Từ sự phân tích trên, để thống nhất
việc phân loại các loại hình thông tin trên
mạng, chúng ta chỉ cần phân chia chúng
thành 02 loại:
- Báo chí điện tử, gồm Báo điện tử
và Tạp chí điện tử. Báo chí điện tử có các
đặc trưng:
+ Là một cơ quan báo chí, hoạt động
theo Luật Báo chí Việt Nam, có tên gọi, có
tôn chỉ mục đích hoạt động, có cơ quan chủ
quản, có trụ sở, con dấu, tài khoản, có tổ
chức bộ máy phóng viên, biên tập viên, có
Tổng Biên tập. Và nhất thiết phải có Giấy
phép hoạt động báo chí.
+ Các đơn vị có Báo điện tử và Tạp
chí điện tử đều có thể xuất bản, phát hành
song song với báo, tạp chí in trên giấy của
đơn vị mình. Nội dung, hình thức giữa hai
bản điện tử và giấy có thể không giống nhau.
Sự khác nhau giữa Báo điện tử và Tạp
chí điện tử chỉ là: Tạp chí điện tử không cần
có hình thức Tạp chí trực tuyến.
Trang tin điện tử
Trang tin điện tử hoạt động theo các
quy định của hệ thống pháp luật chung,
không nhất thiết chỉ hoạt động theo Luật
Báo chí và không được coi là cơ quan báo
chí, do vậy không cần xin giấy phép hoạt
động báo chí. Trang tin điện tử có thể là
trang thông tin của một cơ quan nhà nước,
một tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính
trị - xã hội - nghề nghiệp nhất định; và cũng
có thể là trang tin của một công ty, đơn vị
kinh tế, cá nhân. Đối với Trang tin điện tử
của một tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức
chính trị - xã hội - nghề nghiệp thì trách
nhiệm về nội dung và mọi hoạt động của
Trang tin thuộc về người đứng đầu cơ quan
chủ quản hoặc người được người đứng đầu
cơ quan chủ quản ủy quyền (có thể là Chủ
nhiệm Trang tin hay Chủ bút Trang tin). Tùy
theo chức năng nhiệm vụ của cơ quan chủ
quản mà nội dung của Trang tin truyền tải
cho phù hợp. Với các doanh nghiệp, các tổ
chức kinh tế, xã hội khác cũng vậy. Người
đứng đầu doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế,
xã hội chịu trách nhiệm về mọi hoạt động
của trang tin mà mình là cơ quan chủ quản.
Các Trang thông tin điện tử cá nhân
do cá nhân chịu trách nhiệm hoàn toàn trước
pháp luật.
Sự phân loại này sẽ giúp cho việc xây
dựng các văn bản pháp luật về quản lý thông
tin trên mạng đơn giản và hợp lý hơn, đồng
thời cũng giúp cho việc chuẩn bị sửa đổi bổ
sung Nghị định số 72/2013/NĐ-CP ngày
15/07/2013 của Chính phủ (dự kiến vào
năm 2019
9 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 20/01/2022 | Lượt xem: 302 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Thông tin trên mạng và hệ thống hóa các loại hình thông tin trên mạng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
THÔNG TIN TRÊN MẠNG VÀ HỆ THỐNG HÓA
CÁC LOẠI HÌNH THÔNG TIN TRÊN MẠNG1
1 Nghiên cứu này là kết quả thuộc phạm vi Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ “Hoàn thiện pháp luật về quản lý thông tin trên
mạng - Thực trạng và giải pháp” của Viện Nghiên cứu Lập pháp (năm 2017-2019), do ThS. Trần Thị Hoa làm Chủ nhiệm.
Tóm tắt:
Cùng với hệ thống báo chí điện tử, trên mạng internet xuất hiện
ngày càng nhiều các mạng xã hội, các trang web cá nhân, các công
cụ tìm kiếm, kết nối thông tin khác. Sự phân chia các loại hình
thông tin trên mạng để có biện pháp định hướng, quản lý là một
yêu cầu của công tác quản lý nhà nước đối với mọi quốc gia. Tuy
nhiên, việc phân chia các loại hình thông tin trên mạng trong pháp
luật các nước có sự khác nhau. Ở Việt Nam, hiện nay sự phân
chia này được quy định trong Nghị định số 72/2013/NĐ-CP ngày
15/07/2013 của Chính phủ về quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ
internet và thông tin trên mạng. Cách phân loại này hiện đang tỏ ra
bất cập, nhất là việc phải xác định thông tin trên mạng có phải là
thông tin báo chí hay không, hay phải trả lời câu hỏi mạng xã hội
là gì. Nghiên cứu này bước đầu đề cập đến việc phân loại, hệ thống
hóa các loại hình cung cấp, sử dụng thông tin trên mạng phù hợp
hơn với thực tiễn cung cấp, sử dụng thông tin trên mạng hiện nay.
Nguyễn Hoàng Thanh*
Trần Thị Hoa**
* TS. Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp
** ThS. Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp
Abstract
Along with the electronics press, more and more social networks, personal
web pages, search tools and other information links are available on the
internet. The classification of information on the internet for directional
and management purposes is a requirement for all nations for their
management. However, the classification of the network information
is different among the countries. In Viet Nam, the classification of the
network information is now regulated in the Government's Decree No.
