Thủ tục truy cứu trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân ở một số quốc gia và những gợi mở cho Việt Nam

Mô hình Việt Nam phù hợp với mục tiêu lý tưởng về vai trò của Nhà nước trong bảo đảm tính thống nhất của pháp luật, bảo đảm trật tự xã hội. Tuy nhiên, do không phân biệt giữa pháp nhân và thể nhân nên một cơ chế tố tụng chung được áp dụng đồng đều chắc chắn sẽ gây nên những khó khăn trong điều tra, khởi tố vụ án đối với pháp nhân - bởi những khó khăn đặc thù của quy trình tố tụng đối với pháp nhân chưa được xử lý. Cơ quan điều tra, công tố sẽ phải đương đầu với áp lực khó cân bằng - giữa một bên là đòi hỏi về sự tôn trọng bảo đảm các quyền của pháp nhân (không phân biệt với thể nhân); nguyên tắc tuân thủ pháp luật trong điều tra - và một bên là mục tiêu đấu tranh phòng chống tội phạm nghiêm minh, triệt để, kịp thời. Rõ ràng việc phân biệt những đặc thù của pháp nhân trong TTHS là quan trọng để thiết kế nên quy trình tố tụng phù hợp cho pháp nhân. Khi không tạo nên các quy trình riêng thì chắc chắc, việc điều tra, truy tố pháp nhân sẽ khó hơn nhiều so với thể nhân. Đổi lại, cơ quan tố tụng - thậm chí cơ quan hành chính - có thể được tăng cường những quyền can thiệp nhất định. Cũng có thể dự liệu về những thủ tục hành chính phát sinh đối với pháp nhân như đòi hỏi báo cáo định kỳ, nghĩa vụ công khai hồ sơ trong một số trường hợp hay lĩnh vực nhất định. Trước mắt, điều này có thể khắc phục được phần nào những khó khăn trong tố tụng, nhưng lại tăng gánh nặng thủ tục, giảm năng lực cạnh tranh trong kinh tế, và xét trên lý thuyết, thậm chí có thể gây tổn hại ít nhiều đến nguyên tắc pháp quyền. Tuy nhiên, cũng có thể thấy rằng, việc lựa chọn hướng đi nào sẽ hoàn toàn dựa trên các cân nhắc về chính trị và kinh tế, các nhà lập pháp sẽ phải lựa chọn giữa ưu tiên phát triển kinh tế hay duy trì sự công bằng, bình đẳng trong xã hội. Nhưng trong mọi trường hợp, sự lựa chọn phải dựa trên bối cảnh thực tiễn của quốc gia, trong đó nền tảng là hệ thống tư pháp và chế độ pháp quyền■

pdf7 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 19/01/2022 | Lượt xem: 260 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Thủ tục truy cứu trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân ở một số quốc gia và những gợi mở cho Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
THỦ TỤC TRUY CỨU TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ ĐỐI VỚI PHÁP NHÂN Ở MỘT SỐ QUỐC GIA VÀ NHỮNG GỢI MỞ CHO VIỆT NAM Tóm tắt: Nhiều quốc gia trên thế giới quy định trách nhiệm hình sự của pháp nhân, nhưng với thủ tục truy cứu trách nhiệm hình sự của pháp nhân khác biệt, thể hiện qua hai mô hình: Mỹ và các quốc gia Civil Law. Sự khác biệt này được lý giải từ những triết lý khác nhau về vai trò của nhà nước, của cơ quan tư pháp, từ lịch sử và từ mục tiêu thực dụng hay lý tưởng của pháp luật. Hai mô hình trên có thể gợi mở về triển vọng áp dụng ở Việt Nam, khi Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định thủ tục truy cứu trách nhiệm hình sự của pháp nhân cơ bản vẫn dựa trên thủ tục truy cứu trách nhiệm hình sự chung. Nguyễn Hoàng Anh* * PGS.TS. Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội. Abstract Several countries around the world recognize the criminal liability of a legal entity with different criminal procedures for prosecuting the criminal liability, based on two basic models: the United States and the continental countries. This distinction is explained by different philosophies on the role of the state, the judiciary, on the history and the purposes of legal system. The two models may be suggestive of the prospects for application in Vietnam, as the Criminal Procedure Code of 2015 provides regulations on the procedure for prosecuting the criminal liability of legal entities based on general criminal proceedings. Thông tin bài viết: Từ khóa: pháp nhân; truy cứu trách nhiệm hình sự của pháp nhân; thoả thuận hoãn tuy tố, thoả thuận miễn truy tố; các quyền tố tụng. Lịch sử bài viết: Nhận bài : 28/02/2018 Biên tập : 17/03/2018 Duyệt bài : 22/03/2018 Article Infomation: Keywords: legal entity; corporate criminal procedure; deferred prosecution agreement, non-prosecution agreement; procedure rights. Article History: Received : 28 Feb. 2018 Edited : 17 Mar. 2018 Approved : 22 Mar. 2018 1. Đặt vấn đề Pháp nhân, do tính trừu tượng và sáng tạo của nó, luôn là chủ đề say mê trong giới luật học. Lần đầu tiên, sự ra đời của khái niệm pháp nhân ở các nước châu Âu lục địa đã gây nên những tranh luận lớn lao. Ở Pháp, bày tỏ nghi ngờ về sự hiện hữu của pháp nhân, Gaston Jèze đã có câu nói nổi tiếng: “Tôi không bao giờ ăn trưa với một pháp nhân”; để phản bác lại, Jean Claude Soyer - một học giả Pháp - đã tuyên bố: “Tôi cũng không (ăn trưa) cùng pháp nhân, KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË 58 Số 21(373) T11/2018 nhưng lại thường xuyên phải chi trả các hoá đơn của nó”1. Cho đến nay, những tranh luận về việc nên thừa nhận hay không thừa nhận sự tồn tại của pháp nhân đã trôi qua. Càng ngày, cùng với sự phát triển của đời sống kinh tế - xã hội, vai trò của pháp nhân ngày càng mở rộng, những tranh luận về trách nhiệm hình sự (TNHS) của pháp nhân cũng lắng dần. Trên thực tế, cho đến nay, hầu hết các quốc gia trên thế giới đã ghi nhận về TNHS của pháp nhân2. Tuy nhiên, mặc dù cùng ghi nhận về TNHS của pháp nhân, nhưng không phải các quốc gia đều có những quy định thống nhất về thủ tục truy cứu TNHS của pháp nhân. Đặc biệt là trong việc quy định các quyền, nghĩa vụ của pháp nhân trong tố tụng hình sự (TTHS). Sự khác biệt này xuất phát từ việc cần phải giải quyết hai mâu thuẫn: một bên là các khó khăn trong truy cứu TNHS pháp nhân, bên kia là những đòi hỏi bảo đảm các quyền tố tụng. Tự do và nhân phẩm con người là những giá trị thiêng liêng, bền vững và gắn bó với xã hội dân chủ, nhà nước pháp quyền. Trong TTHS, quyền, tự do của con người là lĩnh vực dễ bị tổn thương hơn cả và cũng có nguy cơ chịu những tổn hại lớn lao nhất. Bởi vậy, bảo vệ quyền của người tham gia tố tụng là nguyên tắc cơ bản của TTHS. Tuy nhiên, không phải bao giờ việc tuân thủ các đòi hỏi về quyền tố tụng cũng đồng nhất với sự dễ dàng trong điều tra, truy tố tội phạm, đặc biệt trong trường hợp của pháp nhân. So với truy cứu trách nhiệm