I. HOẠT ĐỘNG MÔI TRƯỜNG.
Ngành ngoại thương nước ta từ năm 1979 trở về trước được tổ chức theo cơ chế tập trung quan hệ ngoại thương của nước ta chủ yếu là với các nước trong khối xã hội chủ nghĩa trước đây. Nhà nước chịu trách nhiệm ký kết các nghị định thư với các nước và giao chỉ tiêu kế hoạch xuất nhập khẩu cho các đơn vị chuyên doanh trên cơ sở những nghị định thư đó Trên cơ sở đó các đơn vị ký hợp đồng ngoại và giao hàng cho các nước. Mọi hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu đều thông qua các đơn vị kinh doanh ngoại thương Trung ương (gọi là các Tổng cong ty ngoại thương Trung ương) thuộc quản lý ò Bộ Ngoại thương. Các Bộ, Ngành khác và các địa phương có nhiệm vụ sản xuất, khai thác thu mua rồi giao hàng cho các đơn vị kinh doanh của Bộ ngoại thương xuất khẩu, nhập khẩu theo kế hoạch Nhà nước.
Từ năm 1980 đến nay, Nhà nước đã có nhiều chủ trương chính sách mới nhằm khuyến khích, mở rộng và tăng hiệu quả của hoạt động ngoại thương, Nhà nước trao quyền kinh doanh xuất, nhập khẩu cho các Bộ, Ngành sản xuất, thực hiện chủ trương khép kín từ sản xuất đến tiêu thụ của mỗi Bộ, Ngành. Đồng thời để phát huy tiềm năng của các địa phương, Nhà nước cũng cho phép nhiều địa phương có đủ những điều kiện do Nhà nước quy định, được phép trực tiếp xuất, nhập khẩu với nước ngoài.
Với chủ trương thay đổi chính sách kinh tế của Đảng và Nhà nước, số đơn vị kinh doanh ngoại thương tăng lên nhanh chóng. Năm 1979, số đơn vị kinh doanh ngoại thương Trung ương là 11 đơn vị, không có đơn vị kinh doanh nào thuộc địa phương. Năm 1985, đã có 23 đơn vị kinh doanh ngoại thương Trung ương và 15 đơn vị kinh doanh ngoại thương địa phương. Năm 1990, tổng số các đơn vị được quyền kinh doanh xuất nhập khẩu trực tiếp thương xuyên và từng chuyến là 270 đơn vị trong đó 170 đơn vị TW và 163 đơn vị địa phương. Năm 1991, số đơn vị xuất khẩu trực tiếp là trên 400 đơn vị, đến nay là hơn 7000 đơn vị.
Sự phát triển của hoạt động ngoại thương không chỉ thể hiện ở sự gia tăng mạnh mẽ số lượng các đơn vị xuất nhập khẩu mà kim ngạch xuất nhập khẩu qua mỗi năm đều tăng đáng kể, nhất là trong những năm gần đây. năm 1976, tổng mức lưu chuyển ngoại thương của cả nước chỉ đạt 1,2 tỷ R-USD, năm 1985 là 2,6 tỷ R-USD, năm 1989 đạt 4,5 tỷ R-USD, năm 1990 là 5,1 tỷ USD, năm 1995 là 13,6 tỷ USD, năm 1997 đạt 20,8 tỷ USD và ước tính năm 1999 đạt trên 23 tỷ USD.
Số nước có quan hệ thương mại với Việt nam cũng tăng lên nhanh chóng, năm 1985 nước ta có quan hệ ngoại thương với 67 nước, năm 2990 là 57 nước, đến nay con số này đã là trên 160 nước.
Hoạt động xuất nhập khẩu đã đóng góp phần quan trọng trong những thành tựu kinh tế xã hội của đát nước, đưa nước ta thoát khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế xã hội, tăng trưởng kinh tế hàng năm trên 8%, lạm phát giảm từ 3 con số vào cuối những năm 80 xuống còn 2 con số vào đầu những năm 90 và còn một con sè trong những năm từ 1996 đến nay, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân ngày càng được cải thiện và nâng cao.
Kết quả của hoạt động của ngoại thương được tạo ra và gắn liền với hệ thống thống kê xuất nhập khẩu. Mặt khác, những đặc điểm của hệ thống thống kê xuất nhập khẩu cũng chịu ảnh hưởng nhiều chính sách, cơ chế điều hành, quản lý của Nhà nước đối với hoạt động ngoại thương.
Trong dãy số thời gian, người ta có thể biểu diễn các chỉ tiêu trong từng khoảng thời gian hay vào thời điểm nhất định. Do đó, dãy thời gian được chia làm hai loại:
+ Dãy số thời kỳ: là dãy số thời gian phản ánh qui mô của hiện tượng trong từng khoảng thời gian nhất định. Mỗi mức độ của dãy số thơì kỳ là sự tích luỹ về lượng qua thời gian, vì vậy độ dài khoảng cách thời gian ảnh hưởng trực tiếp đến trị số của chỉ tiêu và có thể cộng các trị số của chỉ tiêu để phản ánh quy mô của hiện tượng trong khoảng thời gian dài hạn.
+ Dãy số thời điểm: Là dãy số thời gian phản ánh quy mô của hiện tượng trong những thời điểm nhất định. Mức độ của hiện tượng ở thời điểm sau thường bao gồm toàn bộ hoặc một phần mức độ của hiện tượng ở thời điểm trước đó. Do đó việc cộng các trị số của chỉ tiêu không phản ánh quy mô của hiện tượng.
Dãy số thời gian là phương pháp thống kê nghiên cứu đặc điểm sự biến động của hiện tượng qua thời gian. Từ đó rót ra xu thế biến động chung và có thể dự đoán sự phát triển của hiện tượng trong tương lai.
Để có thể phản ánh đúng đắn sự phát triển của hiện tượng qua thời gian thì khi xây dựng một dãy số thời gian phải đảm bảo tính chất có thể so sánh được giữa các mức độ trong dãy số. Cụ thể là: Nội dung và phương pháp tính các chỉ tiêu qua thời gian phải thống nhất; phạm vi tính toán của hiện tượng qua thời gian phải nhất chí; khoảng cách thời gian trong dãy số nên bằng nhau nhất là với dãy số thời kỳ. Tuy nhiên, trong thực tế có nhiều lý do khác nhau nên các yêu cầu thường bị vi phạm. Để đảm bảo tính chất có thể so sánh được người ta thường phải tiến hành chỉnh lý lại tài liệu.
51 trang |
Chia sẻ: thanhnguyen | Lượt xem: 1784 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Thông tin thống kê trong nghiên cứu xuất nhập khẩu hàng hoá ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ị trong đó 170 đơn vị TW và 163 đơn vị địa phương. Năm 1991, số đơn vị xuất khẩu trực tiếp là trên 400 đơn vị, đến nay là hơn 7000 đơn vị.
Sự phát triển của hoạt động ngoại thương không chỉ thể hiện ở sự gia tăng mạnh mẽ số lượng các đơn vị xuất nhập khẩu mà kim ngạch xuất nhập khẩu qua mỗi năm đều tăng đáng kể, nhất là trong những năm gần đây. năm 1976, tổng mức lưu chuyển ngoại thương của cả nước chỉ đạt 1,2 tỷ R-USD, năm 1985 là 2,6 tỷ R-USD, năm 1989 đạt 4,5 tỷ R-USD, năm 1990 là 5,1 tỷ USD, năm 1995 là 13,6 tỷ USD, năm 1997 đạt 20,8 tỷ USD và ước tính năm 1999 đạt trên 23 tỷ USD.
Số nước có quan hệ thương mại với Việt nam cũng tăng lên nhanh chóng, năm 1985 nước ta có quan hệ ngoại thương với 67 nước, năm 2990 là 57 nước, đến nay con số này đã là trên 160 nước.
Hoạt động xuất nhập khẩu đã đóng góp phần quan trọng trong những thành tựu kinh tế xã hội của đát nước, đưa nước ta thoát khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế xã hội, tăng trưởng kinh tế hàng năm trên 8%, lạm phát giảm từ 3 con số vào cuối những năm 80 xuống còn 2 con số vào đầu những năm 90 và còn một con sè trong những năm từ 1996 đến nay, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân ngày càng được cải thiện và nâng cao.
Kết quả của hoạt động của ngoại thương được tạo ra và gắn liền với hệ thống thống kê xuất nhập khẩu. Mặt khác, những đặc điểm của hệ thống thống kê xuất nhập khẩu cũng chịu ảnh hưởng nhiều chính sách, cơ chế điều hành, quản lý của Nhà nước đối với hoạt động ngoại thương.
Trong dãy số thời gian, người ta có thể biểu diễn các chỉ tiêu trong từng khoảng thời gian hay vào thời điểm nhất định. Do đó, dãy thời gian được chia làm hai loại:
+ Dãy số thời kỳ: là dãy số thời gian phản ánh qui mô của hiện tượng trong từng khoảng thời gian nhất định. Mỗi mức độ của dãy số thơì kỳ là sự tích luỹ về lượng qua thời gian, vì vậy độ dài khoảng cách thời gian ảnh hưởng trực tiếp đến trị số của chỉ tiêu và có thể cộng các trị số của chỉ tiêu để phản ánh quy mô của hiện tượng trong khoảng thời gian dài hạn.
