KẾT LUẬN
Thông qua việc phân tích
tình hình THPL về BVMT làng
nghề của một số nước trên thế
giới như Nhật Bản, Trung
Quốc, Sinhgapore, một số kinh
nghiệm học tập từ các nước
trên thế giới có thể áp dụng cho
sự nghiệp BVMT làng nghề ở
Việt Nam, đó là:
- Cần thiết lập, hoạch định
một chiến lược THPL về BVMT
do các hoạt động làng nghề
gây ra một cách tổng thể, toàn
diện, hợp lý và nhất quán.
- Đề cao các sáng kiến của
chính quyền địa phương trong
THPL về BVMT làng nghề bởi
chính quyền địa phương đóng
vai trò vô cùng quan trọng.
- Khuyến khích các hộ gia
đình, các cơ sở sản xuất, kinh
doanh, dịch vụ ở làng nghề
tham gia trực tiếp vào quá trình
THPL về BVMT làng nghề.
- Quản lý và xử lý chất thải
toàn diện ở các làng nghề:
ngăn ngừa và hạn chế chất thải
ngay từ nguồn thải là ưu tiên số
một, sau đó mới tính đến việc
giảm thiểu chất thải phát sinh
bằng các biện pháp xử lý chất
thải hoặc áp dụng các công
nghệ sản xuất sạch trong sản
xuất ở làng nghề.
- Ban hành pháp luật và giáo
dục nghiêm trong THPL về
BVMT do các hoạt động của
làng nghề gây ra.
8 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 22/01/2022 | Lượt xem: 202 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Thực hiện pháp luật bảo vệ môi trường làng nghề ở một số nước trên thế giới và kinh nghiệm có thể vận dụng cho các làng nghề Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Taïp chí Hoaït ñoäng KHCN An toaøn - Söùc khoûe & Moâi tröôøng lao ñoäng, Soá 4,5&6-2016 101
Kt qu nghiên cu KHCN
1. MỞ ĐẦU
Trong những năm qua,khi nước ta chuyểnsang nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, hội nhập sâu rộng vào
nền kinh tế thế giới thì hoạt
động làng nghề trên cả nước
đã có bước nhảy vọt lớn, phát
triển chưa từng thấy. Các làng
nghề đã góp phần rất lớn trong
việc giải quyết công ăn việc làm
cho nhân dân trong vùng. Tuy
nhiên, bên cạnh sự phát triển
sôi động đó thì tình trạng ô
nhiễm môi trường (ONMT) ở
nhiều làng nghề đã trở thành
điều bức xúc, không những
ảnh hưởng xấu tới cuôc sông
và sức khỏe của người dân mà
còn làm giảm năng suất cây
trồng, vật nuôi. Một trong
những lý do dẫn tới hiện trạng
ONMT ở các làng nghề và tình
hình vi phạm pháp luật về bảo
vệ môi trường (BVMT) làng
nghề đó là những bất cập trong
thực hiện pháp luật (THPL) về
BVMT làng nghề.
Thực tế cho thấy, những
quốc gia mà hệ thống pháp luật
dành sự quan tâm lớn cho việc
THPL trong đó có hoạt động
kiểm soát ô nhiễm thì trình độ
quản lý và BVMT làng nghề ở những quốc gia đó đã ở mức cao,
điển hình như Nhật Bản, Singapore, Mỹ hay một số nước Châu
Âu Họ nhận thức được tầm quan trọng của việc xây dựng và
hoàn thiện hệ thống pháp luật BVMT, nhận thức được vai trò to
lớn của hoạt động kiểm soát ONMT đối với sự phát triển bền vững
của đất nước và con người họ và hiểu rõ những tác động của hoạt
động BVMT làng nghề đối với hiệu quả cải thiện môi trường, đảm
bảo an sinh xã hội cũng như phát triển kinh tế. Kết quả là ở những
quốc gia này, khung pháp lý về BVMT đã tương đối hoàn thiện và
được các chủ thể liên quan thừa nhận, chủ động thực thi và vận
dụng một cách có hiệu quả vào hoạt động phát triển kinh tế-xã hội
của mình. Do đó, bài báo này sẽ đi sâu phân tích việc THPL về
BVMT làng nghề của một số nước trên, từ đó rút ra kinh nghiệm
có thể vận dụng trong việc THPL về BVMT làng nghề ở Việt Nam.
THỰC HIỆN PHÁP LUẬT
BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG LÀNG NGHỀ
Ở MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI VÀ KINH NGHIỆM
CÓ THỂ VẬN DỤNG CHO CÁC LÀNG NGHỀ VIỆT NAM
TS. Nguyn Trn Đin
Vin Công ngh Môi tr
ng, Vin Hàn Lâm Khoa hc và Công ngh Vit Nam.
