Chụp MSCT hệ động mạch chủ chậu là tiêu
chuẩn có giá trị nhất trong chẩn đoán những trường
hợp AVFs. Trên phim chụp quan sát được thuốc
can quang qua tĩnh mạch trong thì động mạch tại
chỗ nghi ngờ AVFs. Phim MSCT giúp bác sĩ phẫu
thuật cũng như can thiệp xác định được chẩn đoán
AVFs, ban đầu đánh giá được nguyên nhân AVFs,
định hướng được vị trí, kích thước của AVFs trong
quá trình mổ và can thiệp. Siêu âm tim trong những
trường hợp không mổ cấp cứu giúp đánh giá chức
năng thất phải, áp lúc động mạch phổi, chức năng
thất trái, siêu âm [14]. Trên bệnh nhân của chúng
tôi, khi nghe tiếng thổi liên tục vùng thắt lưng chúng
tôi nghi ngờ có thông thương giữa hệ thống động
chủ lớn và tĩnh mạch lớn tại bụng nên bệnh nhân
được đi chụp MSCT động mạch chủ cấp.
Bệnh nhân bị AVFs nên được điều trị phẫu thuật
hoặc can thiệp nội mạch cấp. Với những trường hợp
phình động mạch chủ chậu vỡ mà huyết động không
ổn định thì phẫu thuật hoặc can thiệp nội mạch là
tối cấp cứu.Hiện tại có hai phương pháp điều trị
AVFs là phẫu thuật mổ và can thiệp nội mạch. Mục
tiêu của phẫu thuật hay can thiệp nội mạch đều là
cắt đứt sự thông thương giữa động mạch và tĩnh
mạch để tái lập tuần hoàn tự nhiên, giải quyết được
nguyên nhân gây ra của AVFs. Theo ESC guideline
2014 thì với những trường hợp phình động mạch
chủ bụng vỡ, can thiệp nội mạch có chỉ định vượt
trội so với phẫu thuật đơn thuần do làm giảm nguy
cơ tử vong trong mổ và giảm thời gian nằm viện đối
với những bệnh nhân có giải phẫu động mạch chủ
phù hợp với can thiệp nội mạch [15], [16]. AVFs
cũng là một thể hiếm gặp của phình động mạch chủ
bụng vỡ.Phẫu thuật AVFs có nguy cơ tử vong cao
trong mổ [17]. Các phân tích gộp mới đây cũng chỉ
ra hiệu quả của can thiệp nội mạch trên bệnh nhân
AVFs [18], [4]. Bệnh nhân của chúng tôi được
phẫu thuật do bệnh nhân không có điều kiện can
thiệp do kinh phí can thiệp cao.
4 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 2 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Thông động tĩnh mạch lớn tại bụng (Major abdominal arterio-Venous fistulas) - Nhân một ca lâm sàng hiếm gặp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG
55TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 87.2019
Thông động tĩnh mạch lớn tại bụng
(Major abdominal arterio-venous fistulas) -
Nhân một ca lâm sàng hiếm gặp
Phạm Mạnh Hùng*, Phạm Nhật Minh*, Nguyễn Bá Ninh*
Ngô Thị Hồng Hạnh**, Nguyễn Quang Kha**, Phạm Thanh Bình**
Bộ môn Tim mạch, Trường Đại học Y Hà Nội, Viện Tim mạch Việt Nam*
Viện Tim mạch Việt Nam**
MỞ ĐẦU
Thông động tĩnh mạch lớn tại bụng (AVFs)
được định nghĩa là có sự nối thông bất thường
giữa động mạch chủ, động mạch châụ, động mạch
thận với tĩnh mạch chủ dưới, tĩnh mạch chậu, tĩnh
mạch thận. AVFs hay gặp nhất là thông động tĩnh
mạch tại chạc ba chủ chậu (aortocaval fistula) [1].