của thể nhân, việc truy cứu trách nhiệm của pháp nhân là phức tạp vì lý do sau: 1 Tham khảo: Florance BOUVARD, “L'écran de la personnalité morale à l'épreuve du droit des procédures collectives”, These, Paris XIII, 2000; L’ecran de la personnalite moralle”, https://www.doc-du-juriste.com/droit-public-et-interna- tional/droit-administratif/dissertation/ecran-personnalite-morale-479034.html 2 TS. Phan Thị Nhật Tài, Trịnh Tuấn Anh, “TNHS của pháp nhân dưới góc độ luật học so sánh”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật , truy cập ngày 22/2/2018. 3 Bài viết chủ yếu dựa trên nguồn tư liệu: Dominik Brodowski, Manuel Espinoza de los Monteros de la Parra, Klaus Tiedemann, Joachim Vogel; “Regulating Corporate Criminal Liability”, Springer International Publishing Switzerland, 2014. Thứ nhất, do tội phạm trong môi trường kinh doanh thường không liên quan đến hành vi đơn lẻ của một người; chúng thường là kết quả của sự kết hợp của nhiều hành động hoặc lỗi lầm thuộc về những người khác nhau. Đây là hệ quả của sự phân chia lao động và sự phân cấp quá trình ra quyết định. Từ đó, việc xác định cá nhân nào có lỗi và chứng minh cá nhân nào chịu trách nhiệm cũng rất khó khăn; Thứ hai, khả năng che giấu hành vi phạm tội của pháp nhân rất lớn: một thành viên làm sai có thể được nhiều thành viên khác “che giấu”, và "luật im lặng", văn hoá ngầm của công ty có thể trở thành rào cản không thể vượt qua được đối với cơ quan nhà nước khi thu thập chứng cứ, điều tra vụ việc; Thứ ba, chứng cứ, tài liệu thuộc về pháp nhân nắm giữ nên rất khó phát hiện và từ đó cản trở việc điều tra hình sự; Thứ tư, các vi phạm của pháp nhân thường diễn ra trong các lĩnh vực phức tạp như chứng khoán, tài chính, đầu tư, thuế v.v.. nên việc điều tra một số vụ án hình sự của công ty tốn kém hàng triệu đô la do sự phức tạp về mặt kỹ thuật và thời gian dài. Giải pháp nào khả dĩ dung hoà cả hai yêu cầu trên? Các quốc gia trên thế giới với hai mô hình tố tụng tiêu biểu: mô hình Mỹ và mô hình của các nước thuộc hệ thống pháp luật châu Âu lục địa (Civil law) đã có những giải pháp khác nhau về vấn đề này3. Sự khác biệt này được lý giải từ những triết lý khác nhau về vai trò của Nhà nước, của cơ quan tư pháp, từ xuất xứ và từ mục tiêu thực dụng hay lý tưởng của pháp luật. KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË 59Số 21(373) T11/2018 2. Mô hình Mỹ: thoả thuận truy tố và việc hạn chế các quyền tố tụng đối với pháp nhân và thành viên của pháp nhân Tại Hoa Kỳ, các công ty có thể bị buộc tội về hình sự đối với những tội phạm do cá nhân giám đốc, giám đốc điều hành và nhân viên cấp thấp thực hiện. Khả năng người đại diện pháp luật có thể bị buộc tội về hình sự đã tồn tại từ hơn 100 năm nay. Nền kinh tế phát triển ở Hoa Kỳ dẫn đến những cuộc điều tra vi phạm của pháp nhân sẽ đặc biệt phức tạp, khó khăn. Nhưng bù lại, các công tố viên Hoa Kỳ, người được hướng dẫn bởi nguyên tắc hợp lý, có thể quyết định trừng phạt hay không đối với hành vi phạm tội của pháp nhân. Các công tố viên Hoa Kỳ sử dụng quyền hạn của họ để bắt buộc các công ty phải hợp tác trong việc xác định, truy tố và kết án người có trách