Quyết định tạm đình chỉ vụ án
Trong giai đoạn truy tố, Viện kiểm sát
ra Quyết định tạm đình chỉ vụ án khi có căn
cứ quy định tại Điều 247 BLTTHS năm 2015,
theo đó: Khi có kết luận giám định tư pháp
xác định bị can bị bệnh tâm thần hoặc bệnh
hiểm nghèo (có chứng nhận của Hội đồng
giám định pháp y) thì có thể tạm đình chỉ vụ
án trước khi hết thời hạn quyết định việc truy
tố; Khi bị can bỏ trốn mà không biết rõ bị can
đang ở đâu nhưng đã hết thời hạn truy tố,
trường hợp này phải yêu cầu CQĐT truy nã
bị can trước khi tạm đình chỉ vụ án; Khi trưng
cầu giám định, yêu cầu định giá tài sản, yêu
cầu nước ngoài tương trợ tư pháp mà chưa
có kết quả nhưng đã hết thời hạn quyết định
việc truy tố, trường hợp này thì việc giám
định, định giá tài sản, tương trợ tư pháp tiếp
tục tiến hành cho đến khi có kết quả.
Đối với các vụ án MBN, việc tạm đình
chỉ vụ án thường do Viện kiểm sát ra Quyết
định truy tố bị can nhưng chưa giao Bản cáo
trạng cho bị can mà bị can bỏ trốn, Viện kiểm
sát yêu cầu cơ quan điều tra truy nã bị can
tuy nhiên hết thời hạn truy tố mà việc truy nã
vẫn không có kết quả; hoặc vụ án đã yêu cầu
định giá tài sản, tương trợ tư pháp nhưng
chưa có sự thống nhất trong việc định giá tài
sản, chưa có sự phản hồi trong việc tương
trợ tư pháp mà đã hết thời hạn truy tố thì
quyết định tạm đình chỉ vụ án phải ghi rõ
lý do, căn cứ tạm đình chỉ vụ án cũng như
các vấn đề khác có liên quan, theo đúng biểu
mẫu hình sự của Viện Kiểm sát nhân dân tối
cao ban hành. Trường hợp vụ án có nhiều bị
can mà căn cứ để tạm đình chỉ vụ án không
liên quan đến tất cả bị can thì tạm đình chỉ
vụ án đối với từng bị can. Trong thời hạn
03 ngày kể từ ngày ra Quyết định, Kiểm sát
viên phải thông báo cho bị can và người bào
chữa biết, giao Quyết định cho bị can và lập
biên bản giao nhận, đưa vào hồ sơ vụ án và
sao lưu một bản vào hồ sơ kiểm sát.
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 21/01/2022 | Lượt xem: 383 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Thực hành quyền công tố và kiểm sát trong giai đoạn truy tố các vụ án về mua bán người, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
84 Khoa học Kiểm sát Số chuyên đề 2 - 2020
THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VÀ KIỂM SÁT...
TRONG GIAI ĐOẠN TRUY TỐ CÁC VỤ ÁN VỀ MUA BÁN NGƯỜI
NGUYỄN ĐỨC HẠNH*
Cũng giống như các vụ án hình sự khác, sau khi Cơ quan điều tra (CQĐT) kết luận
điều tra, chuyển hồ sơ đến Viện kiểm sát (VKS) đề nghị truy tố và Viện kiểm sát thụ
lý thì giai đoạn điều tra kết thúc, đồng thời mở ra giai đoạn tố tụng mới là giai đoạn
truy tố. Cho đến khi Viện kiểm sát ban hành, tống đạt cáo trạng và chuyển hồ sơ vụ án
đến Tòa án và được Tòa án thụ lý thì giai đoạn truy tố kết thúc. Trong giai đoạn truy
tố, Viện kiểm sát là cơ quan tiến hành tố tụng duy nhất gồm có các chủ thể tiến hành
tố tụng như Viện trưởng, Phó Viện trưởng, Kiểm sát viên (KSV) và Kiểm tra viên. Tuy
nhiên, đối với các vụ án mua bán người (MBN), bao gồm các vụ án mua bán người theo
quy định của Điều 150 và mua bán người dưới 16 tuổi theo quy định của Điều 151 Bộ
luật hình sự (BLHS) năm 2015, bên cạnh những yêu cầu cơ bản đối với hoạt động truy
tố, còn có những nét đặc thù mà các chủ thể tiến hành tố tụng cần chú ý.
Từ khóa: Thực hành quyền công tố, truy tố, mua bán người.
Ngày nhận bài: 20/7/2020; Ngày biên tập xong: 23/7/2020; Ngày duyệt đăng:
23/7/2020.