72/2013/ND-CP dated July 15, 2013 on the management, provision and
use of internet services and information on the internet. This classification
is inadequate, especially whether the information on the internet is a news
or not, or what the social network is. This study initially deals with the
classification and systematization of the supply and use of information
on the internet in line with the current practice of providing and using
information on the internet.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: cung cấp, sử dụng thông tin trên
mạng; Nghị định số 72/2013/NĐ-CP;
phân loại, hệ thống hóa các loại hình
cung cấp, sử dụng thông tin trên mạng.
Lịch sử bài viết:
Nhận bài : 14/07/2018
Biên tập : 21/07/2018
Duyệt bài : 03/08/2018
Article Infomation:
Keywords: supply and use of
information on the internet; Decree
No. 72/2013/ND-CP; classification
and systematization of information on
the internet.
Article History:
Received : 14 Jul. 2018
Edited : 21 Jul. 2018
Approved : 03 Aug. 2018
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
42 Số 15(367) T8/2018
1. Khái quát về tình hình cung cấp, sử
dụng thông tin trên mạng hiện nay
1.1 Theo báo cáo của Internet World
Starts, châu Á - Thái Bình Dương hiện
tại đóng góp hơn một nửa trong số 3,7 tỷ
người sử dụng Internet trên toàn cầu. Phần
lớn trong số hàng tỷ người sử dụng Internet
trong tương lai cũng sẽ đến từ khu vực này2.
Sau 20 năm phát triển vượt bậc của
Internet, hàng tỷ người dùng trên toàn thế
giới đã cùng nhau xây dựng để biến Internet
trở thành một nền tảng gắn kết mọi người
ở khắp các quốc gia để cùng nhau chia sẻ
thông tin, nhận thức, kiến thức trong tất cả
các lĩnh vực của cuộc sống.
Tại Việt Nam hiện nay, chúng ta có
thể dễ dàng nhận thấy Internet đã len lỏi
vào khắp các ngõ ngách của cuộc sống. Mọi
người dân đều có thể tìm được những thông
tin cần thiết trên Internet. Chính Internet đã
dần làm thay đổi thói quen, cuộc sống của
chúng ta hiện nay. Từ con số 0 của những
năm đầu thập niên 90, Việt Nam đã trở thành
một trong những nước triển khai mạng 2G
từ rất sớm và tiếp tục phát triển lên 3G và
4G với hạ tầng viễn thông, Internet hiện đại
phủ rộng trên khắp lãnh thổ từ thành thị đến
nông thôn, miền núi, hải đảo.
Theo Trung tâm Internet Việt Nam
(VNNIC)3 Việt Nam có tiềm năng kinh tế
số rất lớn khi đã trở thành quốc gia đứng thứ
17 thế giới về số lượng người dùng Internet
(hơn 49,7 triệu người, chiếm gần 53% dân
số, tỷ lệ tăng trưởng người dùng khoảng
2 Số liệu do VNNIC công bố tại Hội thảo về xu thế phát triển tên miền đa ngữ (IDN) tổ chức tại Hà Nội ngày 3/5/2017
(VietTimes).
3 Số liệu do VNNIC công bố tại Hội thảo về xu thế phát triển tên miền đa ngữ (IDN) tổ chức tại Hà Nội ngày 3/5/2017
(VietTimes).
4 Số liệu do Bộ trưởng Bộ Thông tin &Truyền thông công bố tại Lễ kỷ niệm 20 năm Internet Việt Nam với chủ đề
“Chuyển động số Internet - Nền tảng cho doanh nghiệp Việt hội nhập kinh tế số” tổ chức ngày 22/11/2017 tại Hà Nội.
5 Tổng lượng truy cập internet trên toàn cầu tập trung vào khoảng 150 công ty, chủ yếu là các công ty xuất phát từ Mỹ,
như Google, Yahoo, Facebook, Twitter.
6 Dẫn theo TS. Nguyễn Thế Kỷ (Phó trưởng ban Tuyên giáo Trung ương): Báo, trang tin điện tử, mạng xã hội trên
Internet: Cần định hướng và quản lý có hiệu quả. Nguồn: Petrotimes.vn (truy cập 15/10/2017).
6%/năm), cao hơn mức trung bình 46,64%
của thế giới, nằm trong Top những quốc gia
và vùng lãnh thổ có số lượng người dùng
Internet cao nhất tại châu Á. “So sánh với
hơn 31 triệu người dùng vào năm 2012; 17
triệu của 10 năm trước hay 205.000 người
trong thời đầu của Internet quay số qua mạng
điện thoại công cộng, có thể nói, Việt Nam
đã có những bước tiến thật sự ấn tượng”4.
1.2 Mấy năm gần đây, cùng với hệ
thống báo chí đã có, trên internet xuất hiện
ngày càng nhiều các mạng xã hội, công cụ
tìm kiếm, kết nối thông tin khác. Chúng phát
triển nhanh, lan tỏa rộng khắp toàn cầu, điển
hình là Facebook, Twitter, YouTube, Google,
Yahoo chat, Gmail... Riêng Facebook, chỉ
sau mấy năm ra đời, mạng xã hội này đã có
xấp xỉ một tỷ người khắp thế giới sử dụng5.
Ở những nước phát triển như Mỹ, EU, một
số nước châu Á, có hơn 50% số dân và gần
như toàn bộ giới trẻ thường xuyên dùng
mạng xã hội. Theo cuộc khảo sát gần đây
của Trung tâm nghiên cứu Pew (Hoa Kỳ),
45% số người được hỏi đã trả lời họ dựa vào
internet để đưa ra những quyết định mang
tính bước ngoặt trong cuộc đời. Internet đã
trở thành kênh thông tin gần gũi, tiện lợi, bổ
ích và cả độc hại - tùy theo ý thức, mục đích
của người sử dụng6.