nhiệm cá nhân. Để đổi lại nghĩa vụ hợp tác, các công ty được hưởng sự thương lượng - hoặc là một thỏa thuận hoãn truy tố (DPA), thậm chí cả một thỏa thuận miễn truy tố (NPA), kèm theo một khoản tiền phải nộp4. Các thoả thuận DPA và NPA được thiết kế theo mức độ của sự hợp tác của các công ty và các công tố viên có quyền tự quyết rất lớn trong việc thoả thuận với pháp nhân để miễn, hoãn truy tố - đến mức có thể coi đây là cơ chế mặc cả nhận tội. Nhưng để đổi lại cơ hội miễn/hoãn truy tố này, các công tố viên đặt ra các điều kiện ràng buộc pháp nhân - nhằm đảm bảo pháp nhân bắt buộc phải hợp tác với họ. Các thoả thuận này hữu hiệu đến mức các công ty ở Mỹ hợp tác đầy đủ với cơ quan công tố bằng cách từ bỏ các 4 Ana Marıa Neira Pena, “Corporate Criminal Liability: Tool or Obstacle to Prosecution?”, trong “Regulating Corporate Criminal Liability”, Chủ biên: Dominik Brodowski, Manuel Espinoza de los Monteros de la Parra, Klaus Tiedemann, Joachim Vogel; Springer International Publishing Switzerland, 2014, tr.198. quyền của mình, và không chỉ quyền của họ mà cả quyền của nhân viên của họ. Như vậy, đối mặt với những khó khăn trong truy cứu TNHS của pháp nhân, hệ thống tư pháp Mỹ có giải pháp nhằm hạn chế khá nhiều các quyền của pháp nhân và cá nhân liên quan trong quá trình điều tra vụ việc. Đổi lại, chế độ mặc cả truy tố tạo ra ưu đãi lớn cho pháp nhân trong việc thoả thuận dàn xếp để hoãn hoặc miễn truy cứu TNHS. Sự hạn chế các quyền của nhân viên trong công ty - mà Nhà nước gián tiếp tác động thông qua vai trò của chủ doanh nghiệp - thể hiện như sau: Thứ nhất, nhân viên trong công ty sẽ bị buộc phải hợp tác với cơ quan công tố. Hầu như trong mọi trường hợp điều tra vụ việc của pháp nhân, khi công tố viên yêu cầu thì nhân viên không có quyền im lặng. Việc nhân viên từ chối không hợp tác, không cung cấp chứng cứ sẽ dẫn đến hậu quả là anh ta sẽ bị đuổi việc. Như vậy chủ sử dụng lao động đã thay mặt Nhà nước mà buộc người lao động phải cung cấp bằng chứng trong điều tra. Hậu quả là nhân viên bị đặt trước hai tình huống: hoặc là hợp tác với cơ quan điều tra hoặc là mất việc làm. Trên thực tế, họ không có sự lựa chọn tự do, do các công ty ép buộc họ phải hợp tác. Nhân viên công ty hầu như không được sử dụng quyền im lặng, thậm chí giữ bí mật công việc, nghề nghiệp. Thứ hai, để đổi lại thoả thuận miễn / hoãn truy tố, pháp nhân có thể buộc nhân viên của mình phải cung cấp chứng cứ cho cơ quan điều tra, ngay cả khi những thông tin, chứng cứ là bất lợi cho chính nhân viên KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË 60 Số 21(373) T11/2018 đó. Rõ ràng, trong trường hợp này, quyền của nhân viên đã bị hạn chế: một cá nhân thông thường nếu như biết rằng thông tin họ cung cấp có thể được sử dụng chống lại họ trong quá trình TTHS thì họ có thể từ chối làm chứng hay giữ im lặng để ngăn ngừa nguy cơ bị kết tội. Trên thực tế, việc người sử dụng lao động buộc người lao động phải cung cấp bằng chứng sẽ là được coi là một hành động nhân danh Nhà nước. Sự ép buộc này đối với nhân viên nên được quy cho Nhà nước, người sử dụng lao động có thể được coi là cánh tay điều hành của Chính