+ Dãy số thời điểm: Là dãy số thời gian phản ánh quy mô của hiện tượng trong những thời điểm nhất định. Mức độ của hiện tượng ở thời điểm sau thường bao gồm toàn bộ hoặc một phần mức độ của hiện tượng ở thời điểm trước đó. Do đó việc cộng các trị số của chỉ tiêu không phản ánh quy mô của hiện tượng.
Dãy số thời gian là phương pháp thống kê nghiên cứu đặc điểm sự biến động của hiện tượng qua thời gian. Từ đó rót ra xu thế biến động chung và có thể dự đoán sự phát triển của hiện tượng trong tương lai.
Để có thể phản ánh đúng đắn sự phát triển của hiện tượng qua thời gian thì khi xây dựng một dãy số thời gian phải đảm bảo tính chất có thể so sánh được giữa các mức độ trong dãy số. Cụ thể là: Nội dung và phương pháp tính các chỉ tiêu qua thời gian phải thống nhất; phạm vi tính toán của hiện tượng qua thời gian phải nhất chí; khoảng cách thời gian trong dãy số nên bằng nhau nhất là với dãy số thời kỳ. Tuy nhiên, trong thực tế có nhiều lý do khác nhau nên các yêu cầu thường bị vi phạm. Để đảm bảo tính chất có thể so sánh được người ta thường phải tiến hành chỉnh lý lại tài liệu.
1. Các chỉ tiêu phân tích dãy số thời gian.
· Mức độ trung bình theo thời gian.
Chỉ tiêu này phản ánh mức độ đại biểu của tất cả các mức độ tuyệt đối trong một dãy số thời gian.
Tuỳ theo dãy số thời gian là dãy số thời kỳ hay dãy số thời điểm người ta có cách tính khác nhau.
- Đối với dãy số thời kỳ, mức độ bình quân theo thời gian được xác định theo công thức:
Trong đó:
: Mức độ bình quân theo thời gian.
yi (i = 1, 2, 3, …, n): Các mức độ dãy số thời kỳ.
n: Số các mức độ trong dãy số.
- Đối với dãy số thời điểm có thể có khoảng cách tổ bằng nhau hoặc không bằng nhau. Vì vậy phải có các phương pháp tính khác nhau trong mỗi trường hợp này.
+ Trường hợp dãy số thời điểm có khoảng cách tổ bằng nhau để tính mức độ bình quân ta có công thức:
Với: yi (i = 1, 2, … , n): là mức độ của dãy số thời điểm có khoảng cách thời gian bằng nhau.
+ Trường hợp dãy số thời điểm có khoảng cách tổ không bằng nhau ta có mức độ bình quân theo thời gian được tính theo công thức:
Với ti (i = 1, 2, … , n): là độ dài thời gian có các mức yi tương ứng.
· Lượng tăng (hoặc giảm tuyệt đối).
Đây là chỉ tiêu phản ánh mức chênh lệch tuyệt đối của chỉ tiêu giữa hai thời gian nghiên cứu. Nếu mức độ của hiện tượng tăng lên thì trị số của chỉ tiêu mang dấu dương và ngược lại.
Tuỳ theo mục đích nghiên cứu khác nhau mà có các chỉ tiêu lượng tăng (hoặc giảm) tuyệt đối giữa hai thời gian liền nhau. Ký hiệu là di.
di = yi – yi-1. (i = 2, 3, … , n)
Với yi: Mức độ nghiên cứu.
yi-1: Mức độ liền trước kỳ nghiên cứu.
+ Lượng tăng (hoặc giảm) tuyệt đối định gốc (hay tính dồn) (Di) phản ánh mức độ tăng (hoặc giảm) tuyệt đối giữa kỳ nghiên cứu và kỳ nào đó được trọn làm gốc cố định (thường lấy mức độ đầu).
Di = yi – y1 (i = 1, 2, … , n)
Với yi: Mức độ của hiện tượng ở kỳ nghiên cứu.
y1: Mức độ của hiện tượng kỳ gốc cố định.
Giữa lượng tăng (hoặc giảm) tuyệt đối liên hoàn và định gốc có mối quan hệ tổng.
(i = 1, 2, … , n)
+ Lượng tăng (hoặc giảm) tuyệt đối bình quân nói là trung bình cộng của các lượng tăng (hoặc giảm) tuyệt đối liên hoàn.
· Tốc độ phát triển.
Tốc độ phát triển là số tương đối (thường được biểu hiện bằng lần hoặc phần trăm) phản ánh tốc độ và xu hướng phát triển của hiện tượng qua thời gian. Tuỳ theo mục đích nghiên cứu mà tính toán các chỉ tiêu sau:
Tốc độ phát triển liên hoàn (ti): phản ánh sự phát triển của hiện tượng giữa hai thời gian liền nhau:
(i 2,3,..n)
Trong đó:
yi : Mức độ của hiện tượng ở thời gian i.
yi-1: Mức độ của hiện tượng ở thời gian i – 1.
+ Tốc độ phát triển định gốc (Ti): phản anh sự phát triển của hiện tượng trong những khoảng thời gian dài; thường lầy mức đọ đầu làm gốc cố định.
(i 2,3,..n)
Trong đó:
yi: Mức độ của hiện tượng ở thời gian i.
y1: Mức độ của hiện tượng ở thời gian đầu tiên của dãy số.
Giữa tốc độ phát triển liên hoàn và tốc độ phát triển định gốc có mối quan hệ tích và quan hệ thưong chặt chẽ với nhau.
Tích tốc độ phát triển liên hoàn bằng tốc độ phát triển định gốc.
t2. t3… tn = Tn
Pti = Ti (i 2,3,..n)
Thương của hai tốc độ phát triển định gốc liền nhau bằng tốc độ phát triển liên hoàn giữa hai thời gian đó.
- Tốc độ phát triển bình quân: là trị số đại biểu của các tốc độ phát triển liên hoàn.
Khi sử dụng chỉ tiêu tốc độ phát triển bình quân, chỉ nên tính với những hiện tượng phát triển theo mét xu hướng nhất định (cùng tăng hoặc cùng giảm).
· Tốc độ tăng (hoặc giảm):
Phản ánh mức độ của hiện tượng nghiên cứu giữa hai thời gian đã tăng hoặc giảm bao nhiêu lần (hay bao nhiêu %). Đây là chỉ tiêu nói lên nhịp độ tăng (hoặc giảm theo thời gian). Dựa trên cơ sở lượng tăng (hoặc giảm) liên hoàn hay định gốc người ta có phương pháp tính khác nhau.
+ Tốc độ tăng (hoặc giảm) liên hoàn ai (i= 2,3,4,..n) là tỷ số so sánh giữa lượng tăng (hoặc giảm) liên hoàn với mức độ kỳ gốc liên hoàn.
ai = ti – i.
Nếu tính bằng phần trăm thì.
ai(%) = ti(%) – 100
- Tốc độ tăng (hoặc giảm) định gốc Ai (i= 2,3,..n) là tỷ số giữa lượng tăng (hoặc giảm) định gốc với mức độ kỳ gốc cố định.
Nếu Ti tính bằng phần trăm thì.
Ai(%) = Ti(%) – 100
+ Tốc độ tăng (hoặc giảm) bình quân là chỉ tiêu tương đối thể hiện nhịp điệu tăng (hoặc giảm) đại diện trong một thời kỳ nhất định.
Hoặc
· Giá trị tuyệt đối của t% tăng (hoặc giảm). ký hiệu là gt.
Đây là chỉ tiêu phản ánh cứ 1$ tăng (hoặc giảm) của tốc độ tăng (hoặc giảm) liên hoàn thì tương ứng với một rị số tuyệt đối là bao nhiêu.
(i = 2, 3, … , n)
Trên thực tế người ta không sử dụng giá trị tuyệt đối của 1% tăng hoặc giảm định gốc vẹ nó luôn là một hằng số và băng
4. Phương pháp chỉ số.
Chỉ số là số tương đối (đơn vị là lần, %) biểu hiện quan hệ so sánh hai mức độ của hiện tượng.
Đối tượng nghiên cứu của phương pháp chỉ số là các hiện tượng phức tạp, gồm các phần tử, đơn vị có đặc điểm, tính chất khác nhau mà người ta không thể cộng trực tiếp để so sánh.
Đặc điểm của phương pháp chỉ số:
+ Khi muốn so sánh các mức độ của hiện tượng kinh tế phức tạp, trước hết phải chuyển các đơn vị, phần tử, hiện tượng cá biệt có tính chất, đặc điểm khác nhau về một dạng đồng nhất có thể trực tiếp cộng chúng lại với nhau.
+ Khi có nhiều nhân tố cùng tham gia vào việc tính toán phải giả định chỉ có một nhân tố nào đó thay đổi còn các nhân tố khác thì không đổi (gọi là quyền số) nhằm loại trừ ảnh hưởng biến động của các nhân tố này tới kết quả so sánh.
Khi nghiên cứu sự biến động của nhân tố chất lượng thì người ta cố định nhân tố số lượng ở kỳ báo cáo còn khi ta nghiên cứu sự biến động của nhân tố số lượng, người ta thường cố định nhân tố chất lượng ở kỳ gốc. Chỉ số có nhiều tác dụng khác nhau tuỳ theo từng loại. Chỉ số được dùng để phản ánh sự biến động của phần tử qua thời gian gọi là chỉ số thời gian; chỉ số phản ánh sự biến động của hiện tượng qua không gian được gọi là chỉ số không gian; chỉ số phản ánh nhiệm vụ kế hoạch gọi là chỉ số kế hoạch. Ngoài ra, chỉ số còn được dùng để phân tích vai trò ảnh hưởng biến động của từng nhân tố đối với sự biến động của toàn bộ hiện tượng.