Trong các loại hình truyền thông
trên internet, mạng xã hội đã và đang phát
triển một cách nhanh chóng, hiệu quả, được
nhiều người sử dụng. Hiện nay, trên thế giới
có đến gần 2 tỷ người sử dụng mạng xã hội.
Ở Việt Nam, ước tính có khoảng 35 triệu
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
43Số 15(367) T8/2018
người dùng mạng xã hội, chiếm 37% dân số.
Trung bình mỗi ngày người Việt Nam vào
mạng xã hội khoảng 2 giờ 18 phút7.
Ở nước ta, dựa theo nguồn cung cấp
dịch vụ, có thể phân mạng xã hội thành
hai loại. Thứ nhất là mạng xã hội do các
doanh nghiệp trong nước cung cấp và chịu
sự điều chỉnh của pháp luật Việt Nam. Thứ
hai là mạng xã hội do doanh nghiệp nước
ngoài cung cấp xuyên biên giới vào Việt
Nam, điển hình như: Facebook, Google,
Youtube, Twitter, Microsoft... Các mạng xã
hội do doanh nghiệp Việt Nam cung cấp,
đặc biệt là các trang đã được cấp phép hoạt
động phần lớn đều tuân thủ quy định của
pháp luật hiện hành. Số ít trường hợp để xảy
ra sai phạm và nội dung vi phạm chủ yếu là
do thành viên chia sẻ, trao đổi các nội dung
vi phạm về thuần phong mỹ tục, dung tục và
phản cảm.
Các mạng xã hội của nước ngoài cung
cấp xuyên biên giới vào Việt Nam được
người Việt Nam lựa chọn sử dụng nhiều
nhất hiện nay là Facebook và Youtube. Theo
báo cáo của Google, Việt Nam là một trong
nhóm 10 nước có lượng người dùng Youtube
cao nhất trên thế giới. Trước tháng 8/2013,
mạng xã hội tại Việt Nam được quản lý dưới
phương thức đăng ký cung cấp dịch vụ. Tuy
nhiên, do sự phát triển nhanh của mạng xã
hội, Việt Nam đã thay đổi phương thức quản
lý từ đăng ký cung cấp dịch vụ sang phương
thức cấp giấy phép hoạt động. Đến thời
điểm hiện tại, Việt Nam đã có 270 mạng xã
hội được cấp giấy phép hoạt động8.
1.3 Đối với báo điện tử, tính tới tháng
6/2017, cả nước đã có 150 trang báo điện
tử trong số 982 cơ quan báo, tạp chí được
cấp phép hoạt động. Cụ thể, số lượng báo in
7 Lê Quang Tự Do, “Công tác quản lý mạng xã hội trong tình hình mới”. Nguồn: VietTimes ngày 21/7/2017.
8 Lê Quang Tự Do, Mạng xã hội tạo điều kiện cho “truyền thông cá nhân” phát triển, tlđd.
9 Báo cáo của Bộ Thông tin và Truyền thông,
cap-phep-hoat-dong_n20973.html, truy cập 15/10/2017.
là 193 (trung ương: 86, địa phương: 107);
639 tạp chí (trung ương: 525, địa phương:
114); báo điện tử (báo mạng): 150. Thống
kê cũng cho thấy, đã có 17.297 nhà báo được
cấp Thẻ nhà báo9.
Trong thời gian qua, loại hình báo
điện tử ở Việt Nam phát triển mạnh mẽ với
những đặc tính riêng như: khả năng tương
tác cao, không bị giới hạn bởi không gian,
thời gian; cập nhật tin, bài đến từng phút, dễ
dàng thay bài, gỡ bài. Trên thực tế, báo điện
tử đã thông tin kịp thời, phản ánh hơi thở của
đời sống xã hội, truyền tải nhanh chóng đến
người đọc mọi chủ trương chính sách của
Đảng và Nhà nước, mọi sự kiện quan trọng,
góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội,
nâng cao đời sống người dân.
Tuy nhiên, vẫn có nhiều trường hợp
phóng viên báo điện tử sai phạm, bị thu Thẻ
nhà báo, cơ quan báo chí bị xử phạt. Hiện có
tình trạng báo chí bị thương mại hóa với việc
đăng tải thông tin, hình ảnh thiếu văn hóa,
thiếu nhân văn và phản giáo dục. Một số cơ
quan báo chí và nhà báo lạm quyền, lợi dụng
vị trí và công việc để vụ lợi, trục lợi và làm
trái pháp luật, trái đạo đức nghề nghiệp nhà
báo gây tác động xấu đến vai trò, uy tín của
báo chí đối với xã hội, làm suy giảm niềm
tin của công chúng đối với báo chí. Thậm
chí, ngay trên một số báo điện tử gần đây,
các nhà báo đã lên tiếng về việc một số đồng
nghiệp liên kết thành những “liên minh báo
chí’’ hoặc nhóm phóng viên lấy danh nghĩa
cùng đi tác nghiệp nhưng thực chất là để
nhũng nhiễu doanh nghiệp. Bộ Thông tin
và Truyền thông đã nhiều lần yêu cầu các
cơ quan chủ quản, cơ quan báo chí chỉ đạo
rà soát, chấn chỉnh hoạt động của các Văn
phòng đại diện, phóng viên thường trú. Bên
cạnh đó, các Sở Thông tin và Truyền thông
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
44 Số 15(367) T8/2018
phải xử nghiêm hành vi vi phạm pháp luật
của các văn phòng, phóng viên thường trú.