phủ. Thứ ba, sự hạn chế và từ bỏ quyền bào chữa. Để được coi là hợp tác với Chính phủ, công ty có thể cắt giảm những chi phí liên quan đến luật sư hay người bào chữa cho nhân viên của mình. Quyền được bào chữa, được thuê luật sư hay người bào chữa là quyền cơ bản của các cá nhân ở Hoa Kỳ. Việc từ bỏ các quyền đó phải là hoàn toàn tự nguyện, do cá nhân thực hiện theo ý chí của mình. Tuy nhiên, trong điều tra nội bộ các tội phạm doanh nghiệp, các pháp nhân hầu như từ bỏ đặc quyền thuê luật sư bào chữa. Liên quan đến chi phí luật sư, từ phía các công tố viên thì việc các công ty tạm ứng hay thanh toán phí luật sư cho nhân viên cũng có thể được coi là dấu hiệu của hành vi phi hợp tác. Bởi vậy, trước áp lực của công tố viên, các công ty thường cắt các khoản thanh toán liên quan đến chi phí pháp lý của nhân viên. Năm 1906, Toà án Tối cao Hoa Kỳ đã tuyên rằng, một công ty không được hưởng đặc quyền của Tu chính án lần thứ năm (sửa đổi Hiến pháp lần thứ năm) liên quan đến quyền tự bào chữa vì đây là quyền áp dụng cho cá nhân chứ không phải cho các công 5 Ana Marı´a Neira Pena, “Corporate Criminal Liability: Tool or Obstacle to Prosecution?”, sdd. ty. Đồng thời, Toà án cho phép các công ty kiện Chính phủ về việc tịch thu hồ sơ của công ty (trên cơ sở sửa đổi Tu chính án thứ tư). Để giải thích cách đối xử khác biệt này, Toà án thừa nhận rằng phạm vi của quyền của pháp nhân không rộng rãi như các quyền được công nhận cho các cá nhân. Tại sao ở Mỹ, các công ty lại gây sức ép buộc nhân viên của mình phải hợp tác với cơ quan điều tra? Lý do chính là, ở Mỹ, một bản cáo trạng đồng nghĩa với việc tuyên bố khai tử công ty. Sự hợp tác của pháp nhân chỉ có thể lý giải được từ lợi ích mang đến bởi các thoả thuận hoãn truy tố và thoả thuận không truy tố. Các công ty tìm mọi cách để có thể được miễn hay hoãn truy tố, đến mức tự chấp nhận từ bỏ rất nhiều quyền tố tụng. Bởi vậy, ở đây việc hợp tác không phải là tự nguyện mà thực hiện do sức ép. Thực tế ở Hoa Kỳ cho thấy, hầu như trong mọi trường hợp, điều tra đều kết thúc mà không có một phiên toà chống lại công ty5. Đổi lại cơ hội miễn hoặc hoãn truy tố, công ty phải cam kết tự khắc phục hậu quả vi phạm và phải nộp một khoản tiền phạt khổng lồ. Nhưng ưu điểm lớn của mô hình Mỹ là tránh rủi ro phá sản doanh nghiệp, giữ vững việc làm cho người lao động trong các công ty, tập đoàn, và bởi vậy có lợi cho sự phát triển kinh tế. Hạn chế lớn nhất của mô hình này là công tố viên được trao quyền quá lớn, và hầu như các vi phạm của pháp nhân chỉ nằm trong tầm kiểm soát của công tố viên mà không bị giám sát bởi Toà án. Điều này có thể dẫn đến khả năng lạm dụng quyền lực của công tố viên. Bên cạnh đó, mô hình này cũng không khuyến khích sự phát triển của án lệ và pháp luật. KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË 61Số 21(373) T11/2018 2. Mô hình châu Âu lục địa: nguyên tắc pháp quyền và sự bình đẳng giữa pháp nhân với thể nhân trong quá trình tố tụng Trong truyền thống, các quốc gia Civil Law vốn không thừa nhận việc người đại diện pháp lý của pháp nhân bị truy cứu TNHS. Nhưng hiện tại, các hệ thống trách nhiệm pháp lý của pháp nhân