Similar to other criminal cases, after Investigation Agency concludes
investigations, hand over the criminal profile to the Procuracy to propose prosecuting,
the Procuracy accepts them, the investigation period shall end. Concurrently, it opens
a new proceeding stage called prosecution period. The Procuracy issues, serves the
indictment and transfers the criminal profile to the Court. It is accepted by the Court
then the prosecution period shall end. The Procuracy is the only procedure agency
in prosecution period including subjects conducting legal proceedings namely the
Director, Deputy Director, Prosecutor and Prosecutor assistant. However, in human
trafficking cases prescribed in Article 150 and trafficking in persons under 16 years old
person cases in Article 151 of the 2015 Penal Code, besides foundamental requirements
in prosecuting, agencies conducting legal proceedings need to pay attention to some
other features.
Keywords: Exercing prosecution rights, prosecution, human trafficking.
1. Tiếp nhận hồ sơ vụ án
Khi tiếp nhận hồ sơ vụ án MBN, việc
đầu tiên KSV phải chú ý là xác định thẩm
quyền truy tố có thuộc VKS cấp mình hay
không. Theo đó, thẩm quyền truy tố của
VKS được xác định theo thẩm quyền xét
xử của Tòa án. Căn cứ Điều 268 Bộ luật tố
tụng hình sự (BLTTHS) năm 2015 về thẩm
quyền xét xử của Tòa án; căn cứ khung hình
phạt của các tội Mua bán người và Mua bán
người dưới 16 tuổi tại Điều 150, 151 BLHS
năm 2015 và căn cứ Điều 9 BLHS năm 2015
về phân loại tội phạm, Tòa án nhân dân cấp
huyện có thẩm quyền xét xử đối với các vụ
án Mua bán người tại Khoản 1 và Khoản 2
Điều 150, các vụ án Mua bán người dưới 16
tuổi tại Khoản 1 Điều 151. Tòa án nhân dân
cấp tỉnh có thẩm quyền xét xử đối với các
vụ án Mua bán người tại Khoản 3 Đều 150,
các vụ án Mua bán người dưới 16 tuổi tại
Khoản 2, Khoản 3 Điều 151.1
Đối với các vụ án MBN có yếu tố nước
* Tiến sĩ, Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Kiểm
sát Hà Nội.
85Số chuyên đề 2 - 2020 Khoa học Kiểm sát
NGUYỄN ĐỨC HẠNH
ngoài, cụ thể là tội phạm được thực hiện ở
nước ngoài, bị cáo, bị hại, đương sự ở nước
ngoài hoặc có tài sản liên quan đến vụ án
ở nước ngoài, thẩm quyền xét xử thuộc về
Tòa án nhân dân cấp tỉnh.
Từ thẩm quyền xét xử của Tòa án như
trên, thẩm quyền truy tố của Viện kiểm sát
cũng sẽ được xác định tương ứng. Bên cạnh
thẩm quyền truy tố, thời hạn truy tố cũng
là một trong những điểm mới của BLTTHS
năm 2015 quy định tại Điều 240.
Khi nhận hồ sơ vụ án và bản kết luận
điều tra đề nghị truy tố kèm theo vật chứng
do CQĐT chuyển đến, KSV (hoặc cán bộ
thụ lý) phải kiểm tra từng trang tài liệu, so
sánh đối chiếu với bản kê tài liệu xem có
đầy đủ, phù hợp không. Cần lưu ý các loại
tài liệu: biên bản bắt người phạm tội quả
tang, biên bản thu giữ vật chứng (trong
đó có vật chứng là công cụ, phương tiện
dùng để phạm tội đã được sử dụng để
tác động vào thể chất, tinh thần bị hại như
gây thương tích, tổn hại sức khỏe, rối loại
tinh thần, dùng để lấy bộ phận cơ thể, xâm
hại hoặc bóc lột tình dục, cưỡng bức lao
động). Đặc biệt chú ý tới bản ảnh chụp
hiện trường, tử thi, thương tích (nếu có), tài
liệu về giám định, giấy tờ tùy thân của bị
hại, các tài liệu về xuất, nhập cảnh hoặc tài
liệu khác thể hiện sự gian dối của bị can đối
với bị hại...
Người nhận hồ sơ cần kiểm tra nội
dung ở các trang tài liệu có bị sửa chữa,
thêm, bớt, tẩy xóa không. Nếu có thì yêu
cầu người giao hồ sơ giải thích và ghi rõ vào
biên bản giao, nhận, có xác nhận bằng chữ
ký của người giao để làm căn cứ xác định
trách nhiệm giữa các bên.
Người nhận hồ sơ phải kiểm tra vật
chứng (nếu có) của vụ án. Trong các vụ án
về MBN, có thể có nhiều loại vật chứng khác
như phương tiện chuyên chở bị hại, điện
thoại di động, tư trang của bị hại, tiền, séc,
chứng minh nhân dân, giấy phép lái xe
Khi đó, phải so sánh thông tin, đặc điểm
vật chứng với ghi chép trong tài liệu, tránh
trường hợp vật chứng được giao khác với
vật chứng ghi nhận trong hồ sơ. Đặc biệt
chú ý đến vật chứng là tài sản có giá trị để
xem xét đề xuất việc bồi thường cho các bị
hại sau này.