AVFs là một tĩnh trạng hiếm gặp chiếm 1% những
trường hợp phình động mạc chủ bụng và chiếm 4%
những trường hợp phình động mạch chủ bụng vỡ
[2]. Theo bệnh nguyên, AVFs chia thành nguyên
phát và thứ phát [3]. AVFs nguyên phát do ăn mòn
của phần phình động mạch vào tĩnh mạch, AVFs
nguyên phát hay gặp chiếm khoảng 80% trường
hợp AVFs [4]. AVFs thứ phát ít găp hơn, chiếm
khoảng 20% trường hợp, nguyên nhân thường do
vết thương bụng hoặc chấn thương bụng, do nhiễm
trùng huyết, do ung thư, do giang mai, các phẫu
thuật của tầng chậu, phẫu thuật tầng ổ bụng, phẫu
thuật cột sống thắt lưng cùng, Hội chứng Marfan,
hội chứng Ehlers-Danlos, viêm mạch Takayasu’s.
[5], [6]. Triệu chứng của AVFs bao gồm triệu chứng
của phình động mạch chủ bụng và triệu chứng của
thông động tĩnh mạch lớn tại bụng [7]. AVFs có thể
tiến triển nhanh chóng gây tử vong. Sửa chữa bất
thường thông động tĩnh mạch để tái lập tuần hoàn
tự nhiên là bắt buộc cần phải được tiến hành sớm.
Phẫu thuật mở là phương phát điều trị kinh điểm, từ
năm 1998 có thêm can thiệp nội mạch trong điều
trị AVFs [8].
CA LÂM SÀNG
Bệnh nhân nữ 69 tuổi có tiền sử tăng huyết áp
10 năm điều trị không thường xuyên, HA cao nhất
200/100.Bệnh nhân không có tiền sử chấn thương,
vết thương bụng, không có phẫu thuật, can thiệp
trước đó.Cách vào viện 1 tháng bệnh nhân xuất
hiện khó thở tăng dần, không có tiên sử đau bụng,
đau ngực, kèm theo phù hai chi dưới mức độ nhiều.
Khám lâm sàng phát hiện phù 2 chi dưới mức độ
nhiều, gan to 4 cm dưới bờ sườn, tĩnh mạch cổ nổi
rõ tư thế nằm 30 độ, dịch tự do ổ bụng, nghe tim
không có tiếng thổi bất thường. Nhưng khi nghe
phổi phát hiện tiếng thổi tâm thu 3/6 ở hai đáy phổi
NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG
56 TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 87.2019
dọc sống lưng, tiếng thổi rõ hơn khi nghe xuống
vùng thắt lưng, nghe tại vùng thắt lưng có tiếng
thổi liên tục. Bệnh nhân được chụp MSCT động
mạch chủ ngực bụng phát hiện túi phình động
mạch chậu gốc phải gần ngã ba chủ chậu có cổ kích
thước 14.6mm, kích thước túi 28.1 x 25.7 mm dò
vào tĩnh mạch chậu gốc phải. Siêu âm tim có tình
trạng suy tim phải với thất phải giãn to 35mm, tăng
áp lức động mạch phổi mức độ vừa 51mmHg, kích
thước và chức năng tâm thu thất trái bình thường,
tĩnh mạch chủ dưới giãn to 32 mm. Bệnh nhân
được chẩn đoán túi phình động mạch chủ dò vào
tĩnh mạch chậu phải. Bệnh nhân có chỉ định can
thiệp nội mạch nhưng do gia đinh không có điều
kiện nên bệnh nhân được phẫu thuật 5 ngày sau
nhập viện,phẫu thuật gồm có khâu lỗ dò bên phía
tĩnh mạch, thay đoạn động mạch chậu gốc phải
bằng đoạn mạch nhân tạo 60X 6 mm. Tổn thương
quan sát được trong lúc mổ là tổn thương loét do xơ
vữa động mạch. Sau phẫu thuật bệnh nhân ổn định,
siêu âm tim lại kích thước thất phải giảm xuống 25
mm, áp lực động mạch phổi giảm xuống 32 mmHg,
không cò phù, và dịch ổ bụng, không còn khó thở.