· Phân loại chỉ số.
Để phân loại chỉ số, người ta thường căn cứ vào phạm vi tính hoặc tính chất của chỉ tiêu mà chỉ số phản ánh.
Căn cứ vào phạm vi tính, phân chỉ số thành hai loại.
+ Chỉ số đơn (chỉ số cá thể) nêu lên sự biến động của từng đơn vị cá biệt. Ví dụ: chỉ số giá của một loại hàng hoá, chỉ số lượng của từng mặt hàng.
+ Chỉ số tổng hợp (chỉ số chung) là chỉ số phản ánh sự biến động của hiện tượng phức tạp gồm nhiều đơn vị hoặc phần tử khác nhau. Ví dụ: chỉ số giá của một ngành hàng, lượng hàng hoá tiêu thụ của một số mặt hàng hay của tất cả các mặt hàng…
Căn cứ vào tính chất của chỉ tiêu mà chỉ số phản ánh, gồm có hai loại chỉ số:
+ Chỉ số chỉ tiêu chất lượng phản ánh sự biến động chỉ tiêu chất lượng nào đó. Ví dụ: chỉ số giá thành, chỉ số giá cả…
+ Chỉ số chỉ tiêu khối lượng phản ánh sự biến động của một chỉ tiêu khối lượng nào đó. Ví dụ: chỉ số khối lượng sản phẩm sản xuất, chỉ số khối lượng hàng hoá tiêu thụ…
Việc phân chia này được áp dụng chủ yếu với một số chỉ tiêu thông thường trong từng mối quan hệ cụ thể.
Dưới đây là một vài nét về phương pháp tính chỉ số, cụ thể là với hai chỉ tiêu giá cả (p) và chỉ tiêu lượng hàng hoá tiêu thụ (q), là hai chỉ tiêu đại diện cho hai dòng chỉ tiêu chất lượng và khối lượng.
4.1. Chỉ số đơn (chỉ số cá thể):
+ Đối với chỉ tiêu giá cả:
+ Đối với chỉ tiêu sản lượng hàng hoá tiêu thụ:
Trong đó:
p0 và p1 giá cả của một loại hàng hoá nào đó ở kỳ gốc và kỳ nghiên cứu.
q0 và q1 sản lượng của một loại hàng hoá nào đớ ở kỳ gốc và kỳ nghiên cứu.
4.2. Chỉ số tổng hợp:
a. Chỉ số phát triển:
· Chỉ số phát triển về giá cả:
Trong đó:
Ip: Chỉ số chung về giá cả.
p1, p0: giá cả mỗi mặt hàng kỳ nghiên cứu và kỳ gốc.
q: lượng hàng hoá tiêu thụ của mỗi mặt hàng được cố định ở một kỳ nào đó đóng vai trò là quyền số.
- Nếu chọn quyền số ở kỳ gốc, ta có chỉ số chung về giá cả:
- Nếu chọn quyền số ở kỳ nghiên cứu, ta có chỉ số chung về giá cả:
- Nếu sự sai lệch giữa hai chỉ số trên là đáng kể thì dùng chỉ số Fisher:
· Chỉ số phát triển về lượng hàng hoá tiêu thụ:
Trong đó:
Iq: Chỉ số chung về lượng hàng hoá tiêu thụ.
q1, q0: lượng hàng hoá tiêu thụ mỗi mặt hàng kỳ nghiên cứu và kỳ gốc.
pC: giá bán lẻ mỗi mặt hàng được cố định ở kỳ nào đó được chọn là quyền số.
- Nếu chọn quyền số ở kỳ nghiên cứu, ta có chỉ số chỉ chung về lượng hàng hoá tiêu thụ là:
- Nếu chọn quyền số ở kỳ nghiên cứu, ta có chỉ số chỉ chung về lượng hàng hoá tiêu thụ là:
- Nếu sự sai lệch giữa hai chỉ số trên là đáng kể thì dùng chỉ số Fesher:
· Chỉ số không gian:
Chỉ số không gian đối với chỉ tiêu giá cả:
Trong đó:
PA: giá bán lẻ của địa phương A.
PB: giá bán lẻ của địa phương B.
qA: lượng hàng hoá đã tiêu thụ ở địa phương A
qB: lượng hàng hoá đã tiêu thụ ở địa phương B.
+ Chỉ số không gian về chỉ tiêu sản lượng:
Trong đó:
qA: sản lượng từng loại sản phẩm của địa phương A.
qB: sản lượng từng loại sản phẩm của địa phương B.
: giá cố định hoặc giá bình quân của cả hai địa phương A và B.
4.3. Hệ thống chỉ số:
Hệ thống chỉ số là một đẳng thức nêu lên mối quan hệ với nhau giữa các chỉ số.
Căn cứ để xây dựng hệ thống chỉ số đó là mối quan hệ giữa các chỉ tiêu mà ta nghiên cứu. Có một số loại hệ thống chỉ số chủ yếu sau:
+ Hệ thống chỉ số của các con số kế hoạch: Biểu hiện mối liên hệ giữa các chỉ số kế hoạch với chỉ số phát triển, được dùng để phân tích trình độ hoàn thành kế hoạch của một doanh nghiệp, của một vùng, lãnh thổ.
Chỉ số phát triển = Chỉ số hoàn thành kế hoạch ´ Chỉ số kế hoạch.
Với k là mức kế hoạch.
+ Hệ thống chỉ số phát triển với quyền số bất biến: Tích các chỉ số liên hoàn bằng chỉ số định gốc.
+ Hệ thống chỉ số của các chỉ tiêu có liên hệ với nhau.
Cơ sở hình thành hệ thống chỉ số này là mối liên hệ thực tế giữa các chỉ tiêu kinh tế, biểu hiện dưới dạng phát triển như sau:
Doanh thu = Giá bán lẻ đơn vị hàng hoá ´ Lượng hàng đã tiêu thụ.
Từ đó ta có hệ thống chỉ số về mối quan hệ này như sau:
Chỉ sè doanh thu = Chỉ số giá bán lẻ đơn vị hàng hoá ´ Chỉ số lượng hàng hóa đã tiêu thụ.
Hay:
Ipq = Ip ´ Iq
Hệ thống chỉ số tổng hợp bao gồm các chỉ số nhân tố (hay còn gọi là chỉ số bộ phận) và chỉ số toàn bộ. Mối chỉ số nhân tố nêu lên sự biến động của một nhân tố cấu thành hiện tượng và ảnh hưởng của biến động này đối với biến động của cả hiện tượng. Chỉ số toàn bộ nêu lên sự biến động của toàn bộ hiện tượng.
· Hệ thống chỉ số có tác dụng:
+ Phân tích mối liên hệ giữa các hiện tượng trong quá trình biến động, xác định vai trò ảnh hưởng biến động của mỗi nhân tố đối với sự biến động của hiện tượng gồm nhiều nhân tố, tìm ra nguyên nhân chủ yếu.
+ Trong nhiều trường hợp, lợi dụng hệ thống chỉ số có thể tính toán các chỉ số chưa biết khi biết các chỉ số khác trong hệ thống chỉ số.
III. một số phương pháp biểu hiện xu hướng biến động cơ bản của hiện tượng.
Sự biến động của hiện tượng qua thời gian chịu sự tác động của nhiều nhân tố. Ngoài các nhân tố chủ yếu, cơ bản quyết định xu hướng biến động của hiện tượng (xu hướng được hiểu là chiều hướng biến đổi chung nào đó, một sự biến hoá kéo dài theo thời gian và xác định tính quy luật về sự vận động của hiện tượng theo thời gian), còn có những nhân tố ngẫu nhiên làm cho hiện tượng phát triển lệch ra khái xu hướng cơ bản. Tác động của các nhân tố này theo chiều hướng ngược nhau và độ lớn không giống nhau.
Việc xác định xu hướng biến động cơ bản của hiện tượng có ý nghĩa quan trọng trong nghiên cứu thống kê. Vì vậy cần sử dụng một số phương pháp thích hợp nhằm loại bỏ tác động của những nhân tố ngẫu nhiên để nêu lên xu hướng và tính quy luật về sự biến động của hiện tượng.
1. phương pháp mở rộng khoảng cách thời gian.
Mở rộng khoảng cách thời gian là ghép một số khoảng thời gian liền nhau lại thành một khoảng thời gian dài hơn. Chẳng hạn nh ghép 3 tháng thành một quý, tức là mở rộng khoảng cách thời gian từ tháng sang quý.
Đây là phương pháp được sử dụng khi một dãy số có khoảng cách thời gian tương đối ngắn, có nhiều mức độ mà chưa phản ánh được xu hướng phát triển của hiện tượng. Phương pháp này chỉ sử dụng đối với dãy số thời kỳ. Tuy phương pháp này đơn giản nhưng có hạn chế là số lượng các mức độ trong dãy số đã mất đi quá nhiều.
2. phương pháp dãy số bình quân trượt.
Số bình quân trượt là bình quân cộng của một nhóm nhất định các mức độ đầu trong dãy số. Nó được tính bằng cách lần lượt loại dần các mức độ đồng thời thêm dần các mức độ tiếp theo, sao cho số lượng các mức độ tham gia tính số bình quân không đổi.