KSV hoặc cán bộ thụ lý cần kiểm tra
xem bị can có đang áp dụng biện pháp ngăn
chặn nào không, thời hạn áp dụng còn hay
hết, bản kết luận điều tra đã được giao cho
bị can hay chưa. Trong trường hợp các tài
liệu có trong hồ sơ vụ án, vật chứng chưa
đủ, bản kết luận điều tra chưa được giao
cho bị can, người bào chữa (nếu có); các tài
liệu có dấu hiệu tẩy, xóa, thêm, bớt nhưng
người giao hồ sơ không xác nhận; thời hạn
áp dụng biện pháp ngăn chặn hết trước khi
chuyển hồ sơ, nhưng không có văn bản nào
thể hiện bị can được tại ngoại thì KSV
hoặc cán bộ thụ lý chưa nhận hồ sơ vụ án
cũng như yêu cầu CQĐT bổ sung. Nếu các
tài liệu có trong hồ sơ vụ án, vật chứng đủ
so với bản kê tài liệu, bản kết luận điều tra
đã được giao cho người có liên quan thì ký
nhận và vào sổ thụ lý hồ sơ vụ án và báo
cáo ngay với cấp trên. Việc giao nhận hồ
sơ giữa người giao hồ sơ với KSV phải lập
thành biên bản theo quy định.
Về thủ tục tố tụng trong giai đoạn truy
tố, KSV chú ý thời hạn quyết định việc truy
tố là 30 ngày đối với vụ án MBN tại Điều
150 và MBN dưới 16 tuổi tại Điều 151. Viện
trưởng Viện kiểm sát có thể gia hạn thời hạn
quyết định việc truy tố không quá 15 ngày
đối với vụ án MBN tại Khoản 1, Khoản 2
Điều 150 và MBN dưới 16 tuổi tại Khoản 1
Điều 151; hoặc gia hạn không quá 30 ngày
đối với vụ án MBN tại Khoản 3 Điều 150 và
MBN dưới 16 tuổi tại Khoản 2, 3 Điều 151.
Quyết định việc truy tố cũng phải được gửi
cho Viện kiểm sát cấp trên để báo cáo.
Sau khi ra một trong các quyết định
tại Điều 240 BLTTHS, KSV cần lưu ý việc
thông báo hoặc giao quyết định cho bị can,
người bào chữa hoặc người đại diện của bị
can, bị hại, đương sự, người bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của họ trong thời hạn
3 ngày (hoặc tối đa 10 ngày đối với vụ án
phức tạp). Việc giao nhận quyết định phải
86 Khoa học Kiểm sát Số chuyên đề 2 - 2020
THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VÀ KIỂM SÁT...
được lập biên bản và đưa vào hồ sơ vụ án
theo Điều 133 BLTTHS năm 2015.
2. Nghiên cứu hồ sơ vụ án
Nghiên cứu hồ sơ vụ án trong giai đoạn
truy tố nhằm giúp KSV đưa ra những đề xuất
với Lãnh đạo Viện để ra quyết định truy tố
bị can trước Tòa án hay không. KSV kiểm tra
lại thủ tục tố tụng của vụ án nhằm phát hiện
những sai sót, vi phạm, mâu thuẫn trong lời
khai, mâu thuẫn trong tài liệu buộc tội và gỡ
tội để có biện pháp khắc phục.
Một số lỗi thường gặp liên quan đến
hình thức của các lệnh, quyết định, biên bản
do CQĐT lập như: người lập biên bản chưa
ký hoặc không có thẩm quyền ký; Điều tra
viên (ĐTV) không ký vào biên bản lấy lời
khai; các bản tự khai không có xác nhận của
ĐTV, Cán bộ điều tra tiến hành hỏi cung bị
can; ngày giờ lệnh tạm giam, quyết định gia
hạn tạm giữ không đúng; giờ, ngày tháng
lập biên bản không phù hợp với giờ kết
thúc; nhiều biên bản do một ĐTV tiến hành
được ghi cùng một giờ; biên bản hỏi cung,
lấy lời khai có những chỗ trống hoặc tẩy
xoá, thiếu chữ ký...
KSV nghiên cứu bản kết luận điều tra
đề nghị truy tố của CQĐT xem nội dung
bản kết luận điều tra có phản ánh đúng hồ
sơ hay không, đồng thời phát hiện những
vi phạm của CQĐT. Trong kết luận điều
tra phải thể hiện: Hành vi tiếp nhận hoặc
chuyển giao được thực hiện như thế nào;
mục đích của đối tượng phạm tội đã rõ
chưa; thủ đoạn cụ thể mà tội phạm được
thực hiện ra sao; không gian, thời gian, địa
điểm; người thực hiện hành vi, đối tượng
bị xâm hại; vấn đề xử lý vật chứng... Trong
các vụ án về MBN, có thể có nhiều tội phạm
khác phái sinh đi kèm như tội phạm rửa
tiền, tham nhũng, cố ý gây thương tích hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe người khác, giết
người, cưỡng dâm, hiếp dâm, KSV cần
lưu ý các tội phạm này đã được xem xét để
xử lý một cách đầy đủ hay chưa.