Bệnh nhân xuất viện ngày thứ 10 sau mổ.
Hiện tại, sau theo dõi 3 năm, 2 tháng bệnh nhân
trong tình trạng ổn định, không đau ngực, không
khó thở. Hoàn toàn không còn triệu chứng của suy
tim trái, khẳng định hơn phương án điều trị đặt ra
là đúng đắn.
Hình 1. Phình MSCT dựng hình phình tĩnh mạch
chậu gốc phải và thông động tĩnh mạch chậu gốc phải
BÀN LUẬN
Như đã giới thiệu ở trên, triệu chứng của AVFs
bao gồm triệu chứng của phình động mạch chủ,
động mạch chậu có thể kèm theo triệu chứng của
vỡ rõ ràng và triệu chứng của suy tim. Theo David
C và cộng sự nghiên cứu trên 20 bệnh nhân bị AVFs
thì có 14 bệnh nhân phình do xơ vữa động mạch, 4
bệnh nhân thứ phát sau phẫu thuật, 2 bệnh nhân do
đạn bắn. Thời gian xác nhận chẩn đoán từ 3 giờ tới
8 năm. Chẩn đoán không được nhận ra trước phẫu
thuật chiếm 5 bệnh nhân (25%). Đau lưng là triệu
chứng phổ biến nhất chiếm 70%. Tiếng thổi xuất
hiện khi thăm khám chiếm 80% trường hợp. Suy tim
sung huyết xảy ra ở 35% bệnh nhân, phù chi dưới
xảy ra ở 40% bệnh nhân, chủ yếu là những trường
hợp chẩn đoán muộn. Đái máu xảy ra ở 5 bệnh nhân
và suy thận ở 4 bệnh nhân. Triệu chứng khởi phát
cấp tính với những trường hợp phình động mạch
chủ bụng vỡ vào khoang sau phúc mạc, khoang
trong ổ bụng kèm AVFs, nổi bật là tình trạng suy sụp
huyết động nhanh chóng. AVFs có thể không triệu
chứng hoặc triệu chứng không điển hình dẫn tới trì
hoãn chẩn đoán và điều trị ở những bệnh nhân có
vỡ đơn thuần từ động mạch vào tĩnh mạch là chủ
yếu [2], [9]. Thậm chí AVFs không được nhận ra
khi phẫu thuật phình động mạch chủ bụng đặc biệt
khi triệu chứng của vỡ động mạch chủ bụng là nổi
trội. Vai trò của chẩn đoán trước mổ là quan trọng,
điển hình chính là tiếng thổi nghe được vùng thắt
lưng với những bệnh nhân có phình động mạch
chủ bụng dọa vỡ, hoặc vỡ. Thứ nhất để tránh bỏ sót
trong quá trình mổ, thứ 2 để giảm thiểu tối đa mất
máu trong mổ, thứ 3 để tránh nhồi máu phổi trong
mổ hoặc sau mổ [10], [11]. Những triệu chững
không điển hình khác bao gồm: đau bụng, khối
đập theo nhịp mạch, khó thở [12]. Những bệnh
nhân suy tim, ban đầu là suy tim phải, mà có áp lực
trong hệ thống tĩnh mạch tăng cao mà không tìm
được nguyên nhân rõ ràng cũng gợi ý chẩn đoán
NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG
57TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 87.2019
[13]. Trường hợp lâm sàng của chúng tôi là một
trường hợp không điển hình của AVFs do phình
động mạch chậu gốc phải do xơ vữa trên nền bệnh
nhân tăng huyết áp nhiều năm không được điều
trị đều. Bệnh nhân của chúng tôi nhập viện trong
tình trạng huyết động ổn định, không có tiền sử
đau lưng, đau bụng không rõ ràng, chủ yếu trong
bệnh cảnh của suy tim phải và tăng áp lực trong
hệ thông tĩnh mạch, dấu hiệu giúp chúng tôi chẩn
đoán nhanh là tiếng thổi liên tục tại vùng thắt lưng
cạnh cột sống của bệnh nhân nghe rất rõ.