đang lan rộng khắp Châu Âu và một số nước châu Mỹ Latinh. Thủ tục truy cứu TNHS của pháp nhân ở các quốc gia châu Âu lục địa khác biệt với mô hình Mỹ: ở đây không có quyền thoả thuận giữa công tố viên với pháp nhân; công tố viên không được tuỳ nghi quyết định. Cũng như vậy, không có sự khác biệt nhiều giữa pháp nhân và cá nhân trong quy trình tố tụng. Nói cách khác, các quyền, nghĩa vụ tố tụng của pháp nhân về cơ bản giống các quyền, nghĩa vụ tố tụng của cá nhân. Mô hình Châu Âu lục địa áp dụng nguyên tắc hợp pháp trong truy cứu TNHS của pháp nhân. Theo nguyên tắc này, mọi tội phạm phải bị truy tố và bị trừng phạt. Do đó, công tố viên không có quyền đàm phán và quyết định đưa ra các khoản phí cho pháp nhân để đổi lại việc miễn/ hoãn truy tố. Đặc trưng ở một số quốc gia châu Âu lục địa là các quyền tố tụng của pháp nhân là rất rộng, về cơ bản ít khác biệt so với cá nhân. Ví dụ, ở Tây Ban Nha và Đức6: - Mô hình Tây Ban Nha. Theo quy định của pháp luật hình sự Tây Ban Nha, pháp nhân được hưởng các quyền sau: + Quyền không buộc phải nhận mình 6 Các thông tin được tham khảo từ: Ana Marı´a Neira Pena, “Corporate Criminal Liability: Tool or Obstacle to Prosecution?”; Dominik Brodowski, “Minimum Procedural Rights for Corporations in Corporate Criminal Procedure”,trong “Regulating Corporate Criminal Liability”, Chủ biên: Dominik Brodowski, Manuel Espinoza de los Monteros de la Parra, Klaus Tiedemann, Joachim Vogel; Springer International Publishing Switzerland, 2014 có tội. Ở Tây Ban Nha, phạm vi chủ thể của quyền không buộc phải nhận mình có tội đã được mở rộng theo luật sửa đổi gần đây, bao gồm cả thể nhân và pháp nhân. Quyền không buộc phải nhận mình có tội sẽ không cho phép áp dụng một quy tắc về thủ tục tố tụng dân sự cho phép đưa ra những kết luận tiêu cực từ những câu trả lời không rõ ràng hoặc lẩn tránh của bị đơn hoặc người đại diện của pháp nhân trong vụ việc hình sự. + Quyền không buộc phải khai báo. Luật pháp của về TNHS của pháp nhân đã theo xu hướng trao cho pháp nhân quyền tự vệ, chống lại sự buộc tội. Theo quy định của pháp luật hình sự Tây Ban Nha, trong quá trình TTHS, người đại diện của pháp nhân có quyền không buộc phải khai báo. Quy định này dẫn đến trường hợp, một nhân chứng tiềm năng có thể được chỉ định làm người đại diện và do đó được bảo vệ bởi quyền không làm chứng. Để khắc phục hạn chế này, luật TTHS của Tây Ban Nha đặt ra quy định về sự không tương thích giữa nhân chứng và đại diện của công ty (Điều 786 bis 1. II Le Crim). + Quyền bất khả xâm phạm về nơi cư trú. Quyền này dẫn đến sự hạn chế trong điều tra, khám xét văn phòng hoặc trụ sở hoạt động của công ty. + Quyền giữ bí mật nghề nghiệp của luật sư. Trong luật pháp Tây Ban Nha, quyền bảo vệ thông tin cung cấp cho luật sư bào chữa, quyền giữ bí mật nghề nghiệp hoặc bảo mật của luật sư chỉ bảo vệ các nội KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË 62 Số 21(373) T11/2018 dung tư vấn pháp lý liên quan đến việc bào chữa thủ tục tố tụng của các bên, có thể bao gồm cả tư vấn trước khi xét xử hoặc thủ tục ngoài tố tụng. Tuy nhiên, nguyên tắc bảo mật không bảo vệ các thông tin liên quan