Đối với những vụ án phức tạp, KSV
phải đọc kĩ từng tài liệu, trích cứu nội dung
đầy đủ, ngắn gọn. Qua việc đọc, nghiên
cứu và trích cứu tài liệu, KSV phải xác định
được các hành vi và các lần phạm tội, số
lượng người bị mua bán. Trong đó, chú
ý nhiều trường hợp mục đích phạm tội
thường xuất phát từ lợi ích vật chất, có thể
vận chuyển thuê để lấy tiền, mua bán nhằm
vụ lợi nhưng núp dưới vỏ bọc tinh vi của
việc môi giới hôn nhân, xuất khẩu lao động,
hiến tạng, nhận nuôi con nuôi
Việc thu giữ, xử lý vật chứng, cần xác
định có những vật chứng nào được thu giữ,
có những vật chứng loại nào đã được CQĐT
kê biên, trả lại hay giao cho cơ quan chuyên
môn quản lý? Việc thu giữ, kê biên, xử lý
của CQĐT có đúng quy định của pháp luật
hay không? Cần chú ý đến cách thức xử lý
vật chứng có giá trị lớn hoặc tài sản của bị
can do thu lời bất chính mà có, tài sản khác
có khả năng bảo đảm nghĩa vụ bồi thường
của bị can sau này đã được kê biên chưa, tài
khoản đã được phong tỏa chưa.
3. Phúc cung bị can
Trong các vụ án MBN, phúc cung bị
can là một trong những biện pháp củng cố
chứng cứ quan trọng và thường được áp
dụng. Trước khi thực hiện việc phúc cung
bị can, KSV cần nghiên cứu kĩ hồ sơ, nghiên
cứu lí lịch bị can, nghiên cứu các biên bản
hỏi cung bị can mà CQĐT đã lập trong giai
đoạn điều tra. Nghiên cứu nhân thân của
từng bị can cũng sẽ là cơ sở để xây dựng kế
hoạch phúc cung bị can và nắm bắt tâm lý
để đấu tranh với bị can khi tiến hành phúc
cung, đảm bảo để không có việc phản cung
tại Tòa khi xét xử.
Khi nghiên cứu nhân thân của bị can,
cần so sánh giữa các tài liệu: Lý lịch bị can,
trích lục tiền án, tiền sự, bản án, lời khai của
bị can. Đối với tiền án, tiền sự, cần xác định
bị can trước đây đã phạm tội lần nào chưa,
thuộc loại tội phạm nào, xóa án tích hay
chưa? Trong các vụ án về MBN, có bị can
vừa mới bị Tòa án xét xử về hành vi mua
bán MBN; nhưng chỉ trong khoảng thời
gian ngắn sau đó lại tiếp tục thực hiện hành
vi này. Như vậy, rõ ràng bị can đã nhận thức
được hành vi của mình là nguy hiểm cho xã
87Số chuyên đề 2 - 2020 Khoa học Kiểm sát
NGUYỄN ĐỨC HẠNH
hội và vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố tình
thực hiện.
Quá trình hỏi cung bị can cần chú ý
đến đặc điểm tâm lý của bị can để có biện
pháp đấu tranh hiệu quả.
Có nhiều trường hợp, để thực hiện được
việc MBN, các đối tượng phải di chuyển qua
nhiều tỉnh, nhập cảnh và ở lại nước ngoài
trái phép. Bên cạnh đó, đối tượng phạm tội
thường là người được thuê vận chuyển nạn
nhân nên khi tiến hành phúc cung có thể làm
rõ hơn ý thức chủ quan của những người
vận chuyển thuê thông qua lời khai của bị
can để phát hiện đồng phạm.
Đối với các vụ án MBN có nhiều đối
tượng có liên quan nhưng không xác định
được lai lịch, cần kiểm tra lại một lần nữa
các tài liệu về quá trình xác minh xem đã
đầy đủ chưa, có cần thiết phải áp dụng biện
pháp xác minh nào nữa không. Quá trình
phúc cung bị can cũng là cơ hội để xác định
lại một lần nữa các thông tin về các đối
tượng liên quan này.
Trong giai đoạn truy tố, KSV không chỉ
phúc cung bị can trong một số trường hợp
mà còn phải chú ý triệu tập để lấy lời khai
lại đối với bị hại, người làm chứng để xác
định sự phù hợp giữa các chứng cứ từ các
nguồn khác nhau trước khi truy tố. Trường
hợp có mâu thuẫn giữa các lời khai này, có
thể tiến hành đối chất để làm rõ.