Giả sử có dãy thời gian y1, y2, y3,…, yn-2, yn-1, yn
Nếu tính trung bình trượt cho nhóm ba mức độ, ta có dãy số mới:
…
Việc chọn nhóm bao nhiêu mức độ để tính bình quân trượt phải dựa vào tính chất biến động của hiện tượng và số lượng các mức độ của dãy số nhiều hay Ýt. Nếu sự biến động của hiện tượng tương đối đều đặn và số lượng các mức độ dãy số không nhiều thì có thể tính trung bình trượt từ ba mức độ. Nếu độ biến động của hiện tượng lớn và dãy số có nhiều biến động thì có thể tính trung bình trượt từ ba đến năm mức độ. Bình quân trượt càng được tính từ nhiều mức độ thì càng có tác dụng san bằng ảnh hưởng của các tham số ngẫu nhiên. Nhưng mặt khác lại làm giảm số lượng các mức độ của dãy trung bình trượt, do làm giảm khả năng nói rõ xu hướng phát triển của hiện tượng trong thời gian nghiên cứu và gây khó khăn cho việc nghiên cứu. Nếu dãy số ban đầu có n mức độ thì dãy số bình quân trượt có n – k + 1 mức độ. Với k là số lượng các mức độ trong tính bình quân trượt.
3. Phương pháp hồi quy.
Phương pháp hồi quy là phương pháp được sử dụng để biểu hiện xu hướng phát triển cơ bản của hiện tượng có nhiều dao động ngẫu nhiên, mức độ tăng giảm thất thương. Nội dung của phương pháp này là người ta tìm một phương trình hồi quy được xây dựng trên cơ sở dãy số thời gian gọi là hàn xu thế.
Hàm xu thế tổng quát có dạng:
Trong đó:
: mức độ lý thuyết.
là các tham số của phương trình hồi quy và được xác định bằng phương pháp bình phương nhỏ nhất.
Tức là:
t: thứ tự thời gian.
Để lựa chọn dạng phương trình đúng đắn đòi hỏi phải dựa vào sự phân tích đặc điểm biến động của hiện tượng qua thời gian đồng thời kết hợp với một số phương pháp thống kê khác.
Một số dạng phương trình hồi quy thường gặp:
- Phương trình đường thẳng:
Phương trình này được sử dụng khi lượng tăng (hoặc giảm) tuyệt đối liên hoàn xấp xỉ nhau (sai phân bậc một xấp xỉ nhau).
Các tham sè a0, a1 được xác định bằng phương pháp bình phương nhỏ nhất a0, a1 thoả mãn hệ phương trình sau:
- Phương trình parabol bậc hai:
Phương trình này được sử dụng khi các sai phân bậc hai (tức là sai phân của sai phân bậc môt) xấp xỉ nhau.
Các tham sè được xác định bằng phương pháp bình quân nhỏ nhất; thoả mãn hệ phương trình sau:
- Phương trình hàm mũ:
Phương trình này được sử dụng khi các tốc độ phát triển liên hoàn xấp xỉ nhau.
Các tham sè a0, a1 thoả mãn hệ phương trình:
4. Phương pháp biểu hiện biến động thời vụ.
Biến động thời vụ là biến động mang tính chất lặp đi lặp lại trong từng thời gian nhất định của từng năm. Nguyên nhân gây ra biến động thời vụ là do ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên, tập quán sinh hoạt của dân cư.
Việc nghiên cứu biến động thời vụ giúp ta chủ động trong công tác quản lý kinh tế xã hội, hạn chế những ảnh hưởng của biến động thời vụ đối với sản xuất và sinh hoạt của xã hội. Trong nghiên cứu, chúng ta phải dựa vào số liệu của nhiều năm để xác định tính chất và mức độ của biến động thời vụ. Phương pháp thường sử dụng là tính các chỉ số thời vụ.
Tuỳ theo đặc điểm về sự biến động của hiện tượng qua thời gian, người ta có các phương pháp tính chỉ số biến động thời vụ khác nhau.
+ Trường hợp biến động thời vụ qua những thời gian nhất định của các năm tương đối ổn đinh, không có hiện tượng tăng (hoặc giảm) rõ rệt, chỉ số biến động thời vụ được tính theo công thức:
Trong đó:
Ii: chỉ số thời vụ của thời gian i.
: sè trung bình các mức độ của các thời gian cùng tên i.
: sè trung bình các mức độ trong dãy số.
+ Trường hợp biến động thời vụ qua những thời gian nhất định của các năm có sự tăng giảm rõ rệt, chỉ số biến động thời vụ được tính theo công thức:
Trong đó:
yij: mức độ thực tế ở thời gian i của năm j.
: mức độ tính toán ở thời gian i của năm j.
IV. Một số phương pháp dự đoán thống kê ngắn hạn.
1. Phương pháp dự đoán dựa vào dãy số thời gian.
Ngày nay, dự đoán có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với việc ra quyết định cả trong thời gian dài lẫn trong một khoảng thời gian ngắn, nó được sử dụng rộng rãi trong mọi lĩnh vực. Tuy nhiên, hiện nay người ta thường sử dụng phương pháp dự báo ngắn hạn, nó giúp chúng ta có cơ sở để lập các kế hoạch ngắn hạn, cung cấp những thông tin để từ đó có thể điều chỉnh và ra các quyết định đúng đắn. trong khoảng thời gian tương đối ngắn, các nhân tố Ýt có sự thay đổi do đó người ta thường sử dụng phương pháp dãy số thời gian trong việc dự báo thống kê ngắn hạn.
Sau đây là một vài phương pháp đơn giản nhất của dự đoán thống kê ngắn hạn.
1.1. Dự đoán bằng phương pháp ngoại suy hàm xu thế.
Nội dung phương pháp này chính là dựa vào phương trình hồi quy theo thời gian để dự đoán các mức độ của hiện tượng trong tương lai.
Mô hình dự đoán:
(L = 1, 2,…)
Trong đó:
: Là mức độ dự đoán ở thời gian t + L.
e1: Thành phần ngẫu nhiên phản ánh ảnh hưởng của các nhân tố ngoài mô hình.
1.2. Dự đoán dựa vào lượng tăng (hoặc giảm) tuyệt đối bình quân.
Phương pháp ngày được áp dụng khi các lượng tăng giảm tuyệt đối liên hoàn xấp xỉ nhau.
Ta có mô hình dự đoán:
Trong đó:
: Lượng tăng (hoặc giảm) tuyệt đối bình quân.
yn: Mức độ cuối cùng của dãy số thời gian.
y1: Mức độ đầu tiên của dãy số thời gian.
h: Tầm xa của dự đoán.
1.3. Dự đoán dựa vào tốc độ phát triển bình quân.
Phương pháp này được áp dụng khi các tốc độ phát triển liên hoàn xấp xỉ nhau.
Mô hình của dự đoán:
Trong đó:
y1: Mức độ đầu tiên của dãy số thời gian.
hn: Mức độ cuối cùng của dãy số thời gian.
h: Tầm xa của dự đoán.
: Tốc độ phát triển liên hoàn.
1.4. Phương pháp bảng Buys – Ballot (BB).
Ngoài các phương pháp dự đoán đã nêu ở trên, còn có một phương pháp thống kê tương đối quan trọng để nghiên cứu xu hướng phát triển của hiện tượng trong tương lai. Nội dung của phương pháp này là xác định mô hình biểu hiện xu hướng biến động của hiện tượng trong tương lai, có kết hợp cả hai thành phần xu thế và thời vụ.
Mô hình có dạng:
y = a + bt + cj
Trong đó:
a: tham số tự do.
b: hệ số hồi quy.
cj: hệ số thời vụ.
(cách tính toán các hệ số này sẽ được trình bày cụ thể trong chương II, phần các phương pháp dự đoán doanh thu du lịch).
2. Dự đoán dựa vào mối liên hệ tương quan giữa các hiện tượng kinh tế - xã hội.
Bản chất của phương pháp này chính là dựa vào mối liên hệ tương quan giữa các hiện tượng để ngoại suy cho tương lai.
Mô hình dự đoán:
y = ¦ (x1, x2, … ,xk,a0, a1, …, ak) + e
Trong đó:
y: Biến phụ thuộc (tiêu thức kết quả).
xi (i = 1, 2, … , k): Biến độc lập (tiêu thức nguyên nhân)
ai (i = 1, 2, … , k): Hệ số hồi quy.
e : Thành phần ngẫu nhiên phản ánh ảnh hưởng của các nhân tố ngoài mô hình.
Các dự đoán thu được bằng phương pháp này có dạng dự đoán điều kiện tức là căn cứ vào mô hình biểu diễn quy luật liên hệ đã được xác định trên ta có dự đoán: Nếu các biến độc lập xi có giá trị dự đoán là (i = 1, 2, … , k) thì biến phụ thuộc sẽ có giá trị dự đoán là y*.
TỐC ĐỘ TĂNG CHUNG THEO ĐÓNG GÓP TỪNG NƯỚC.
1999
2000
Tổng sè
23,3
25,2
Nhật Bản
2,9
7,2
Trung Quốc
3,3
6,8
Mỹ
0,4
2,0
Oxtraylia
3,7
4,0
Nước khác
13,1
5,2
TỶ LỆ % ĐÓNG GÓP TỪNG NHÓM HÀNG VÀO MỨC TĂNG CHUNG.
