
giữa thói quen mút ngón tay và tình trạng cắn hở
răng trước (p=0.016). Điều này phù hợp với
nghiên cứu của Vũ Hải Liêm (2010)(12) tại Hà Nội
cũng như nhiều báo cáo dịch tễ học và tài liệu
lâm sàng khác trên thế giới trước đây như Gellin
ME (1978), Larsson E (1987), Fukutua O.(1996),
Warren JJ (2005)(13). Đặc biệt chúng tôi có ghi
nhận được sự liên hệ có ý nghĩa rất cao giữa mút
ngón tay và tình trạng lệch lạc răng trước
(p=0,008), điều này cũng từng được Larsson E
báo cáo năm 1994(5).
Mút cắn đồ vật: Trong nghiên cứu này, ghi
nhận được mối tương quan có ý nghĩa thống kê
giữa mút cắn đồ vật với tình trạng lệch lạc răng
trước (p=0,021). Điều này cũng phù hợp với
những nhận định trong y văn thế giới vì thói
quen mút cắn đồ vật thường chỉ tác động khu
trú trên một vài răng chịu lực(5), trong đó vùng
răng trước thường thuận tiện cho trẻ đặt vật hơn.
Bên cạnh đó, cắn bút bi là thói quen phổ biến
nhất trong nhóm này.
Cắn má: Trong nghiên cứu này, có sự khác
biệt có ý nghĩa thống kê trong sự phân bố của
thói quen cắn má với cắn kéo răng sau (p=0,04).
Trên một khớp cắn bình thường, độ phủ ngoài
của răng sau trên giúp giữ cho niêm mạc môi má
tách khỏi mặt nhai của răng sau dưới trong quá
trình ăn nhai. Độ phủ ngoài quá mức của các
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 96
răng trên trong cắn dạng kéo hoàn toàn có thể là
yếu tố khởi phát cho thói quen này. Nhưng xét ở
khía cạnh khác, động tác cắn kèm mút má có thể
tạo các lực bất thường làm thu hẹp cung răng
dưới gây cắn kéo.
Mút cắn môi, cắn móng tay, nghiến răng:
Nghiên cứu này không ghi nhận được mối
tương quan có ý nghĩa thống kê nào giữa 3
TQXRM này với các dạng SKC.
KẾT LUẬN
Tỉ lệ thói quen xấu răng miệng khảo sát
trong nghiên cứu rất cao.
Đối với đa số TQXRM, không có sự khác biệt
thống kê trong sự phân bố theo giới tính và độ
tuổi.
Nghiên cứu khẳng định tương quan chặt chẽ
giữa TQXRM và tình trạng khớp cắn ở bộ răng
hỗn hợp.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Andrija B (2002). Incidence of oral habits in children with
mixed dentition. Journal of Oral Rehabilitation, 29: 902-905.
2. Deepak PB, Tarulatha RS (2009). Prevalence of Oral Habits in
11–13 year-old School Children in Gulbarga city, India.
Virtual Journal of Orthodontics, 8(3): 1-4.
3. Francisco JMP (2011). Prevalence of non-nutritive buccal
habits in a group of preschoolchildren in Nezahualcoyotl City,
Mexico. Bol Med Hosp Infant Mex 2011, 68(1): 24-33.
4. Hideharu Y, Kenji S (2003). Malocclusion associated with
abnormal posture. Bull Tokyo dent, 44 (2): 43-54.
5. Larsson E (1994). Artificial sucking habits, etiology, prevalence
and effect on oclusion. Int J Orofacial Myology, 20: 10-21.
6. Massler M (1983). Oral Habits: Development and
Management. The Journal of Pedodontics, 7(2): 109-119.
7. Quashie WR, Da Costa OO (2010). Oral habits, prevalence and
effects on occlusion of 4-15 year old school children in Lagos,
Nigeria. Niger Postgrad Med J, 17(2): 113-120.
8. Rajchanovska D (2010). Prevalence of nail biting among
preschool children in Bitola. The journal of special education
and rehabilitation.
9. Souki BQ, Pimenta GB (2009). Prevalence of malocclusion
among mouth breathing children: do expectations meet
reality?. Int J Pediatr Otorhinolaryngol, 73(5): 767-773.
10. Tahereh J, Farzaneh A (2009). Effect of tounge thrust
swallowing on position of anterior teeth. Journal of Dental
research, Dental clinics, Dental Prospects, 3(3): 73-77.
11. Valdenice A (2007). Influence of socio-economic and
demographic factors in determining breathing patterns: a pilot
study. Rev.Bras.Otorrinolaringol, 73(6).
12. Vũ Hải Liêm (2010). Nhận xét mối liên quan giữa thói quen
răng miệng xấu và lệch lạc khớp cắn ở trẻ em 7 – 11 tuổi tại
trường tiểu học Tân Mai Hà Nội. Đại học Y Hà Nội.
13. Warren JJ, Slayton RL (2005). Effects of nonnutritive sucking
habits on occlusal characteristics in the mixed dentition.
Pediatr Dent, 27(6): 445-450.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- thoi_quen_xau_ve_rang_mieng_va_tinh_trang_sai_khop_can_o_nho.pdf