đến tài chính dịch vụ, dịch vụ đại lý - như tư vấn thuế, kế toán tài chính v.v.. Hệ quả của những quy định này là mang lại sự bảo vệ tốt hơn cho pháp nhân. Pháp nhân có xu hướng từ chối cung cấp các thông tin được bảo mật bởi quy tắc nghề nghiệp để nhằm mục đích tránh việc bị buộc tội. - Mô hình Cộng hoà Liên bang Đức. Hiến pháp (Luật Cơ bản) của Đức không có các quy định trực tiếp liên quan đến các quyền, bảo đảm trong TTHS. Nhưng Toà án Hiến pháp và các học giả Đức thường xuyên dẫn chiếu đến các nguyên tắc cơ bản của pháp luật, trong đó có nguyên tắc “lỗi cá nhân” (nulla poena sine culpa). Tính đặc thù của tội phạm pháp nhân kéo theo các yêu cầu đặc biệt về truy cứu TNHS của công ty, nhưng sự đặc thù đó không bao giờ được biện minh cho việc vi phạm các quyền tố tụng. Một công ty không giống như một cá nhân, nhưng những cá nhân có hành vi vi phạm trong một công ty phải có các quyền tố tụng như những cá nhân bất kỳ khác. Theo các nhà nghiên cứu, dù Hiến pháp Đức không quy định nhưng về phía các nhà lập pháp hoàn toàn có những khả năng để tự do cấp cho các pháp nhân một tiêu chuẩn bảo vệ cao hơn hơn là những gì quy định trong Hiến pháp7. Việc dành cho pháp nhân các quyền tố tụng ở mức độ bảo vệ cao hơn là sự lựa chọn được thực hiện bởi 7 Dominik Brodowski, Minimum Procedural Rights for Corporations in Corporate Criminal Procedure, tr. 219. 8 Dominik Brodowski, Minimum Procedural Rights for Corporations in Corporate Criminal Procedure, tr. 218-220. các lý do sau: Thứ nhất, việc trừng phạt pháp nhân gây ra các phản ứng phụ nghiêm trọng đối với người vô tội trong công ty. Tuy nhiên, một mối nguy hiểm khác biệt nằm ở sự xói mòn các tiêu chuẩn chung trong hệ thống công lý hình sự: sự khác biệt ở mức độ bảo vệ sẽ đòi hỏi lý giải về sự bất bình đẳng này; hoặc bất kỳ sự khác biệt nào liên quan đến TTHS đối với pháp nhân có thể tạo ra quy tắc và áp lực thực tế để hạ thấp các tiêu chuẩn khác trong thủ tục tố tụng đối với thể nhân. Thứ hai, TNHS của pháp nhân có thể gây ra các hậu quả khá nghiêm trọng. Nếu tất cả tài sản của một người đang bị đóng băng hoặc nếu tất cả các cơ hội việc làm của anh ta đã biến mất, điều này có thể gây ra nhiều thiệt hại hơn cả việc phải đóng một khoản tiền phạt. Do đó, TNHS của pháp nhân - chủ yếu liên quan đến tài sản và tự do nghề nghiệp, sẽ có nhiều khả năng gây ra "sự cố tràn dầu" và do đó, cần được có những bảo vệ thủ tục tốt cho thể nhân. Thứ ba, đó là lý do đảm bảo tính chuẩn xác của công lý hình sự. Hầu hết các nền văn hoá trên thế giới đều đề cao các quyết định hình sự, tính chính xác và tính toàn vẹn về đạo lý, so với các loại hình quyết định pháp luật khác. Hệ thống tư pháp hình sự phải đáp ứng được những mong đợi này. Và đảm bảo thủ tục rộng rãi là chìa khóa nền tảng để cung cấp nền tảng công lý, từ đó có thể có phán quyết hình sự với chất lượng và tính xác thực cao8. KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË 63Số 21(373) T11/2018 3. Những gợi mở đối với Việt Nam Ở Việt Nam, lần đầu tiên, Bộ luật TTHS năm 2015 đã đưa quy định về thủ tục truy cứu TNHS pháp nhân (Chương XXIX). Theo quy định của Điều 431, “Thủ tục tố tụng đối