Mặt hàng
1999
2000
Tổng sè
100,0
100,0
Dầu thô
34,4
48,5
Dệt may
13,6
5,0
Hải sản
5,2
17,5
Giày dép
16,6
2,5
Điện tử, máy tính
5,1
6,8
Gạo
0,2
-12,9
Cà phê
-0,4
-2,9
Hàng khác
12,3
25,4
Đóng góp trong sù gia tăng này chủ yếu là chúng ta xuất khẩu sang các thị trường Nhật Bản và Trung Quốc. Trong các mặt hàng mà ta xuất khẩu thì Dầu thô là mặt hàng chiếm tỷ trọng lớn nhất nước chiếm 39,4% trong năm 1999 và 48,5% trong năm 2000. Bên cạnh sự gia tăng sự đóng góp vào mức tăng chung nhờ sự tăng giá của dầu thô, tỷ lệ % đóng góp của các mặt hàng chủ lực cũng đã thay đổi đáng kể. Trong khi tỷ lệ đóng góp của dệt may và giày dép đều sụt giảm mạnh từ 13,6% năm 1999 xuống 5% năm 2000, giầy dép từ 16,6% xuống 2,5%, thì hải sản đã nâng % đóng góp từ 5,2% lên 17,5%, điện tử máy tính 5,1% lên 6,8%.
Do sự sụt giảm giá cả nên tuỷ lệ % đóng góp vào mức tăng chung của gạo và cà phê cùng sút giảm cụ thể năm 2000 gạo đã làm sút giảm 12,9%, cà phê 2,9% mức tăng chung, trong khi tỷ lệ đóng góp của các nhóm hàng káhc (sản phẩm gỗ, sản phẩm sữa, sản phẩm cơ khí........) lại tăng từ 12,35% lên 25,4%.
TỐC ĐỘ TĂNG TRƯỞNG VÀ TỶ LỆ % ĐÓNG GÓP
1999
2000
Tốc độ
Đóng góp
Tổng sè
2,1
33,2
%Đóng góp
Singapore
-0,7
7,5
21,6
Trung Quốc
1,4
6,4
1,3
Nhật
1,2
5,4
16,3
Đài Loan
-1,0
2,4
7,2
Hàn Quốc
0,6
2,1
6,
Nước khác
-1,0
5,6
16,9
TỐC ĐỘ TĂNG TRƯỞNG CHUNG THEO NHÓM HÀNG.
1999
2000
Tôngt sè
2,1
33,2
Máy móc thiết bị
-0,8
4,8
Xăng dầu
1,9
8,6
Nguyên nhiên liệu dệt may da
2,4
2,8
Điện tử máy tính
-0,3
2,1
Xe máy
0,4
3,3
Về nhập khẩu trong giai đoạn gần đây vẫn tăng mạnh song trong mấy năm gần đây lại có sự giảm sút giai đoạn 1997-1999 chỉ đạt tốc độ tăng trưởng bình quân 1,8% năm, kim ngạch nhập khẩu đã tăng mạnh trở lại vào năm 2000 và kim ngạch đạt cao hơn năm 1999 tới 33,2%. Sau sù suy giảm nhập khẩu nói chung và ở một số thị trường lớn nói riêng nh Singapore, Kim ngạch nhập khẩu lại gia tăng mạnh vào năm 2000. Trước hết đó là đã khôi phục mạnh các thị trường Singapore và Thái Lan với tốc độ tăng trưởng chung nhờ 2 thị trường này là Singapore từ -0,7%, năm 1999 lên 7,5 năm 2000, Thái lan - 1,0% năm 1999 lên 2,4% năm 2000. Trong nhập khẩu Trung Quốc là thị trường nhập khẩu hàng hoá của nước ta có tốc độ tăng trưởng rất nhanh và đóng góp tới gần 1/5 (19,5%) vào mức tăng chung nghĩa là tốc độ tăng còn nhanh hơn cả thị trường Nhật Bản với tỷ lệ đóng góp là 16,3%. Nh vậy thị trường hàng nhập khẩu chủ yếu vẫn là từ các nước Châu á.
Sù gia tăng mạnh tốc độ trăng trưởng lên 33,2% năm 2000 trước hết là do giá xăng dầu nhập khẩu tăng cao. Tỷ lệ % đóng góp vào mức tăng chung của xăng dầu tuy lớn (25,8%), nhưng một số nhóm hàng khác cũng đóng góp rất mạnh nh máy móc thiết bị 12,5%. Xe máy 10% và nguyên phụ liệu dệt may da 8,4%.
Theo danh mục phân loại ngoại thương tiêu chuẩn SITC, hàng Việt Nam nhập khẩu chủ yếu vẫn là hàng chế biến hay đã tinh chế. Tỷ trọng nhập khẩu nhóm hàng này tăng từ 76,5% năm 1995 lên 81,6% năm 1997 và vẫn xấp xỉ 81% năm 1999.
Cơ cấu hàng nhập khẩu phân theo mục đích sử dụng Ýt có sự thay đổi quá các năm tỷ trọng hàng tiêu dùng khá ổn định. Nhờ được như vậy là chị ảnh hưởng của chính sách hạn chế nhập khẩu hàng tiêu dùng.
2. Vài nết về việc thông tin thống kê trong nghiên cứu xuất nhập khẩu hàng hoá ở Việt Nam.
Hệ thống thống kê xuất nhập khẩu nước ta có thể chia làm 2 giai đoạn. Giai đoạn tì mă, 1995 trở về trước và từ năm 1996 cho đến nay.
Giai đoạn 1: từ năm 1995 trở về trước, trong giai đoạn này việc thu thập thông tin xuất nhập khẩu chủ yếu dựa trên thống kê nghiệp vụ. Đơn vị phát sinh nghiệp vụ kinh doanh nơi páht sinh chứng từ ghi chép ban đầu là các đơn vị trực tiếp xuất nhập khẩu hạch toán kinh tế độc lập, gọi tắt là cá đơn vị kinh tế cơ sở. hệ thống báo cáo thống kê các cấp, từ cấp cơ sở, cấp bộ đến cấp Nhà nước đều phải tổng hợp trên nền tảng hệ thống thông tin ban đầu từ các đơn vị cơ sở, hệ thống báo cáo này áp dụng cho cả hàng hoá mang tính chất kinh doanh cũng như hàng viện trợ của các tổ chức quốc tế, các tổ chức phi chính phủ và các nước.
SƠ ĐỒ TỔ CHỨC THU NHẬP THÔNG TIN
(Giai đoạn 1995 trở về trước)
Héi ®ång bé trëng
Tæng côc thèng kª
Bé kinh tÕ ®èi ngo¹i (nay lµ Bé th¬ng nghiÖp)
Bé chñ
qu¶n
C¸c ®¬n vÞ c¬ së
Côc thèng kª
C¸c ®¬n vÞ c¬ së
Với nguồn số liệu là các báo cáo thống kê được gửi trực tiếp cho tổng cục thống kê từ các đơn vị xuất nhập khẩu trung ương, Ban tiếp nhận viện trợ, và từ các cục thống kê, các đơn vị cơ sở.
Mặc dù từ sau năm 1989, nền kinh tế nước ta nói chung và hoạt động ngoại thương nói riêng đã có những bước phát triển mạnh mẽ, số đơn vị thực tế có hoạt động xuất nhập khẩu đã trở nên khó kiểm soạt ảnh hưởng nhiều tới việc thu thập số liệu và phổ biến chế độ báo cáo song hệ thống thu thấp ố liệu và nguồn số liệu vẫn chưa được đổi mới. Năm 1990 Tổng cục tuy đã phối hợp với tổng cục Hải quan và Bộ thương mại nghiên cứu cải tiến về nguồn số liệu và thu thập số liệu thống kê ngoại thương thể hiện và thu thập số liệu thống kê ngoại thương thể hiện bằng việc ban hành chế độ tạo báo cáo thống kê cho ngành hải quan (Sè 214/TCTK- PPCD- năm 1991) tuy nhiên do những khó khăn của hệ thống thống kê hải quan thời kỳ đó, chế độ báo cáo này được thực hiện rất hạn chế. Vì vậy số liệu thống kê chính thức của Nhà nước vẫn được tổng hợp theo hệ thống cũ. Trong thời gian này thống kê ngoại thương nhìn chung đã phản ánh được kết quả của hoạt động xuất nhập khẩu đáp ứng được nhu cầu của công tác quản lý Nhà nước.
Tuy nhiên trong điều kiện mới hiện nay của nền kinh tế, trước yêu cầu quản lý và điều hành nền kinh tế của chính phủ, các nhà lập chính sách, các nhà nghiên cứu, đầu tư nước ngoài, các nhà sản xuất kinh doanh và các đối tượng nghiên cứu khác đặc biệt trước yêu cầu khả năng so sánh số liệu của nước ta với quốc tế khi chóng ta đã và sẽ gia nhập các tổ chức kinh tế trên thế giới và trong khu vực, thì số liệu thống kê ngoại thương hiện nay của chúng ta chưa đáp ứng được về mức độ chi tiết, các chỉ tiêu, tính kịp thời, tính chính xác tính đầy đủ và tính khả năng so sánh quốc tế của số liệu. Vấn đề cấp bách hiện nay trong việc thu thập số liệu và xử lý số liệu thống kê ngoại thương là cần phải cải tiến về hệ thống tổ chức và nội dung, phạm vi thống kê xuất nhập khẩu hàng hoá để dần dần đáp ứng được các yêu cầu trên, yêu cầu trên tháng 2/1996, chính phủ đã chính thức giao cho Tổng cục hải quan nhiệm vụ thu thập và cung cấp thông tin thống kê xuất nhập khẩu cho chính phủ, tổng cục thống kê và một số cơ quan quản lý Nhà nước khác. Như vậy, chính thứ từ đầu năm 1996 đến nay, tổng cục thống kê thu thập số liệu thống kê xuất nhập khẩu hàng hoá từ hai nguồn: báo cáo trực tiếp từ các đơn vị kinh doanh xuất nhập khẩu vào báo cáo tới tổng cục hải quan.