1.4 Dù với các đặc điểm khác nhau,
vai trò và ý nghĩa khác nhau trong thông tin
truyền thông, nhưng các loại hình truyền
thông trên internet vẫn đang từng giờ từng
phút chuyển tải một khối lượng thông tin
khổng lồ đến mọi ngõ ngách trên toàn cầu.
Thông tin trên mạng đã trở thành một loại
thông tin không thể thiếu đối với cuộc sống
của hàng tỷ người trên hành tinh.
2. Phân loại các loại hình thông tin trên
mạng theo Nghị định số 72/2013/NĐ-CP
Theo định nghĩa tại Khoản 21 Điều
3 của Nghị định số 72/2013/NĐ-CP ngày
15/07/2013 của Chính phủ về Quản lý, cung
cấp, sử dụng dịch vụ internet và thông tin
trên mạng (Nghị định số 72/2013/NĐ-CP),
Trang thông tin điện tử (website) là hệ thống
thông tin dùng để thiết lập một hoặc nhiều
trang thông tin được trình bày dưới dạng ký
hiệu, số, chữ viết, hình ảnh, âm thanh và các
dạng thông tin khác phục vụ cho việc cung
cấp và sử dụng thông tin trên Internet.
Theo quy định tại Điều 20 Chương III.
Quản lý, cung cấp và sử dụng thông tin trên
mạng của Nghị định số 72/2013/NĐ-CP,
các trang thông tin điện tử được phân loại
như sau:
1. Báo điện tử dưới hình thức trang
thông tin điện tử. Hay còn gọi là báo mạng
điện tử. Báo mạng điện tử là một phương
tiện truyền thông đại chúng đại chúng, luôn
cập nhật những tin tức chính trị xã hội nóng
hổi trên cả nước để cung cấp thông tin cho
người dân. Báo mạng điện tử cũng giống
như một trang thông tin điện tử nhưng lại
được thiết lập và hoạt động theo những quy
tắc của báo chí.
2. Trang thông tin điện tử tổng hợp là
trang thông tin điện tử của cơ quan, tổ chức,
doanh nghiệp cung cấp thông tin tổng hợp
trên cơ sở trích dẫn nguyên văn, chính xác
nguồn tin chính thức và ghi rõ tên tác giả
hoặc tên cơ quan của nguồn tin chính thức,
thời gian đã đăng, phát thông tin đó. Như
vậy, trang thông tin điện tử tổng hợp không
giống báo mạng điện tử ở chỗ là không được
tự ý sản xuất các thông tin và đưa lên website
mà phải lấy các thông tin từ những trang báo
hoặc trang website khác có trích nguồn cung
cấp và đã được thỏa thuận giữa hai bên.
Trang thông tin điện tử tổng hợp có
hai loại chính là loại thuộc cơ quan báo chí
và loại không thuộc cơ quan báo chí. Về
giao diện thì trang thông tin điện tử tổng hợp
có nhiều điểm giống với báo mạng điện tử từ
cách trình bày và cách thiết kế các bản tin.
3. Trang thông tin điện tử nội bộ là
trang thông tin điện tử của cơ quan, tổ chức,
doanh nghiệp cung cấp thông tin về chức
năng, quyền hạn, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy,
dịch vụ, sản phẩm, ngành nghề và thông tin
khác phục vụ cho hoạt động của chính cơ
quan, tổ chức, doanh nghiệp đó
4. Trang thông tin điện tử cá nhân là
trang thông tin điện tử do cá nhân thiết lập
hoặc thiết lập thông qua việc sử dụng dịch
vụ mạng xã hội để cung cấp, trao đổi thông
tin của chính cá nhân đó đến với mọi người
trên internet, không đại diện cho tổ chức
hoặc cá nhân khác.
5. Trang thông tin điện tử ứng dụng
chuyên ngành là trang thông tin điện tử của
cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp cung cấp
dịch vụ ứng dụng trong lĩnh vực viễn thông,
công nghệ thông tin, phát thanh, truyền
hình, thương mại, tài chính, ngân hàng, văn
hóa, y tế, giáo dục và các lĩnh vực chuyên
ngành khác.
Như vậy, hiện nay có 5 loại trang
thông tin điện tử chính là: báo mạng điện
tử, trang thông tin điện tử tổng hợp, trang
thông tin điện tử nội bộ, trang thông tin điện
tử cá nhân và trang thông tin điện tử chuyên
ngành. Mỗi loại đều có những đặc thù và
ứng dụng riêng của mình.
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
45Số 15(367) T8/2018
3. Bước đầu hệ thống hóa các loại hình
cung cấp, sử dụng thông tin trên mạng
Tuy các loại hình cung cấp thông
tin điện tử là rất đa dạng và việc phân loại
chúng có thể có rất nhiều cách khác nhau,
như cách phân loại dựa vào Nghị định số
72/2013/NĐ-CP; cách phân loại dựa vào
cách thức biên tập và phát hành; cách phân
loại dựa vào tính chính thống (hay hợp
pháp) - là loại được cấp phép bởi một cơ
quan chức năng; hay cách phân loại dựa
theo chất lượng nội dung - cách phân loại
này dựa trên hình thức thể hiện trên phiên
bản online (gồm cả trang tin điện tử và báo
điện tử, trong khi báo điện tử hội đủ các yếu
tố được cấp phép hoạt động của một tờ báo
điện tử, thì trang tin điện tử đa phần được
lấy thông tin từ báo in đăng lại)..., nhưng dù
có các loại hình phong phú đến đâu, các loại
hình này bản chất vẫn là những trang thông
tin điện tử trên nền internet. Sự phân loại
hiện nay chỉ dựa vào nội dung, hình thức, vai
trò, ý nghĩa của từng trang. Và theo Khoản
21 Điều 3 của Nghị định số 72/2013/NĐ-
CP về Quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ
internet và thông tin trên mạng, Trang thông
tin điện tử là một hệ thống thông tin được
sử dụng để tạo ra một hoặc nhiều trang có
thông tin được trình bày dưới các dạng chữ
viết, chữ số, hình ảnh, âm thanh hay đặc biệt
hơn là các ký hiệu để phục vụ cho việc cung
cấp thông tin trên internet.