với pháp nhân bị tố giác, báo tin về tội phạm, kiến nghị khởi tố, bị điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án được tiến hành theo quy định của Chương này, đồng thời theo những quy định khác của Bộ luật này không trái với quy định của Chương này”. Tuy nhiên, Chương XXIX không tồn tại quy định nào thể hiện sự khác biệt giữa cá nhân và pháp nhân trong thực hiện các quyền, nghĩa vụ tố tụng. Từ đó có thể suy luận rằng, các quyền, bảo đảm và nghĩa vụ của pháp nhân hay thành viên của pháp nhân trong tố tụng được áp dụng ngang bằng như đối với thể nhân. Như vậy, chỉ trên bình diện pháp luật, có thể khẳng định rằng, việc quy định quyền, nghĩa vụ tố tụng của pháp nhân trong TTHS ở Việt Nam nghiêng về xu hướng của các quốc gia châu Âu lục địa - nghĩa là không có sự phân biệt nhiều giữa pháp nhân với thể nhân. Cơ chế thoả thuận truy tố hoàn toàn không hiện diện - do sự đòi hỏi của nguyên tắc pháp chế, nguyên tắc bình đẳng và trách nhiệm của Nhà nước trong đấu tranh phòng, chống tội phạm. Mô hình Việt Nam phù hợp với mục tiêu lý tưởng về vai trò của Nhà nước trong bảo đảm tính thống nhất của pháp luật, bảo đảm trật tự xã hội. Tuy nhiên, do không phân biệt giữa pháp nhân và thể nhân nên một cơ chế tố tụng chung được áp dụng đồng đều chắc chắn sẽ gây nên những khó khăn trong điều tra, khởi tố vụ án đối với pháp nhân - bởi những khó khăn đặc thù của quy trình tố tụng đối với pháp nhân chưa được xử lý. Cơ quan điều tra, công tố sẽ phải đương đầu với áp lực khó cân bằng - giữa một bên là đòi hỏi về sự tôn trọng bảo đảm các quyền của pháp nhân (không phân biệt với thể nhân); nguyên tắc tuân thủ pháp luật trong điều tra - và một bên là mục tiêu đấu tranh phòng chống tội phạm nghiêm minh, triệt để, kịp thời. Rõ ràng việc phân biệt những đặc thù của pháp nhân trong TTHS là quan trọng để thiết kế nên quy trình tố tụng phù hợp cho pháp nhân. Khi không tạo nên các quy trình riêng thì chắc chắc, việc điều tra, truy tố pháp nhân sẽ khó hơn nhiều so với thể nhân. Đổi lại, cơ quan tố tụng - thậm chí cơ quan hành chính - có thể được tăng cường những quyền can thiệp nhất định. Cũng có thể dự liệu về những thủ tục hành chính phát sinh đối với pháp nhân như đòi hỏi báo cáo định kỳ, nghĩa vụ công khai hồ sơ trong một số trường hợp hay lĩnh vực nhất định. Trước mắt, điều này có thể khắc phục được phần nào những khó khăn trong tố tụng, nhưng lại tăng gánh nặng thủ tục, giảm năng lực cạnh tranh trong kinh tế, và xét trên lý thuyết, thậm chí có thể gây tổn hại ít nhiều đến nguyên tắc pháp quyền. Tuy nhiên, cũng có thể thấy rằng, việc lựa chọn hướng đi nào sẽ hoàn toàn dựa trên các cân nhắc về chính trị và kinh tế, các nhà lập pháp sẽ phải lựa chọn giữa ưu tiên phát triển kinh tế hay duy trì sự công bằng, bình đẳng trong xã hội. Nhưng trong mọi trường hợp, sự lựa chọn phải dựa trên bối cảnh thực tiễn của quốc gia, trong đó nền tảng là hệ thống tư pháp và chế độ pháp quyền■ KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË 64 Số 21(373) T11/2018

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfthu_tuc_truy_cuu_trach_nhiem_hinh_su_doi_voi_phap_nhan_o_mot.pdf
Tài liệu liên quan