Hiện nay, ở Việt Nam có 3 cơ quan cùng thu thập và xử lý số liệu thống kê ngoại thương đó là: Tổng cục thống kê, Bộ thương mại và Tổng cục hải quan. Trong đó Tổng cục thống kê là cơ quan chịu trách nhiệm về các thông tin trước chính phủ và cơ quan công bố số liệu thống kê ngoại thương niên giám thống kê.
II. BIẾN ĐỘNG TỔNG DOANH THU VÀ KẾT CẤU QUA THỜI GIAN.
1. Nghiên cứu biến động tổng giá trị xuất nhập khẩu.
Chỉ tiêu cơ bản để xác định kết quả hoạt động kinh doanh của ngành ngoại thương nói chung và ngành Xuất Nhập khẩu nói riêng là chỉ tiêu tổng thu kết quả nghiên cứu sự biến động của chỉ tiêu này là căn cứ quan trọng để lập các kế hoạch cho thời gian tới.
Xuất Nhập khẩu là một trong những mũi nhọn, nó đóng một vai trò quan trọng trong công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá của nước ta và đưa nước ta hội nhập với bè bạn trên thị trường quốc tế và khu vực. Nhìn chung những thành công mà ta gặt hái được trong thời gian vừa qua chưa phản ánh đúng so với tiềm năng, mà nước ta có nhưng nó đã đóng góp một phần không nhỏ trong GDP, GNP...
Tình hình biến động về giá trị xuất nhập khẩu hàng hoá ở Việt Nam qua các năm được biểu hiện ở bảng sau:
Bảng 1
Đơn vị :triệu USD
Năm
Tổng sè
Xuất khẩu
Nhập khẩu
1993
6.909,2
2985,2
3924,0
1994
9.880,1
4054,3
5825,8
1995
13.604,3
5448,9
8155,4
1996
18.399,5
7255,9
11143,6
1997
20.777,3
9185,0
11592,3
1998
20.859,9
9360,3
11499,6
1999
23.162,0
11540,0
11622,0
2000
29.508,0
14308,0
15200,0
Tổng
143.100.3
68.037,6
75062,7
BẢNG 2: CHỈ SỐ PHÁT TRIỂN (NĂM TRƯỚC = 100%)
Năm
Tổng xuất nhập khẩu
Xuất khẩu
Nhập khẩu
1993
134,9
115,7
154,4
1994
143,0
135,8
148,5
1995
137,7
134,4
140,0
1996
135,2
133,2
136,6
1997
112,9
126,6
104,0
1998
100,4
101,9
99,2
1999
111,0
123,3
101,1
2000
127,4
124,0
130,8
Qua số liệu ở bảng 1 và bảng 2 ta có thể tính toán được một số chỉ tiêu sau
+ giá trị về xuất nhập khẩu bình quân của cả giai đoạn.
= = = 17.887,54 (triệu USD).
Xuất khẩu bình quân trong giai đoạn này là:
xk = = = 8504,7 (triệu USD).
Giá trị và nhập khẩu bình quân trong giai đoạn này là:
nk = = = 9382,84 (triệu USD).
+ Lượng tăng giảm tuyệt đối bình quân.
Về giá trị XNK.
== 3228,4 (Tr.USD).
Về giá trị xuất khẩu.
xk = == 1617,54 (Tr.USD)
Về giá trị nhập khẩu.
nk = = = 1610,86 (Tr.USD)
+ Tốc độ phát triển bình quân.
Về giá trị xuất nhập khẩu.
= = = = 1,230 (lần).
hay 123%
Về giá trị xuất khẩu.
xk = = 1,251 (lần)
hay 125,1%
Về giá trị nhập khẩu.
nk = = 1,213 (lần)
hay 121,3%
Qua số liệu tính toán ta thấy nhìn chung giá trị xuất nhập khẩu của nước ta trong thời kỳ 1993-2000 không đạt mức cao nhưng liên tục tăng nhất là 2 năm gần đây, giá trị xuất nhập khẩu bình quân mỗi năm trong thời kỳ này là 17.887,54 (Tr.USD): chiếm 47,55% tổng giá trị xuất nhập khẩu và nhập khẩu là 9382,84 (Triệu USD) chiếm 52,45% tổng gí trị xuất nhập khẩu.
Bình quân hàng năm tổng giá trị xuất nhập khẩu tăng 3228,4 (Triệu USD). Trong đó xuất khẩu tăng 1617,54 (Triệu USD) chiếm 50,1%. Nhập khẩu tăng 1610,86 (Triệu USD) chiếm 49,9% tổng giá trị bình quân xuất nhập khẩu tăng hàng năm.
Tốc độ phát triển của tổng giá trị xuất nhập khẩu hàng năm tăng lên 1,23 lần hay 123%. Trong đó xuất khẩu tăng 1,251 lần hay 125,1% và nhập khẩu tăng 1,213 (lần) hay 121,3%.
Qua kết quả phân tích ta có thể nhận thấy rằng mặc dù ngành xuất nhập khẩu của nước ta đã từng bước phát triển nhưng nhìn chung chưa cao và chưa ổn định. Có những năm rất cao nhưng cũng có những năm khá thấp, cụ thể là năm 1998 so với năm 1997 thì tổng giá trị xuất nhập khẩu năm trước chỉ tăng lên hơn so với năm sau đó là 82,6 (Triệu USD). Đây là một con số rất thấp nhưng ngược lại năm 2000 so với năm 1999 lại khá khả quan g. Mức chênh lệch giữa 2 năm đạt tới 6346 (Triệu USD). Sỡ dĩ có những hiện tượng không ổn định như trên cũng có nhiều lý do, nhưng ta có thể khẳng định rằng con sè 82,6 (Triệu USD) về giá trị tăng lên của năm 1998 so với 1997 chắc chắn chịu ảnh hưởng mạnh bởi cuộc khủng hoảng kinh tế của khu vực.
Nhưng nhìn vào kết quả giá trị xuất nhập khẩu hàng năm thì ta có thể thấy rằng mức độ tăng về giá trị xuất khẩu hằng năm đều hơn và cao hơn giá trị thấp khẩu hàng năm. Đây là điều đáng mừng đối với nền kinh tế nước ta trong giai đoạn này nhưng nhìn chung thì giá trị nhập khẩu hàng năm lúc nào cũng cao hơn giá trị xuất khẩu hàng năm nhưng khoảng cách được rút ngắn lại gần điều naỳ cho chóng ta thấy cho đến nay nước ta vẫn đang là một nước nhập siêu nhưng với đà này thì không bao lâu nữa nền kinh tế nước ta sẽ cân bằng và lúc đó con số về giá trị xuất khẩu sẽ lớn hơn nhập khẩu, đây là một dấu hiệu đáng mừng, là kết quả của sự nỗ lực của Đảng và Nhà nước cũng như mỗi chúng ta.
2. Nghiên cứu kết cấu giá trị xuất nhập khẩu qua các năm.
Trong tổng giá trị xuất khẩu cũng như nhập khẩu được cấu tạo từ nhiều nguồn khác nhau, nếu phân theo hình thức quản lý nó có thể được cấu tạo từ 3 nguồn chính đó là trung ương, địa phương và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Còn nếu phân theo nhóm hàng nó có thể được cấu tạo từ một số nguồn chính sau, đó là :
Hàng công nghiệp nặng và khoáng sản.
Hàng công nghiệp nhẹ và TTCN.
Hàng nông sản.
Hàng lâm sản.
Hàng khác.
Việc nghiên cứu kết cấu giá trị của từng thành phẩn cấu tạo nên tổng gí trị điều đó giúp ta có thể biết được % của từng thành phần chiếm trong tổng giá trị theo từng năm để qua đó ta có thể thấy được biến đổi của từng thành phần qua thời gian qua kết cấu và con số thực tế đó làm căn cứ để ta có thể phân tích và hoạch định chiến lược phát triển cho tương lai một cách chính xác và đúng đắn hơn, để từ đó mang lại hiệu quả kinh tế cao mà không tiêu hao nhiều nhân tài, vật lực cũng như lao động, tài nguyên,
Bảng3 : Tổng giá trị xuất khẩu phân theo hình thức quản lý.
đơn vị :triệu USD
Năm
Phân theo hình
thức quản lý
1993
1994
1995
1996
1997
1998
1999
2000
Trung ương
2985,2
4054,3
5448,9
7255,9
9185,0
9350,3
11540,0
14308
Địa phương
1716,2
1945,8
2531,2
3261,4
3641,0
3885,8
5555,6
Doanh nghiệp có vốn
1269,0
1947,4
2477,6
3208,5
3754,0
3491,9
3394,4
316988
Công ty nước ngoài.
-
161,1
440,1
786,0
1740,0
1982,6
2590,0
330
Bảng kết cấu.
Năm
Phân theo hình
thức quản lý
1993
1994
1995
1996
1997
1998
1999
2000
Trung ương
100
100
100
100
100
100
100
1000
Địa phương
57,49
47,49
46,4
39,6
41,5
44,9
48,2
Doanh nghiệp có vốn
42,51
48,03
45,5
40,9
37,3
44,2
24,4
76,8
Công ty nước ngoài.