4. Trưng cầu giám định, trưng cầu định
giá tài sản
Trong nhiều vụ án MBN, hoạt động
giám định rất quan trọng. Thông qua hoạt
động giám định, có thể xác định được tỷ lệ
thương tích, tổn hại sức khỏe, rối loạn tâm
thần của nạn nhân. Bên cạnh đó, đối với
những vật, tài sản có giá trị mà bị can vụ lợi
thì cũng cần định giá để làm căn cứ để xử
lý. Cùng với đó, việc trưng cầu định giá tài
sản phải theo đúng quy định của BLTTHS
năm 2015.
5. Kiểm tra, đánh giá chứng cứ trong
các vụ án mua bán người
Thực tiễn giải quyết các vụ án MBN ở
Việt Nam cho thấy, hoạt động truy tố chủ yếu
dựa trên các chứng cứ là lời khai của người
bị hại và nhân chứng, những chứng cứ vật
chất thu được còn hạn chế. Trong bối cảnh
BLHS năm 2015 đã bổ sung và thừa nhận
hình thức MBN nhằm cưỡng bức lao động,
việc thu thập chứng cứ trong những vụ án
MBN sẽ trở nên khó khăn hơn bởi đặc trưng
của quan hệ lao động trong xã hội hiện đại
thường gắn liền với các định chế tài chính và
có xu hướng tinh vi, phức tạp hơn hành vi
MBN vì những mục đích khác. Vì vậy, phải
chú ý chứng minh hành vi MBN không chỉ
dựa trên lời khai của người bị hại.
Đánh giá chứng cứ trong các vụ án
mua bán người trong giai đoạn truy tố
là rất quan trọng trước khi ban hành cáo
trạng. Đây là hoạt động tư duy của KSV
trong việc xác định giá trị của các chứng cứ
đã thu thập được trong hồ sơ vụ án mua
bán người để sử dụng trong quá trình giải
quyết vụ án, trong đó xác định được chứng
cứ nào có giá trị hơn, chứng cứ nào có giá trị
buộc tội, gỡ tội...
Trên cơ sở phân tích hành vi của tội
phạm MBN, KSV nên chú ý xác định và
đánh giá chứng cứ đối với 03 giai đoạn
thực hiện tội phạm: giai đoạn tuyển mộ,
giai đoạn vận chuyển và giai đoạn bóc lột.
Mỗi giai đoạn thực hiện hành vi phạm tội
này đều để lại những chứng cứ nhất định,
điều này đòi hỏi KSV phải có những đánh
giá phù hợp như:
- Khi tuyển mộ, đa số các đối tượng
thường đến các bản làng, nơi điều kiện kinh
tế và việc làm khó khăn, thu nhập thấp để
dụ dỗ, rủ rê, tiếp cận những phụ nữ có hoàn
cảnh éo le, tình duyên trắc trở, hôn nhân đổ
vỡ, những em gái mới lớn để lừa gạt... hoặc
đến các khách sạn, vũ trường để dụ dỗ, lừa
gạt gái mại dâm; Lợi dụng môi giới kết hôn
hoặc thành lập công ty môi giới kết hôn,
xuất khẩu lao động trá hình; Lợi dụng chính
sách cho và nhận con nuôi của Nhà nước để
đưa trẻ em ra nước ngoài khai thác, bóc lột
dưới các hình thức khác nhau; Chủ động
làm quen, nhận kết nghĩa anh em, bố con,
88 Khoa học Kiểm sát Số chuyên đề 2 - 2020
THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VÀ KIỂM SÁT...
mẹ con hoặc giả vờ yêu để bán; Lợi dụng
các dịch vụ mạng internet để làm quen với
các em gái mới lớn giả vờ yêu để “cứu nét”
rồi thực hiện mua bán hay đến các vườn
hoa, công viên, để tìm kiếm các em nhỏ lang
thang, bụi đời dụ dỗ, bắt cóc mang đi bán...
Hành vi tuyển mộ thường được thực hiện
dưới hình thức tuyển mộ công khai (quảng
cáo trên phương tiện truyền thông, các đối
tượng “cò” môi giới xuất khẩu lao động, tờ
rơi, văn bản của cơ quan, tổ chức, hợp đồng
thuê địa điểm... ) hoặc tuyển mộ bí mật (lấy
lòng tin của nạn nhân và tiến hành việc lừa
đảo...). Do đó, trong quá trình giải quyết vụ
án hình sự, để xác định hành vi tuyển mộ,
KSV phải đánh giá được các chứng cứ thể
hiện rõ nét các hành vi thông qua lời khai
của bị hại, những giấy tờ khác thể hiện như
giấy tờ cho và nhận con nuôi, đơn xin kết
hôn, giấy đăng ký kết hôn với người nước
ngoài, giấy tờ liên quan khác như chứng
minh nhân dân, hộ chiếu, giấy thông hành
qua biên giới, giấy xin đăng ký tạm trú
- Khi vận chuyển, các đối tượng phạm
tội thường phải sử dụng các phương tiện
vận chuyển như ô tô, tàu hoả, máy bay...