Do vậy, để tránh việc chia ra quá nhiều
loại hình cung cấp thông tin điện tử qua
mạng và để dễ dàng hơn cho công tác quản
lý, định hướng, chúng tôi cho rằng, cần phải:
1. Xác định nguyên tắc tất cả các trang
thông tin điện tử qua mạng là các loại hình
thông tin được xây dựng theo hình thức trang
web và phát hành dựa trên nền tảng Internet.
Do dựa trên nền tảng Internet, nên chúng
phải được quản lý theo các đặc tính của công
nghệ này, khác với việc thông tin trên nền
tảng giấy in hoặc các loại vật liệu khác.
2. Về bản chất, sự phân chia các loại
hình thông tin điện tử qua mạng chỉ xuất
phát từ nhu cầu quản lý nhà nước đối với
các loại hình cung cấp thông tin điện tử
qua mạng về mặt hành chính nhà nước và
về mặt nội dung, chứ không vì mục đích để
quy định khuôn khổ, dung lượng, tính doanh
thu, thuế, hoặc vì các lý do ngoài thông
tin nào khác.
3. Xuất phát từ nhu cầu quản lý nhà
nước đối với các loại hình cung cấp thông
tin điện tử qua mạng, tạo hành lang pháp lý
rõ ràng, minh bạch, nên chúng ta nên chọn
cách phân loại dựa vào tính chính thống, hay
hợp pháp - là loại được cấp phép bởi một cơ
quan chức năng.
Từ đó, chúng tôi kiến nghị thay đổi lại
cách phân loại các trang thông tin điện tử
theo Điều 20 Chương III. Quản lý, cung cấp
và sử dụng thông tin trên mạng của Nghị
định số 72/2013/NĐ-CP. Cụ thể như sau:
3.1 Báo điện tử:
Báo điện tử (còn được gọi là báo mạng,
báo trực tuyến hay tin tức trực tuyến) là một
hình thức của trang thông tin điện tử. Đây là
loại hình báo chí được xây dựng theo hình
thức một trang web và phát hành dựa trên
nền tảng Internet. Báo điện tử được tòa soạn
điện tử xuất bản, còn người đọc báo dựa
trên máy tính, thiết bị cá nhân như máy tính
bảng, điện thoại di động trung cao cấp,... có
kết nối internet.
Báo điện tử là một cơ quan báo chí,
hoạt động theo Luật Báo chí Việt Nam, phải
có tôn chỉ mục đích hoạt động, có Cơ quan
chủ quản, có trụ sở, con dấu, tài khoản, có tổ
chức bộ máy phóng viên, biên tập viên, có
Tổng Biên tập. Và nhất thiết phải có Giấy
phép hoạt động báo chí.
Báo điện tử chỉ gồm hai loại:
- Báo điện tử chỉ trực tuyến (online-
only), phát hành gần như không có bản in
tương ứng. Đây là báo do các hãng thông
tấn, phát thanh, truyền hình lập ra.
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
46 Số 15(367) T8/2018
- Báo điện tử có bản in giấy. Các
cơ quan xuất bản báo in hoàn toàn có thể
xây dựng báo điện tử cho mình, phát hành
song song với báo giấy (còn gọi là báo lai -
hybrid) nhưng nội dung đăng tải, hình thức
nên khác nhau. Phiên bản trực tuyến cũng có
thể khác hẳn bản in. Khái niệm kỳ phát hành
như "báo ngày", "báo tuần" cũng không còn.
Bộ máy tổ chức, đội ngũ làm báo có thể có
thể có hai (tùy quy mô), nhưng Tổng Biên
tập chỉ là một người và đương nhiên là có
chung cơ quan chủ quản.
Các báo điện tử này đều có thể có thêm
hình thức là báo trực tuyến, cập nhật thường
xuyên tin tức, đặc biệt là đăng "tin tức thời"
“tin thời sự” hay "tin giật gân" (breaking
news). Trong tiếng Anh, báo trực tuyến gọi
là "Online newspaper". Sự phổ biến và thuận
tiện của việc dùng từ "Online" dẫn đến trên
thế giới và trong nước, từ này được gắn luôn
vào tên báo, ví dụ Báo “Laodong Online",
"Tuổi trẻ Online",... để chỉ phiên bản
trực tuyến.
Báo trực tuyến cho phép mọi người
trên khắp thế giới tiếp cận tin tức nhanh
chóng không phụ thuộc vào không gian và
thời gian. Sự phát triển của báo trực tuyến
cũng sẽ làm thay đổi thói quen đọc tin và
có thể trở thành một cách làm báo chủ đạo
trong tương lai.