-
3,98
7,1
14,5
21,2
10,9
22,4
23,2
Qua bảng tổng giá trị xuất khẩu phân theo hình thức quản lý ta có thể nhận thấy rằng tổng giá trị của xuất khẩu nói chung và của từng bộ phận nói riêng tăng đều theo hàng năm, nhưng nổi trội hơn vẫn là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. mặc dù doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chỉ mới xuất hiện và phát triển ở nước ta trong mấy năm gần đây nhưng ta có thể thấy rằng hiệu quả kinh tế của những doanh nghiệp này có tốc độ phát triển một cách chóng mặt vào năm 1993 kết quả hoạt động của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chưa có trong bảng tổng giá trị xuất khẩu và năm 1994 mới chỉ là 161,1 (triệu USD) vậy mà năm 2000 là 3.320 (triệu USD).
Qua bảng kết cấu ta cũng có thể nhận rõ rằng vị trí của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ngày càng quan trọng trong ngành xuất khẩu của nước ta điều đó được thể hiện thông qua % giá trị mà họ thu được trong tổng gía trị xuất khẩu.
Bảng tổng giá trị xuất khẩu phân theo nhóm hàng.
Đơn vị: Triệu USD
Năm
Nhóm hàng
1993
1994
1995
1996
1997
1998
1999
2000
Tổng
2985,2
4054,3
5448,9
7255,9
9185,0
9360,3
Hàng công nghiệp nặng và khách sạn
1014,0
1167,6
1377,7
2085,0
2574,0
2609,0
11540,0
14308,0
Hàng công nghiệp nhẹ và TTCN
526,5
938,2
1549,8
2101,0
3372,4
5427,6
3576,0
5100,1
Hàng nông sản
914,7
1280,2
1745,8
2159,6
2231,4
2274,3
4190,0
4900,0
Hàng lâm sản
97,5
111,6
153,9
212,2
225,2
191,4
2803,0
2833,0
Hàng thuỷ sản
427,2
556,3
621,4
696,5
702,0
858,0
971,0
1475,0
Hàng khác
0,2
0,3
0,3
1,6
Bảng kết cấu giá trị xuất khẩu phân theo nhóm hàng
Năm
Nhóm hàng
1993
1994
1995
1996
1997
1998
1999
2000
Tổng(%)
100
100
100
100
100
100
100
100
Hàng công nghiệp nặng và khách sạn
33,97
28,80
25,28
28,73
28,02
27,87
30,99
35,64
Hàng công nghiệp nhẹ và TTCN
17,63
23,14
28,44
28,95
36,71
36,62
36,31
34,25
Hàng nông sản
30,81
31,58
32,04
29,77
24,29
24,30
24,29
19,80
Hàng lâm sản
3,27
2,75
2,82
2,92
2,46
2,04
Hàng thuỷ sản
14,31
13,72
11,41
9,61
8,52
9,17
5,41
10,31
Hàng khác
00,01
0,01
0,01
0,2
Qua bảng tổng giá trị xuất khẩu phân theo nhóm hàng ta có thể nhận thấy rằng. Nhìn chung giá trị xuất khẩu của từng nhóm hàng năm sau đây tăng hơn năm trước chỉ duy nhất nhóm hàng khác là tăng nhưng đến năm 1997 thì giá trị xuất khẩu của nó không đáng kể nữa.
Nhìn vào bảng kết giá trị xuất khẩu hàng hoá phân theo nhóm hàng ta có thể nhận thấy rằng ở những năm 1993, 1994 thì nhóm hàng công nghiệp nặng và khoáng sản với nhóm hàng nông sản chiếm motọ tỷ trọng lớn trong toỏng giá trị xuất khẩu. Nhưng những năm gần đây thì tỷ trọng của hàng nông sản ngày một giảm và thay vào đó là tỷ trọng của nhóm hàng công nghiệp nhẹ và TTCN này càng tăng, còn hàng thuỷ sản thì không có thay đổi đáng kể trong tổng giá trị xuất khẩu hàng hoá.
Bảng tổng giá trị nhập khẩu phân theo hình thứ quản lý.
Đơn vị: Triệu USD.
Năm
Nhóm hàng
1993
1994
1995
1996
1997
1998
1999
2000
Tổng
3924,0
5825,8
8155,4
11143,6
11592,3
11499,6
11622,0
15200,0
Trung ương
2316,7
3111,0
3475,4
5256,8
5082,7
5672,4
5657,0
10856,0
Địa phương
1607,3
2114,3
3211,9
3844,1
3313,4
3159,2
2583,8
Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
680,5
1468,1
2042,7
3196,20
2668,0
3382,0
4344,0
Bảng kết cấu giá trị nhập khẩu phân theo hình thức quản lý.
Năm
Nhóm hàng
1993
1994
1995
1996
1997
1998
1999
2000
Tổng
100
100
100
100
100
100
100
100
Trung ương
59,04
53,40
42,61
47,17
43,84
49,33
48,67
71,42
Địa phương
40,96
36,29
39,38
34,50
28,58
27,47
22,22
Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
10,31
18,01
18,33
27,58
23,2
29,11
28,58
Qua bảng tổng giá trị nhập khẩu phân theo hình thức quản lý ta nhận thấy rằng tổng giá trị nhập khẩu nói chung và từng bộ phận nói riêng đều tăng theo từng năm, nhưng phần giá trị nhập khẩu của trung ương và địa phương có phần tăng ổn định nhưng hàng hoá cao còn doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thì tăng nhưng không ổn định. Nhưng ta có thể thấy rằng cuộc khủng hoảng kinh tế khu vực năm 1997 không những làm giảm tổng giá trị xuất khẩu mà xuất khẩu cũng ảnh hưởng, đặc biệt là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Qua bảng kết cấu tổng giá trị nhập khẩu ta có thể thấy rằng mặc dù vai trò của trung ương ngày càng giảm nhưng vẫn chiếm vị trí quan trọng trong toỏng giá trị nhập khẩu. Còn ở bộ phận địa phương thì giảm mạnh, vào năm 1993 tổng giá trị của địa phương chiếm 40,90% trong tổng giá trị nhập khẩu lúc đó doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chưa đáng kể, vậy mà cho đến năm 1999 thì tỷ trọng quá trình nhập khẩu của địa phương chỉ còn 22,22% trong ta giá trị nhập khẩu trong khi đó của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chiếm 29,11% vươn lên vị trí thứ 2 sau trung ương.
III. nghiên cứu xu hướng biến động giá trị xuất nhập khẩu hàng hoá ở Việt Nam.
1. Nghiên cứu theo mối liên hệ tương quan tuyến tính giữa 2 tiêu thức số lượng.
Từ nguồn số liệu ở bảng 5 ta nhận thấy những năm càng gần đây giá trị xuất nhập khẩu càng tăng lên, song mối liên hệ giữa thời gian và giá trị xuất nhập khẩu này không hoàn toàn chặt chẽ, tức là không hải cứ so năm càng lớn thì giá trị xuất nhập khẩu càng tăng theo một cách tương ứng. Hay nói cách khác là giữa so năm và giá trị xuất nhập khẩu là mối liên hệ tương quan.
Để thấy rõ chiều hương snày, ta có thể dùng đồ thị với trục hoành là so năm (x) và trục tung là giá trị xuất nhập khẩu. Trong mặt hàng hệ trục toạ độ sẽ 8 ****** nói lên số năm và giá trị xuất nhập khẩu đạt được. Nói các **** này lại *** với nhau ta sẽ được một đường gâp khúc được gọi là đường hồi quy thực tế. Căn cứ vào hình dạng của đường lìa quy thực tế, ta có thể điều tiét đường lối quy lý thuyết, được biểu diễn dưới một dạng hàm số. Trong trường hợp này ta có thể thay thế đường lối quy thực tế bằng một phương trình đường thẳng có dạng.
= a + bx.
Trong đó:
x: là trị số tiêu thức nguyên nhân (số năm).
: trị số điều chỉnh của tiêu thức kết quả (giá trị xuất nhập khẩu).
a, b: là các tham.
a, b được xác định bằng phương pháp bình phương nhỏ nhất, theo đó a và b thoả mãn hệ phương trình.
SY = n . a à b S X
SyX = n . SX à bSX2.
Với số liệu ở bảng 5 và ***** phương pháp thống kê ta tích được các tham sè a, b lần lượt là.
a = 4561,875
b = 2961,258
Do đó phương trình đường thẳng có dạng là:
= 4561,285 + 2961,258
Phương rình này phản ánh mối liên hệ giữa số năm (x) và giá trị xuất nhập khẩu (y) tin nguồn số liệu.
Trong phương hình này giá trị a = 4561,875 có thể được xan như mức độ ảnh hưởng của các nguyên nhân khác đến giá trị xuất nhập khẩu (ngoài sự tăng lên của thời gian (x)).
b = 2961,258
Nói lên khi tăng thêm 1 năm thì giá trị xuất nhập khẩu trung bình tăn glên là b = 3716,753 (triệu USD).
Để dành giá hình độ chặt chẽ của mối liên hệ tương quan tuyến tích liệu ta có thể tính hệ số tương quan của nó bởi công thức.
r =
Qua biết ta nhận thấy rằng mối liên hệ giữa số năm và giá trị xuất nhập khẩu có mối liên hệ tương quan khá chặt chẽ.