Tuy nhiên, để tránh phát hiện, các đối tượng
có thể sử dụng các hành vi như: Lừa nạn
nhân đến nơi sẽ làm việc; cho uống thuốc
ngủ, thuốc mê; cho vào xe bịt kín, thậm chí
còn cho vào cả công-ten-nơ để vận chuyển...
hoặc cho nạn nhân đi bằng con đường hợp
pháp khi qua biên giới như xuất khẩu lao
động, tham quan, du lịch...
Có thể thấy, chứng cứ thể hiện rõ nhất
việc vận chuyển mà những người có thẩm
quyền tiến hành tố tụng cần phải thu thập
và đánh giá chính là các giấy tờ được các đối
tượng phạm tội sử dụng để di chuyển như:
hộ chiếu hoặc chứng minh thư nhân dân,
tài liệu thị thực, thẻ hạ cánh hoặc xuất cảnh,
giấy tờ đi lại, thẻ lên tàu bay, vé tàu, xe, hợp
đồng thuê xe... Bên cạnh đó, cũng cần lưu
ý đối với những tài liệu thể hiện hướng di
chuyển của đối tượng và nạn nhân như:
khu vực nhà ga, xe ôm, taxi, chủ khách sạn
phòng trọ... Những chứng cứ này có thể
thu thập qua lời khai của quần chúng nhân
dân, lời khai của nạn nhân hoặc qua nhận
dạng của quần chúng nhân dân, qua hình
ảnh camera an ninh tại các sân bay, nhà ga,
bến xe, trạm xăng, camera hành trình của
các phương tiện trên tuyến đường...
- Để chứng minh hành vi bóc lột với
các nội dung nạn nhân là phụ nữ bị bán vào
các ổ mại dâm để bóc lột tình dục, một số
nạn nhân bị bán để làm vợ cho những người
nghèo, thậm chí làm vợ chung cho cả gia
đình, một số khác bị bán vào cơ sở sản xuất
để bóc lột sức lao động, một số khác làm con
nuôi, một số bị lấy các bộ phận trong cơ thể
để bán..., cần các chứng cứ là các giấy tờ liên
quan đến việc mua bán, thuê hoặc cho thuê
của cơ sở được sử dụng để bóc lột nạn nhân
như nhà máy, nhà hàng, mạng lưới các toà
nhà, mỏ khai khoáng, ổ mại dâm, đơn vị
bệnh viện tư nhân, phòng thí nghiệm... Bên
cạnh đó, cũng có các tài liệu như các hợp
đồng, phương thức thanh toán, các loại máy
móc nông nghiệp, tàu thuyền đánh cá, máy
móc thiết bị bóc lột mỏ, thiết bị thí nghiệm,
máy cắt vải, máy may, dược phẩm, máy tính
để bàn, máy tính xách tay...; hay chứng cứ
thể hiện điều kiện nơi nạn nhân sống hoặc
bị bọc lột như: điện, khí đốt, nước, các hợp
đồng, phương thức thanh toán...
6. Xây dựng dự thảo Cáo trạng (Quyết
định truy tố), Luận tội
Hình thức và nội dung Cáo trạng phải
thực hiện theo hướng dẫn viết Cáo trạng số
107, ban hành kèm theo Quyết định số 07
ngày 02/01/2008 của Viện trưởng Viện kiểm
sát nhân dân tối cao, đồng thời cũng cần đáp
ứng được yêu cầu của Điều 243 BLTTHS
năm 2015 như: Phải “ghi rõ diễn biến hành vi
phạm tội”, “những chứng cứ xác định hành
vi phạm tội của bị can”, “tính chất, mức độ
thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra”, “việc áp
dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn,
biện pháp cưỡng chế”, “đặc điểm nhân thân
của bị can”, “việc thu giữ, tạm giữ tài liệu, đồ
vật và việc xử lý vật chứng”, “nguyên nhân
và điều kiện dẫn đến hành vi phạm tội”.
Thông thường, bố cục của bản Cáo
89Số chuyên đề 2 - 2020 Khoa học Kiểm sát
NGUYỄN ĐỨC HẠNH
trạng gồm có 4 phần: Phần nêu căn cứ pháp
lý xác định việc truy tố của Viện kiểm sát;
Phần mô tả hành vi phạm tội của bị can (các
bị can); Phần kết luận; Phần quyết định. Đối
với Cáo trạng các tội phạm liên quan đến
MBN, cần lưu ý một số vấn đề, cụ thể:
- Phần mô tả hành vi phạm tội cần chú
trọng những vấn đề:
Về động cơ, mục đích phạm tội: đây là
vấn đề thuộc mặt chủ quan trong cấu thành
tội phạm. Trong thực tiễn, người thực hiện
hành vi phạm tội trong quá trình bị khởi
tố, điều tra thường có tâm lý che giấu động
cơ, mục đích phạm tội của mình, vì vậy
KSV cần phải đánh giá, phân tích hành vi
khách quan để từ đó chứng minh ý thức
chủ quan của người phạm tội. Động cơ,
mục đích phạm tội còn là tình tiết định tội,
định khung tăng nặng trong một số loại tội.