Ảnh minh họa: Nguồn Internet
102 Taïp chí Hoaït ñoäng KHCN An toaøn - Söùc khoûe & Moâi tröôøng lao ñoäng, Soá 4,5&6-2016
Kt qu nghiên cu KHCN
2. THỰC HIỆN PHÁP LUẬT
BVMT LÀNG NGHỀ CỦA MỘT
SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI
2.1. Thực hiện pháp luật
BVMT làng nghề của Nhật
Bản
Ở Nhật Bản, các làng nghề
được ra đời cách đây hàng
trăm năm, thường ở các vùng
ngoại ô thành phố hoặc ở các
vùng nông thôn. Tuy có quy
mô nhỏ, từ 23 đến 30 lao
động, nhiều nơi có số lượng
còn ít hơn 10 người, nhưng
bất kì ai trong số họ đều có tay
nghề rất cao. Việc THPL về
BVMT làng nghề trong thời kỳ
đầu, khi đất nước đang trong
quá trình phát triển kinh tế, còn
nhiều bất cập: các cơ sở sản
xuất ở các làng nghề truyền
thống Nhật Bản rất ít quan tâm
đến việc BVMT làng nghề, đến
việc quản lý và sử dụng chất
thải trong quá trình sản xuất.
Do vậy, hậu quả là môi trường
ở các làng nghề Nhật Bản thời
kỳ này bị ô nhiễm nghiêm
trọng, gây ảnh hưởng xấu đến
sức khỏe của người dân.
Trước hiện trạng đó, năm
1967, Luật cơ bản về BVMT đã
được ban hành, quy định về kế
hoạch kiểm soát ONMT, đặc
biệt đưa ra các tiêu chuẩn môi
trường và hệ thống kiểm soát
tổng tải lượng ô nhiễm [1]. Đến
năm 1974, Nghị viện Nhật Bản
đã ban hành luật Phát triển
nghề thủ công truyền thống,
trong đó có quy định một số
vấn đề về BVMT trong các
làng nghề [2]. Kết quả là các
làng nghề thủ công Nhật Bản
có những bước phát triển mới
mẻ cũng như sự chuyển biến
tích cực trong việc cải thiện
chất lượng môi trường tại các
làng nghề. Bên cạnh đó, chính
phủ Nhật Bản còn ban hành
một bộ tiêu chuẩn để đánh giá
chất lượng sản phẩm của các
làng nghề trong đó phân loại
chất lượng sản phẩm thành 5
cấp, từ 1 sao đến 5 sao dựa
trên nhiều tiêu chí đánh giá,
trong đó nổi bật nhất là các
quy định về kiểm soát ONMT,
sử dụng chất liệu thân thiện
với môi trường và tiết kiệm tài
nguyên thiên nhiên. Nếu các
sản phẩm không thân thiện với
môi trường, hoặc việc sản xuất
ra nó gây ONMT, các làng
nghề phải nộp một khoản phí
môi trường. Vì vậy, các làng
nghề đã đầu tư vào việc xử lý
chất thải và công nghệ sản
xuất sạch, để thay cho việc
nộp phí môi trường. Hơn nữa,
việc quy định các làng nghề sẽ
được nhận hỗ trợ từ phía
chính phủ nếu đạt tiêu chuẩn
môi trường cho phép cũng góp
phần nâng cao hiệu quả THPL
về BVMT ở làng nghề Nhật
Bản. Pháp luật quy định chính
phủ chỉ hỗ trợ cho các sản
phẩm đạt từ 3 sao trở lên, cấp
5 sao được hỗ trợ nhiều nhất,
cũng chính vì vậy các cơ sở
sản xuất, kinh doanh ở làng
nghề Nhật Bản luôn tự phấn
đấu để có các sản phẩm chất
lượng cao đồng thời đảm bảo
thân thiện với môi trường.
Năm 1979, Nhật Bản phát
triển phong trào mỗi làng một
sản phẩm và gắn với mô hình
du lịch làng nghề, sử dụng
nguồn tài nguyên hiệu quả [2].
Kết quả của phong trào này là
làm sống lại các ngành nghề
thủ công truyền thống Nhật
Bản và việc THPL về bảo vệ tài
nguyên đất và nước trong các
làng nghề đã có những chuyển
biến tích cực, những thành tựu
nhất định.