2. Nghiên cứu theo mối liên hệ tương quan phi tuyến tích giữa 2 tiêu thức số lương.
Ở mục (1) ta đã nghiên cứu về mối liên hệ tương quan tuyến tích giữa 2 tiêu thức số lượng tức phương trình hối quy là một đường thẳng. Nhưng trong thực tế ta thường gặp mối liên hệ tương quan giữa 2 tiêu thức sẽ hướng là mối liên hệ tương quan phí tuyến tính - tức phương trình hồi quy là một đường cong. Như trong chuyên đề này trong một giới hạn nào đó thì sự tăng lên của thời gian sẽ làm cho quá trình xuất nhập khẩu tăng lên nhưng đến một giới hạn nào dó thì lại tăng lên của thời gian sẽ không làm tăng thêm giá trị của xuất nhập khẩu nữa chẳng hạn như khi đó khoa học, công nghệ của nước ta đã phát triển và chúng ta không phải nhập khẩu nhiều hàng hoá của nước ngoài trong khi đố một số ngành trước kia có sản phẩm nhập khẩu nay chuyển sang sản xuất những mặt hàng phục vụ cho nhu cầu trong nước.
Với đặc điểm và tính chặt chẽ của mối liên hệ giữa 2 tiêu thức thông qua số liệu, ta thấy phương trình hàm mũ có thể phù hợp với nguồn số iệu.
y = a . bx
Các tham sè a, b được xác định từ hệ phương trình sau:
lgy = n lga + lgb . Sx
Sxlgy = lga . Sx + lgb . Sx2.
Bằng phương pháp thống kê ta tính được.
a = 6955,54
b = 1,1884
=> Phương trình có dạng.
= 6955,54 (1,1884)x
Ta cũn có thể đánh giá trình độ chặt chẽ của mối liên hệ tương quan thông qua công thức.
h = = 9563
Bảng phương pháp này ta thấy giữa 2 tiêu thức có mối liên hệ tương quan khá chặt chẽ bằng phương pháp thống kê ta cũng có thể tính các dạng hàm kia quy sau:
Hàm Parabol.
a0 = 3551,6875
a1 = 3567,73.
b2 = -67,3458
=> Phương trình là:
= 3551,0875 + 3567,37'x - 67,3458
Hàm bậc ta:
a0 = -680,75
a1 = 7976,816
a2 = 1221,647
a3 = 85,504.
=> Phương trình là:
= -80,75 + 7970,810x - 1211,547x2 + 85,504x3.
Các dạng hàm lìa quy.
Hàm luyến tính
Hàm parabol
Hàm mò
Hàm bậc 3
Dạng hàm
=4561,875
2961,258+
-3551688
+3567,73x
-67,346x2
=6955,54x (1,188)x
=-680,75
+7970,82x
-1221, 65x2
+ 85,50x3
Tỷ số tăng bình quân
0,980
0,981
0,956
0,987
Sai số mô hình
1580,71
1687
0,152
1572
Qua kết quả tính toán ta thấy hàm mũ mặc dù có thể số lương quan nhỏ nhất nhưng sai số mà hình lại nhỏ nhất do đó ta có thể chọn nó làm hàm chuẩn. Từ đó ta có đường lìa quy lý thuyết về giá trị xuất nhập khẩu nh sau:
IV. DỰ ĐOÁN GIÁ TRỊ XUẤT NHẬP KHẨU CỦA NƯƠC TA TRONG NHỮNG NĂM TỚI.
1. Dự đoán giá trị xuất nhập khẩu năm 2002, 2003 theo hàm mũ.
Vì hàm mũ là hàm có sắc số mô hình nhỏ nhất nên phản ánh chính xác nhất về sự biến động của giá trị xnl.
Hàm có dạng.
= 6955,54 x 1,188x
Mô hình dự đoán.
Ỹ X+L = f (x + L) + Sx.
Nếu dự đoán năm 2002 ta có L = 2.
Khi đó ta có giá trị xuất nhập khẩu năm 2002 ta.
Ỹ2002 = 6955,54 x (1,188)10 = 38.948,905 (Triệu USD)
Năm 2003 ta có L = 3.
Ý2003 = 6955,54 x (1,188)11 = 46.271,800 (Tr.USD).
Ta có khoảng dự đoán là:
Yx+L ¸ ta . sản phẩm
Với ta là giá trị theo hạng + Sludent, n - 2 bậc tự do và xác suất tin cậy là 0,95,
Se = 0,152
Và sản phẩm sai sẽ dự đoán được tính theo công thức.
Sp = Sex
Với năm 2002.
Ta có L = 2.
t = t= t = 1,86
Sp2002 = Sex
= 0,152 x 1,612 = 0,245
Vậy giá trị xuất nhập khẩu năm 2002 theo dự đoán là.
= 0,4557 (Triệu USD).
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Qua 15 năm đổi mới (1986-2000), nhìn tổng quát thế và lực của nước ta cũng như trên từng lĩnh vực đều đã lớn mạnh hơn nhiều so voứi 15 năm trước. Bộ mặt của đất nước đã thay đổi sâu sắc. Điều nổi bật trong 15 năm qua là: đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội và phá bỏ được tình trạng bao vây cấm vận của Mỹ và các nước phương Tây; vượt qua được cơnước hấn động do sự sụp đổ XHCN Liên Xô và Đông Âu; không bị cuốn sâu vào cuộc khủng hoảng kinh tế - tài chính ở Châu á, mặc dù hậu quả của nó đối với nước ta cũng khá nặng nề. Những thành tựu do lớn trong sự nghiệp đổi mới nói lên sự trưởng thành vượt bậc của Đảng ta trong lãnh đạo nhân dân tiến hành một sự nghiệp mới mẻ đầy khó khăn thử thách, đã vượt qua một chặt đường quan trọng. Đóng góp vào những thành công trên, ngoài sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, sự phân đấu của các ngành các cấp... phải kể đến những đóng góp hết sức to lớn của hoạt động ngoại thương (hoạt động xuất nhập khẩu). Do đó phát triển nền kinh tế hướng về xuất khẩu là chiến lược có tầm quan trọng đặc biệt của Đảng và Nhà nước ta với mục tiêu làm cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh, đưa đất nước tiến kịp các nước trên thế giới.
Dự báo khả năng xuất nhập khẩu hàng hoá nói chung và xuất khẩu hàng hoá nói riêng luôn là một vấn đề hết sức cần thiết. Bởi vì tài liệu dựb áo là một nhiệm vụ quan trọng và luôn là yêu cầu khách quan của công tác hoạch định chính sách kinh tế vĩ mô, hay cho chiến lược, sách lược kinh doanh mở rộng, chiếm lĩnh thị trường, nắm bắt cơ hội, gia tăng vị thế, giảm thiểu rủi ro trong kinh tế vi mô trong lĩnh vực xuất nhập khẩu.
2. Một số đề xuất và kiến nghị.
- Trong những năm qua việc thực hiện công tác dự báo khả năng xuất nhập khẩu ở Việt Nam tuy đã có triển khai nhưng vẫn còn một số điều bất cập. Qua nghiên cứu thực trạng về công tác dự báo khả năng xuất nhập khẩu hàng hoá của Việt Nam, hiểu rõ được những thuận lợi và khó khăn của công tác dự báo xuất nhập khẩu hàng hoá hiện nay, luận văn này có một số đề xuất và kiến nghị sau:
- Thứ nhất là hiện nay việc áp dụng các phương pháp dự báo khoa học để dự báo khả năng xuất nhập khẩu tuy bước đầu đã được áp dụng trong thực tế nhưng mới chỉ ở phạm vi hẹp (theo yêu cầu của từng cơ quan, đơn vị). Vì vậy cần phải có kế hoạch sử dụng một hệ thống các phương pháp dự báo khoa học để dự báo. Khi đã có một hệ thống các phương pháp khoa học được áp dụng thì việc dự báo kim ngạch xuất nhập khẩu hàng tháng sẽ trở nên dễ dàng thuận tiện và đỡ tốn kém hơn.
- Thứ hai là, việc vận dụng phương pháp chuyên gia để dự báo thì kết quả dự báo nhiều khi không sát với thực tế vì nó its nhiều phụ thuộc vào đánh giá chủ quan của các cán bộ làm công tác dự báo. Vì vậy, để kết quả dự báo có độ chính xác cao và sát với thực tế cần phải có sự kết hợp chặt chẽ giữa viẹec dự báo bằng phương pháp chuyên gia với các phương pháp dự báo khác.
- Thứ ba là, hiện nay chưa có một đội ngũ các cán bộchuyên làm công tác dự báo khả năng xuất nhập khẩu, các cán bộ đang làm công tác dự báo xuất nhập khẩu hiện nay chủ yếu là những người có nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực dự báo - các cán bộ này phải được đào tạo một cách có hệ thống về các phương pháp khoa học được áp dụng trong lĩnh vực dụ báo, từ đó có thể vận dụng các phương pháp đó để tiến hành dự báo với độ tin cậy cao nhất.
- Thứ tư là, muốn thu thập nguồn thông tin để tiến hành dự báo nhanh nhất, chính xác nhất và đầy đủ nhất cần phải tổ chức tốt công tác thống kê. Nghĩa là cần phải có một hệ thống cung cấp thông tin từ cơ sở đến trung ương (từ các phòng thống kê quận, huyện đến các cục thống kê tỉnh, thành phố cho đến Tổng cục thống kê), các bộ phận này phải phối hợp chặt chẽ với nhau trong việc cung cấp nguồn thông tin số liệu. Ngoài ra các cơ quan thống kê các cấp cũng cần phải phối hợp chặt chẽ với các bộ ngành có liên quan và với các đơn vị sản xuất kinh doanh để số liệu thu thập được sát với thực tế nhất.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 0 18.doc