Cần ghi rõ người phạm tội thực hiện hành
vi nuôi, nhốt nhằm mục đích mua bán; thực
hiện hành vi vận chuyển, mua bán để kiếm
lời hay vì mục đích khác
Diễn biến hành vi phạm tội của bị can
cần phải được mô tả chính xác, đầy đủ, dễ
hiểu, không kể lể lan man, không phân tích
quá sâu các hành vi cụ thể.
Nếu vụ án có đồng phạm thì phải
chứng minh vai trò của từng người đồng
phạm; tính chất, mức độ thực hiện hành
vi phạm tội của từng người đồng phạm
để cá thể hóa trách nhiệm hình sự đối với
người đó. Trong vụ án liên quan đến hành
vi MBN, có thể có đối tượng rủ rê, lôi kéo
người quen, bạn bè cùng thực hiện hành
vi phạm tội. Có những bị can không nhận
thức được hành vi của mình là phạm tội mà
chỉ nghe theo lời người khác mà thực hiện.
Vì vậy, cần xác định rõ hành vi của từng đối
tượng để có cơ sở xử lý.
Đối với những vụ án đơn giản, ít
nghiêm trọng, có thể nêu đầy đủ diễn biến
của tội phạm theo thời gian. Nếu vụ án có
một bị can phạm nhiều tội thì có thể trình
bày diễn biến của từng tội phạm theo thời
gian hoặc trình bày các tội theo tính chất của
từng tội phạm, từ tội phạm đặc biệt nghiêm
trọng, tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm
nghiêm trọng đến tội phạm ít nghiêm trọng.
Nếu vụ án có nhiều bị can phạm nhiều
tội có thể trình bày theo diễn biến của từng
tội phạm hoặc nêu từng bị can (phạm tội
bao nhiêu lần, các hành vi phạm tội cụ
thể...), sau đó tổng hợp, đánh giá vai trò của
từng bị can trong vụ đồng phạm.
- Phần kết luận lưu ý những vấn đề: Cần
tổng hợp ngắn gọn cấu thành tội phạm từ sự
mô tả hành vi phạm tội ở phần trên, tính chất,
mức độ, hậu quả của tội phạm, xác định vai
trò của bị can trong vụ án (chú ý sắp xếp theo
trật tự từ bị can chính, nguy hiểm nhất đến các
bị can có vai trò thấp hơn. Nếu bị can phạm
nhiều tội thì phải phân tích, đánh giá theo thứ
tự từ tội phạm đặc biệt nghiêm trọng đến tội
phạm rất nghiêm trọng, tội phạm nghiêm
trọng, tội phạm ít nghiêm trọng).
Về lý lịch bị can, tiền án, tiền sự: Nêu
lý lịch của từng bị can (chú ý sắp xếp theo
thứ tự từ bị can có vai trò chính đến bị can
có vai trò thứ yếu). Cần ghi đúng theo lý
lịch tư pháp, chú ý tên đệm; nếu có tên gọi
khác cũng cần ghi rõ. Trong các vụ án liên
quan đến MBN, có những bị can là người
dân tộc thiểu số, có trình độ văn hoá thấp
nên hiểu biết pháp luật còn hạn chế; nhưng
cũng có bị can trước đó đã thực hiện nhiều
lần phạm tội. KSV cần nghiên cứu kỹ lý lịch
bị can để có biện pháp đấu tranh và làm căn
cứ đề xuất mức hình phạt.
Trong những trường hợp áp dụng tình
tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị
can thì phải xem xét, làm rõ các căn cứ để
cho bị can được hưởng tình tiết giảm nhẹ.
Phần quyết định lưu ý phải ghi rõ không chỉ
tội danh và điều khoản của BLHS được áp
dụng, mà cả điểm của điều khoản đó (trích
dẫn đầy đủ điểm, điều khoản, tội danh).
7. Quyết định đình chỉ vụ án
Đình chỉ vụ án là một quyết định chấm
dứt toàn bộ mọi hoạt động tố tụng đối với
một vụ án. Vụ án đã có quyết định đình chỉ
thì sẽ không được phục hồi điều tra, truy
tố hay xét xử. Theo quy định tại Điều 248
90 Khoa học Kiểm sát Số chuyên đề 2 - 2020
THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VÀ KIỂM SÁT...
BLTTHS năm 2015, thẩm quyền ra Quyết
định đình chỉ vụ án trong giai đoạn chuẩn bị
truy tố thuộc Viện kiểm sát có thẩm quyền.
Căn cứ để ra Quyết định đình chỉ vụ án
quy định tại Khoản 2 Điều 155 và Điều 157
BLTTHS, hoặc tại Điều 16, Điều 29, Khoản
2 Điều 91 BLHS. Viện kiểm sát cấp dưới ra
Quyết định đình chỉ vụ án phải được gửi
lên Viện kiểm sát cấp trên. Trong trường
hợp Quyết định đình chỉ vụ án bị phát hiện
là không có căn cứ và trái pháp luật thì Viện
kiểm sát cấp trên sẽ trực tiếp ra Quyết định
hủy bỏ quyết định đình chỉ đó và yêu cầu
Viện Kiểm sát cấp dưới tiếp tục giải quyết
vụ án theo quy định của BLTTHS.