Chụp MSCT hệ động mạch chủ chậu là tiêu
chuẩn có giá trị nhất trong chẩn đoán những trường
hợp AVFs. Trên phim chụp quan sát được thuốc
can quang qua tĩnh mạch trong thì động mạch tại
chỗ nghi ngờ AVFs. Phim MSCT giúp bác sĩ phẫu
thuật cũng như can thiệp xác định được chẩn đoán
AVFs, ban đầu đánh giá được nguyên nhân AVFs,
định hướng được vị trí, kích thước của AVFs trong
quá trình mổ và can thiệp. Siêu âm tim trong những
trường hợp không mổ cấp cứu giúp đánh giá chức
năng thất phải, áp lúc động mạch phổi, chức năng
thất trái, siêu âm [14]. Trên bệnh nhân của chúng
tôi, khi nghe tiếng thổi liên tục vùng thắt lưng chúng
tôi nghi ngờ có thông thương giữa hệ thống động
chủ lớn và tĩnh mạch lớn tại bụng nên bệnh nhân
được đi chụp MSCT động mạch chủ cấp.
Bệnh nhân bị AVFs nên được điều trị phẫu thuật
hoặc can thiệp nội mạch cấp. Với những trường hợp
phình động mạch chủ chậu vỡ mà huyết động không
ổn định thì phẫu thuật hoặc can thiệp nội mạch là
tối cấp cứu.Hiện tại có hai phương pháp điều trị
AVFs là phẫu thuật mổ và can thiệp nội mạch. Mục
tiêu của phẫu thuật hay can thiệp nội mạch đều là
cắt đứt sự thông thương giữa động mạch và tĩnh
mạch để tái lập tuần hoàn tự nhiên, giải quyết được
nguyên nhân gây ra của AVFs. Theo ESC guideline
2014 thì với những trường hợp phình động mạch
chủ bụng vỡ, can thiệp nội mạch có chỉ định vượt
trội so với phẫu thuật đơn thuần do làm giảm nguy
cơ tử vong trong mổ và giảm thời gian nằm viện đối
với những bệnh nhân có giải phẫu động mạch chủ
phù hợp với can thiệp nội mạch [15], [16]. AVFs
cũng là một thể hiếm gặp của phình động mạch chủ
bụng vỡ.Phẫu thuật AVFs có nguy cơ tử vong cao
trong mổ [17]. Các phân tích gộp mới đây cũng chỉ
ra hiệu quả của can thiệp nội mạch trên bệnh nhân
AVFs [18], [4]. Bệnh nhân của chúng tôi được
phẫu thuật do bệnh nhân không có điều kiện can
thiệp do kinh phí can thiệp cao.
KẾT LUẬN
AVFs là một biên chứng không phổ biến của
phình động mạch chủ bụng có thể xảy ra với hoặc
không với vỡ động mạch chủ vào khoang ổ bụng
hay sau phúc mạc. Ở trong những trường hợp
chỉ đơn thuần là rò từ động mạch vào tĩnh mạch
thì triệu chưng của suy tim sung huyết với áp lúc
trong hệ thống tĩnh mạch cao là nổi trội. Những
triệu chứng chúng ta có thể nhận ra để chẩn đoán
những bệnh nhân này là khám bụng, nghe vùng
bụng lưng, triệu chững của suy tim phải và tăng áp
lúc cao trong hệ thống tĩnh mạch không giải thích
bằng những nguyên nhân khác. MSCT động mạch
chủ là phương pháp quan trọng nhất trong chẩn
đoán xác định AVFs cũng như nguyên nhân AVFs.
Có hai phương pháp điều trị AVFs là phẫu thuật và
can thiệp nội mạch, ưu tiên can thiệp nội mạch với
những bệnh nhân có giải phẫu động mạch chủ chậu
phù hợp.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ghassan Nakad, Ghassan AbiChedid, và Raed Osman (2014). Endovascular Treatment of Major
Abdominal Arteriovenous Fistulas: A Systematic Review. Vasc Endovascular Surg, 48(5–6), 388–395.
NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG
58 TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 87.2019
2. Baker W.H., Sharzer L.A., và Ehrenhaft J.L. (1972). Aortocaval fistula as a complication of abdominal
aortic aneurysms. Surgery, 72(6), 933–938.
3. Länne T. và Bergqvist D. (1992). Aortocaval fistulas associated with ruptured abdominal aortic
aneurysms. Eur J Surg Acta Chir, 158(9), 457–465.
4. Antoniou G.A., Koutsias S., Karathanos C. và cộng sự. (2009). Endovascular stent-graft repair of
major abdominal arteriovenous fistula: a systematic review. J Endovasc Ther Off J Int Soc Endovasc Spec,
16(4), 514–523.
5. Alexander J.J. và Imbembo A.L. (1989). Aorta-vena cava fistula. Surgery, 105(1), 1–12.
6. Travers R.L., Allison D.J., Brettle R.P. và cộng sự. (1979). Polyarteritis nodosa: A clinical and
angiographic analysis of 17 cases. Semin Arthritis Rheum, 8(3), 184–199.
7. Taheri S.A. và Plonka A.J. (1986). Aortocaval fistula: diagnosis and treatment: case studies. Angiology,
37(4), 314–318.
8. Beveridge C.J., Pleass H.C., Chamberlain J. và cộng sự. (1998). Aortoiliac aneurysm with arteriocaval
fistula treated by a bifurcated endovascular stent-graft. Cardiovasc Intervent Radiol, 21(3), 244–246.
9. Dardik H., Dardik I., Strom M.G. và cộng sự. (1976). Intravenous rupture of arteriosclerotic aneurysms of
the abdominal aorta. Surgery, 80(5), 647–651.
10. Weigent C.E. (1978). Pulmonary atheroembolism complicating repair of an atherosclerotic abdominal
aneurysm. Minn Med, 61(1), 15–16.
11. De Rango P., Parlani G., Cieri E. và cộng sự. (2012). Paradoxical pulmonary embolism with
spontaneous aortocaval fistula. Ann Vasc Surg, 26(5), 739–746.
12. Lin P.H., Bush R.L., và Lumsden A.B. (2004). Aortocaval fistula. J Vasc Surg, 39(1), 266.
13. Aorto caval fistula—the “bursting heart syndrome” | Emergency Medicine Journal. <
com/content/17/3/223>, accessed: 23/12/2017.
14. Rosenthal D., Atkins C.P., Jerrius H.S. và cộng sự. (1998). Diagnosis of aortocaval fistula by
computed tomography. Ann Vasc Surg, 12(1), 86–87.
15. Erbel R., Aboyans V., Boileau C. và cộng sự. (2014). 2014 ESC Guidelines on the diagnosis and
treatment of aortic diseases: Document covering acute and chronic aortic diseases of the thoracic and
abdominal aorta of the adult. The Task Force for the Diagnosis and Treatment of Aortic Diseases of the
European Society of Cardiology (ESC). Eur Heart J, 35(41), 2873–2926.
16. Reimerink J.J., Hoornweg L.L., Vahl A.C. và cộng sự. (2013). Endovascular repair versus open
repair of ruptured abdominal aortic aneurysms: a multicenter randomized controlled trial. Ann Surg,
258(2), 248–256.
17. Davidovic L., Dragas M., Cvetkovic S. và cộng sự. (2011). Twenty years of experience in the treatment of
spontaneous aorto-venous fistulas in a developing country. World J Surg, 35(8), 1829–1834.
18. Nakad G., AbiChedid G., và Osman R. (2014). Endovascular Treatment of Major Abdominal
Arteriovenous Fistulas. Vasc Endovascular Surg.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
thong_dong_tinh_mach_lon_tai_bung_major_abdominal_arterio_ve.pdf