3.2 Tạp chí điện tử:
Tương tự như tổ chức và hoạt động
của Báo điện tử, Tạp chí điện tử cũng hoạt
động theo Luật Báo chí Việt Nam, phải có
tôn chỉ mục đích hoạt động, có Giấy phép
hoạt động, có Cơ quan chủ quản, có trụ sở,
con dấu, tài khoản. Và nhất thiết phải có tổ
chức bộ máy phóng viên, biên tập viên, có
Tổng Biên tập.
Các Tạp chí in hoàn toàn có thể xây
dựng Tạp chí điện tử cho mình, phát hành
song song với tạp chí giấy (định kỳ), nhưng
nội dung đăng tải, hình thức thì cũng nên
khác nhau, do yêu cầu tăng dung lượng tin
bài hay cần phản hồi nhanh nhờ sự ưu việt
của nền Internet. Như vậy, Tạp chí điện tử,
ngoài việc đăng tải các bài viết trên Tạp chí
in của mình, còn được tự sản xuất các thông
tin và đưa lên website, lấy các thông tin từ
những trang báo hoặc trang website khác
nhưng có trích nguồn cung cấp và đã được
thỏa thuận giữa hai bên. Bộ máy tổ chức,
đội ngũ làm báo có thể có thể có hai, nhưng
Tổng Biên tập chỉ cần là một người và đương
nhiên là có chung cơ quan chủ quản.
Do tính chất của một tờ Tạp chí, Tạp
chí điện tử không cần có thêm hình thức là
Tạp chí trực tuyến.
Hơn nữa, có thể nhập báo điện tử và
Tạp chí điện tử thành một loại hình, đó là
Báo chí điện tử. Sự khác nhau chỉ là Tạp
chí điện tử không có hình thức là Tạp chí
trực tuyến.
3.3 Trang điện tử:
Theo phân loại chính thống, ngoài báo
điện tử, hiện nay chúng ta có các loại trang
thông tin: thông tin điện tử tổng hợp, trang
thông tin điện tử nội bộ, trang thông tin điện
tử cá nhân và trang thông tin điện tử chuyên
ngành. Chủ thể của các trang này có thể
là cơ quan nhà nước, các tờ tạp chí, doanh
nghiệp hay cá nhân.
Theo chúng tôi, chúng ta nên xếp cả
bốn loại trang thông tin này làm một, gọi
chúng là Trang tin điện tử (chỉ để phân biệt
với trang tin giấy và để phù hợp với đặc tính
là trang tin trên mạng Internet, nên chúng
phải được quản lý theo các đặc tính của công
nghệ này, khác với việc thông tin trên nền
tảng giấy in hoặc các loại vật liệu khác).
Trang tin điện tử hoạt động theo các
quy định của hệ thống pháp luật chung,
không nhất thiết chỉ hoạt động theo Luật
Báo chí và không được coi là cơ quan báo
chí, do vậy không cần xin giấy phép hoạt
động báo chí. Trang tin điện tử có thể là trang
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
47Số 15(367) T8/2018
thông tin của một cơ quan nhà nước, một tổ
chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị -
xã hội - nghề nghiệp nhất định; và cũng có
thể là trang tin của một công ty, đơn vị kinh
tế, cá nhân. Đối với Trang tin điện tử của
một cơ quan nhà nước, một tổ chức chính
trị - xã hội, tổ chức chính trị - xã hội - nghề
nghiệp thì trách nhiệm về mọi hoạt động của
Trang tin thuộc về người đứng đầu cơ quan
chủ quản hoặc người được người đứng đầu
cơ quan chủ quản ủy quyền (có thể là Chủ
nhiệm Trang tin hay Chủ bút Trang tin). Tùy
theo chức năng nhiệm vụ của cơ quan chủ
quản mà nội dung của Trang tin truyền tải
cho phù hợp. Với các doanh nghiệp, các tổ
chức kinh tế, xã hội khác cũng vậy. Người
đứng đầu doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế,
xã hội chịu trách nhiệm về mọi hoạt động
của trang tin mà mình là cơ quan chủ quản.
Ngay cả Công báo điện tử - trang
thông tin pháp lý chính thức của Nhà nước,
do Chính phủ thống nhất quản lý, có chức
năng đăng các văn bản quy phạm pháp luật
do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban
hành hoặc phối hợp ban hành, các điều ước
quốc tế đã có hiệu lực đối với nước Cộng
hòa XHCN Việt Nam và các văn bản pháp
luật khác theo quy định, và trang Công báo
điện tử cấp tỉnh do Văn phòng Ủy ban nhân
dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương xuất bản cũng thuộc về loại Trang tin
điện tử này.
Các Trang thông tin điện tử cá nhân do
cá nhân chịu trách nhiệm hoàn toàn.
3.4 Mạng xã hội:
3.4.1 Xác định mạng xã hội là gì
Mạng xã hội (social network) là một
khái niệm đã trở nên quen thuộc và gắn bó
với người sử dụng Internet. Nhưng để định
10 https://vi.wikipedia.org/wiki/D%E1%BB%8Bch_v%E1%BB%A5_m%E1%BA%A1ng_x%C3%A3_h%E1%B-
B%99i, truy cập ngày 06/10/2017.
nghĩa mạng xã hội là gì, tính năng và những
ưu điểm của mạng xã hội gồm những gì, thì
hiện nay, đang có rất nhiều quan điểm khác
nhau, cách phân loại cũng khác nhau. Bản
thân cụm từ “social network” trong tiếng
Anh khi chuyển ngữ cũng gây nhiều tranh
cãi về độ chính xác.