Đối với tội phạm về MBN, nhiều
trường hợp bị hại ở nước ngoài thời gian
dài không được giải cứu hoặc về nước, hoặc
đối tượng phạm tội bỏ trốn ở nước ngoài
nên vụ án phải đình chỉ vụ án dựa trên căn
cứ đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm
hình sự mà không thể điều tra, xác minh
được bị can. Khi đó, trong Quyết định đình
chỉ vụ án phải ghi rõ lý do, căn cứ đình chỉ
vụ án, việc hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn,
biện pháp cưỡng chế, cách xử lý vật chứng,
các tài liệu, đồ vật đã tạm giữ (nếu có). Hình
thức phải theo đúng thể thức, biểu mẫu của
Viện kiểm sát nhân dân tối cao quy định.
Trường hợp vụ án có nhiều bị can mà
căn cứ đình chỉ vụ án không liên quan đến
tất cả bị can thì quyết định đình chỉ vụ án
đối với từng bị can. Trong thời hạn 03 ngày
kể từ ngày ra Quyết định, KSV phải thông
báo cho bị can và người bào chữa biết, giao
Quyết định cho bị can và lập biên bản giao
nhận, đưa vào hồ sơ vụ án và sao lưu một
bản vào hồ sơ kiểm sát.
8. Quyết định tạm đình chỉ vụ án
Trong giai đoạn truy tố, Viện kiểm sát
ra Quyết định tạm đình chỉ vụ án khi có căn
cứ quy định tại Điều 247 BLTTHS năm 2015,
theo đó: Khi có kết luận giám định tư pháp
xác định bị can bị bệnh tâm thần hoặc bệnh
hiểm nghèo (có chứng nhận của Hội đồng
giám định pháp y) thì có thể tạm đình chỉ vụ
án trước khi hết thời hạn quyết định việc truy
tố; Khi bị can bỏ trốn mà không biết rõ bị can
đang ở đâu nhưng đã hết thời hạn truy tố,
trường hợp này phải yêu cầu CQĐT truy nã
bị can trước khi tạm đình chỉ vụ án; Khi trưng
cầu giám định, yêu cầu định giá tài sản, yêu
cầu nước ngoài tương trợ tư pháp mà chưa
có kết quả nhưng đã hết thời hạn quyết định
việc truy tố, trường hợp này thì việc giám
định, định giá tài sản, tương trợ tư pháp tiếp
tục tiến hành cho đến khi có kết quả.
Đối với các vụ án MBN, việc tạm đình
chỉ vụ án thường do Viện kiểm sát ra Quyết
định truy tố bị can nhưng chưa giao Bản cáo
trạng cho bị can mà bị can bỏ trốn, Viện kiểm
sát yêu cầu cơ quan điều tra truy nã bị can
tuy nhiên hết thời hạn truy tố mà việc truy nã
vẫn không có kết quả; hoặc vụ án đã yêu cầu
định giá tài sản, tương trợ tư pháp nhưng
chưa có sự thống nhất trong việc định giá tài
sản, chưa có sự phản hồi trong việc tương
trợ tư pháp mà đã hết thời hạn truy tố thì
quyết định tạm đình chỉ vụ án phải ghi rõ
lý do, căn cứ tạm đình chỉ vụ án cũng như
các vấn đề khác có liên quan, theo đúng biểu
mẫu hình sự của Viện Kiểm sát nhân dân tối
cao ban hành. Trường hợp vụ án có nhiều bị
can mà căn cứ để tạm đình chỉ vụ án không
liên quan đến tất cả bị can thì tạm đình chỉ
vụ án đối với từng bị can. Trong thời hạn
03 ngày kể từ ngày ra Quyết định, Kiểm sát
viên phải thông báo cho bị can và người bào
chữa biết, giao Quyết định cho bị can và lập
biên bản giao nhận, đưa vào hồ sơ vụ án và
sao lưu một bản vào hồ sơ kiểm sát.
9. Xử lý vật chứng
Vật chứng là một trong các loại nguồn
chứng cứ mà BLTTHS ghi nhận bên cạnh
các loại nguồn chứng cứ khác. Vật chứng
có vị trí đặc biệt quan trọng trong quá trình
chứng minh vụ án hình sự do chúng không
bị chi phối bởi các yếu tố tình cảm, tâm lý
như các loại nguồn chứng cứ khác. Các quy
định về xử lý vật chứng trong BLTTHS đã
tạo cơ sở pháp lý quan trọng giúp cơ quan,
người tiến hành tố tụng xử lý vật chứng,
góp phần nâng cao hiệu quả, chất lượng
hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- thuc_hanh_quyen_cong_to_va_kiem_sat_trong_giai_doan_truy_to.pdf