Theo Wikipedia10 Tiếng Việt thì mạng
xã hội hay còn gọi là mạng xã hội ảo là dịch
vụ nối kết các thành viên cùng sở thích trên
Internet lại với nhau với nhiều mục đích
khác nhau không phân biệt không gian và
thời gian. Mạng xã hội có những tính năng
như chat, e-mail, phim ảnh, voice chat, chia
sẻ tệp, blog và xã hội. Như vậy, mạng xã hội
có thể ngầm hiểu là một thế giới ảo (xã hội
ảo) với các thành viên là các cư dân mạng.
Cách để các cư dân mạng liên kết với nhau
có thể dựa trên các group, dựa trên các thông
tin cá nhân, dựa trên sở thích cá nhân hoặc
lĩnh vực quan tâm. Khái niệm này đã gây ra
rất nhiều tranh luận vì khái niệm tập trung
vào vấn đề coi mạng xã hội là sự kết nối
những người có chung sở thích, mục tiêu
và họ là những kiến tạo nội dung của mạng
xã hội. Quan điểm đó khiến nhiều người đã
đề nghị, nên đổi khái niệm “mạng xã hội”
thành khái niệm “mạng giao lưu” cho đúng
với ý nghĩa và mục đích của social network.
Theo nhà xã hội học Laura Garton,
nhà nghiên cứu chiến lược ở Trường Đại học
Toronto (Canada) thì “khi một mạng máy
tính kết nối mọi người hoặc các cá nhân, tổ
chức lại với nhau thì đó chính là mạng xã
hội”. Theo cách định nghĩa đơn giản này,
mạng xã hội là một tập hợp người hoặc
các tổ chức hoặc các thực thể xã hội khác
được kết nối với nhau thông qua mạng máy
tính. Như vậy, trái với cách hiểu của nhiều
người, mạng xã hội là mạng máy tính lớn,
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
48 Số 15(367) T8/2018
nhiều thành viên, mạng xã hội đơn giản là
hệ thống của những mối quan hệ con người
với con người. Trên bình diện đó, bản thân
Facebook hay Twitter không phải là mạng
xã hội, mà chỉ là những dịch vụ trực tuyến
được tạo lập để xây dựng và phản ánh mạng
xã hội 11.
Bên cạnh hai khái niệm mạng xã hội
kể trên, không thể không nhắc tới khái niệm
mạng xã hội của Vũ Kiêm Văn, Giám đốc
Công ty truyền thông VSMC (Công ty sáng
lập mạng xã hội thehetre.vn): Mạng xã hội
như một đồ thị trong đó các nút có thể là một
cá thể, tổ chức, còn các liên kết là mô phỏng
các quan hệ trong xã hội thực. Quan điểm
này khẳng định, mạng xã hội khác rất nhiều
so với blog, đó là một khái niệm rộng lớn
hơn trong khi blog chỉ đơn thuần là một dịch
vụ, một loại hình giao tiếp trong mạng xã
hội, do đó sẽ có mạng xã hội được xây dựng
trên nền tảng chính là blog, nhưng cũng có
những mạng xã hội không có dịch vụ này.
Khái niệm này được xây dựng trên cơ sở lý
thuyết về mạng lưới xã hội khi nhìn nhận
mạng xã lưới xã hội gồm hai thành tố chính
là điểm nút (Node) và ràng buộc (Tie).
Một quan điểm khác về khái niệm
mạng xã hội nhấn mạnh tới sự phân biệt hai
khái niệm Social Media (truyền thông công
chúng) và Social Network (mạng xã hội).
Theo ông Trương Trí Vĩnh - Giám đốc Dự án
VC Corp - cần phân biệt hai khái niệm Social
Media (truyền thông công chúng) và Social
Network (mạng xã hội). Hãy xét trên hai
phần cơ bản của truyền thông: sản xuất nội
dung và phân phối nội dung (khác với phát
hành). Trong khi mạng xã hội đề cập đến
11 Theo chúng tôi, nếu vẫn coi Facebook hay Twitter là mạng xã hội, thì đó chỉ là những mạng xã hội con (các group)
tham gia liên kết trên cùng một mạng xã hội toàn cầu.
12 Mạng xã hội là gì? Seo.iclick.vn/mang-xa-hoi/tu-van/mang-xa-hoi-la-gi/
13 Dẫn theo: Phạm Thị Phương Liên, Chu Vân Khánh, Nguyễn Minh Huyền “Mạng xã hội Reader.vn và mô hình của
thư viện - mạng xã hội”; Trường Đại học Văn hóa Hà Nội, http: //huc.edu.vn/mang-xa-hoi-readervn-va-mo-hinh-cua
thuvien-mang-xa-hoi-1460-vi.htm; truy cập 06/10/2017.
một tập hợp các phần tử (thành viên) và
các quan hệ liên kết giữa chúng thì Social
Media đề cập tới hình thức sản xuất và phân
phối nội dung. Như vậy, ngay cả MySpace
hay Facebook, tự thân nó không phải Social
Media vì nó không sản xuất mà cũng không
phân phối, mà là mạng xã hội, nhưng nó
cung cấp môi trường để các blogger sản xuất
và phân phối. Social Media không hề phụ
thuộc vào Social Network. Ví dụ nếu ai đó
lập một trang web cá nhân để đưa các bài
viết và quan điểm cá nhân của mình lên, vậy
là họ đã sản xuất nội dung, nhờ Internet phân
phối chính là Social Media12.
Như vậy có thể hiểu mạng xã hội đó
là một xã hội ảo với hai thành tố chính tạo
nên, đó là các thành viên và liên kết giữa
các thành viên đó. Mạng xã hội là dịch vụ
Internet cho phép kết nối các thành viên,
không phân biệt không gian và thời gian13.
3.4.2 Nên xác định mạng xã hội là gì
Đến đây thì quan niệm về khái niệm
mạng xã hội nên thay đổi, vì chúng ta đã biết,
Trang thông tin điện tử (kể cả báo chí điện
tử) của mọi tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân
được xây dựng theo hình thức một trang
web và phát hành dựa trên nền tảng Internet,
được liên kết với nhau thì được gọi chung là
mạng xã hội. Bởi vì:
- Chúng đều sử dụng chung dịch vụ
Internet;
- Chúng có tính liên kết toàn cầu
trên mạng (sách báo, các phương tiện khác
không có);
- Chúng bình đẳng với nhau trong hoạt
động thể hiện nội dung, bản sắc;
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
49Số 15(367) T8/2018
- Dù có giấy phép hoạt động báo chí
hay không, khi hoạt động, các Trang tin điện
tử này đều phải tuân thủ pháp luật quốc gia
và pháp luật quốc tế.
- Tất cả các chủ thể xây dựng Trang
tin điện tử đều phải thực hiện các công đoạn:
sản xuất và biên tập thông tin, lưu giữ thông
tin, truyền thông tin, khai thác thông tin và
đều có quyền bình luận, tiếp nhận hay không
tiếp nhận các thông tin khác trên mạng.
- Phù hợp với ngữ nghĩa của khái niệm
xã hội, cả trong ngôn ngữ, trong đời sống và
trong các quy định của pháp luật. Nói đến xã
hội là nói đến mọi yếu tố tạo nên một chỉnh thể
xã hội và những mối quan hệ đa dạng, phức
tạp giữa các yếu tố đó với nhau. Chúng ta vẫn
nói quản lý Nhà nước, quản lý xã hội bằng
pháp luật. Mạng xã hội bao gồm tất cả các
trang thông tin điện tử được xây dựng theo
hình thức một trang web và phát hành dựa
trên nền tảng Internet, nghĩa là chúng cũng là
các yếu tố cấu thành nên một chỉnh thể xã hội
trên mạng, do vậy, không thể loại báo điện tử,
tạp chí điện tử ra khỏi mạng xã hội.
4. Kết luận
Từ sự phân tích trên, để thống nhất
việc phân loại các loại hình thông tin trên
mạng, chúng ta chỉ cần phân chia chúng
thành 02 loại:
- Báo chí điện tử, gồm Báo điện tử
và Tạp chí điện tử. Báo chí điện tử có các
đặc trưng:
+ Là một cơ quan báo chí, hoạt động
theo Luật Báo chí Việt Nam, có tên gọi, có
tôn chỉ mục đích hoạt động, có cơ quan chủ
quản, có trụ sở, con dấu, tài khoản, có tổ
chức bộ máy phóng viên, biên tập viên, có
Tổng Biên tập. Và nhất thiết phải có Giấy
phép hoạt động báo chí.
+ Các đơn vị có Báo điện tử và Tạp
chí điện tử đều có thể xuất bản, phát hành
song song với báo, tạp chí in trên giấy của
đơn vị mình. Nội dung, hình thức giữa hai
bản điện tử và giấy có thể không giống nhau.
Sự khác nhau giữa Báo điện tử và Tạp
chí điện tử chỉ là: Tạp chí điện tử không cần
có hình thức Tạp chí trực tuyến.
- Trang tin điện tử
Trang tin điện tử hoạt động theo các
quy định của hệ thống pháp luật chung,
không nhất thiết chỉ hoạt động theo Luật
Báo chí và không được coi là cơ quan báo
chí, do vậy không cần xin giấy phép hoạt
động báo chí. Trang tin điện tử có thể là
trang thông tin của một cơ quan nhà nước,
một tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính
trị - xã hội - nghề nghiệp nhất định; và cũng
có thể là trang tin của một công ty, đơn vị
kinh tế, cá nhân. Đối với Trang tin điện tử
của một tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức
chính trị - xã hội - nghề nghiệp thì trách
nhiệm về nội dung và mọi hoạt động của
Trang tin thuộc về người đứng đầu cơ quan
chủ quản hoặc người được người đứng đầu
cơ quan chủ quản ủy quyền (có thể là Chủ
nhiệm Trang tin hay Chủ bút Trang tin). Tùy
theo chức năng nhiệm vụ của cơ quan chủ
quản mà nội dung của Trang tin truyền tải
cho phù hợp. Với các doanh nghiệp, các tổ
chức kinh tế, xã hội khác cũng vậy. Người
đứng đầu doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế,
xã hội chịu trách nhiệm về mọi hoạt động
của trang tin mà mình là cơ quan chủ quản.
Các Trang thông tin điện tử cá nhân
do cá nhân chịu trách nhiệm hoàn toàn trước
pháp luật.
Sự phân loại này sẽ giúp cho việc xây
dựng các văn bản pháp luật về quản lý thông
tin trên mạng đơn giản và hợp lý hơn, đồng
thời cũng giúp cho việc chuẩn bị sửa đổi bổ
sung Nghị định số 72/2013/NĐ-CP ngày
15/07/2013 của Chính phủ (dự kiến vào
năm 2019■
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
50 Số 15(367) T8/2018
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- thong_tin_tren_mang_va_he_thong_hoa_cac_loai_hinh_thong_tin.pdf