Cho đến nay, Nhật Bản đã
rất thành công trong việc THPL
về BVMT làng nghề với việc ban
hành đầy đủ, kịp thời các văn
bản qui phạm pháp luật (QPPL),
các tiêu chuẩn môi trường phù
hợp nhằm nâng cao hiệu quả
THPL về BVMT làng nghề. Vấn
đề kiểm soát ONMT ở làng
nghề không chỉ được quy định
trong những văn bản pháp luật
chung về môi trường mà còn
được thể hiện trong những đạo
luật riêng về làng nghề. Việc
khéo léo lồng ghép các ưu đãi
về phí BVMT trong các quy định
về bộ đánh giá chất lượng sản
phẩm cũng là một nét độc đáo,
mang lại hiệu quả cao. Cuối
cùng phải kể đến là con người
Nhật Bản cũng luôn có tinh
thần, trách nhiệm cao trong việc
THPL về BVMT làng nghề và sử
dụng tài nguyên thiên nhiên rất
tiết kiệm. Qua những việc làm
và thành tựu đạt được của Nhật
Bản, Việt Nam nên học hỏi và
áp dụng một số cách làm phù
hợp để cải thiện tình hình THPL
về BVMT làng nghề nơi đây.
2.2. Thực hiện pháp luật
BVMT làng nghề của Trung
Quốc
Các cơ quan quản lý nhà
nước về môi trường của Trung
Quốc đã ban hành các văn bản
Taïp chí Hoaït ñoäng KHCN An toaøn - Söùc khoûe & Moâi tröôøng lao ñoäng, Soá 4,5&6-2016 103
Kt qu nghiên cu KHCN
100 thông số ô nhiễm trong
nước thải. Các tiêu chuẩn do
Bộ Môi trường quy định thay
đổi, tùy thuộc vào ngành nghề
và mức phí thay đổi tùy theo
loại chất gây ô nhiễm. Ngoài ra,
các địa phương có thể tự đặt ra
các tiêu chuẩn môi trường chặt
chẽ hơn tiêu chuẩn môi trường
quốc gia và có thể đưa ra mức
phí cao hơn mức phí do Bộ Môi
trường Trung Quốc quy định
[4]. Bên cạnh đó, một số chính
sách ưu đãi thuế cũng được
Trung Quốc áp dụng với mục
đích kêu gọi tiết kiệm năng
lượng ở các làng nghề như
thực hiện ưu đãi thuế giá trị gia
tăng đối với một số mặt hàng
sử dụng năng lượng sạch,
khuyến khích tái sử dụng chất
thải và phế liệu trong sản xuất.
Đối với những cơ sở sản xuất ở
làng nghề có chuyển giao công
nghệ BVMT hay công nghệ tiết
kiệm nguồn tài nguyên cũng
được miễn thuế thu nhập.
Những chính sách nêu trên đã
góp phần nâng cao nhận thức
QPPL quy định khá cụ thể việc
THPL về BVMT, trong đó Luật
BVMT năm 1979 (sửa đổi năm
1989) được coi là “luật khung”
khi chỉ quy định những vấn đề
chung, cơ bản và khái quát.
Còn việc bảo vệ, quản lý các
thành phần quan trọng của môi
trường như nước, không khí,
quản lý chất thải rắn và tiếng
ồn được quy định trong các
đạo luật riêng, đó là: Luật Ngăn
ngừa và kiểm soát ô nhiễm
nước sửa đổi 1996 được kết
cấu và điều chỉnh theo hướng
phân loại thành phần môi
trường nước như nước mặt,
nước ngầm; Luật Ngăn ngừa
và kiểm soát ô nhiễm chất thải
rắn sửa đổi 2004 được kết cấu
và điều chỉnh theo hai tiêu chí
gồm mức độ nguy hại của chất
thải và nguồn phát thải; Luật
Ngăn ngừa và kiểm soát ô
nhiễm không khí (ONKK)
(1995, sửa đổi 2000) được kết
cấu và điều chỉnh theo nguồn
gây ô nhiễm (như ONKK gây
ra bởi hoạt động đốt than, bởi
các phương tiện giao thông và
chất thải khí, bụi, mùi); Luật
Ngăn ngừa và kiểm soát ô
nhiễm tiếng ồn (1996) được
kết cấu và điều chỉnh theo từng
hoạt động kinh tế - xã hội là
nguồn gây ô nhiễm như ô
nhiễm tiếng ồn nói chung, tiếng
ồn công nghiệp, tiếng ồn xây
dựng, tiếng ồn giao thông,
tiếng ồn các hoạt động khác
[3]. Ngoài ra, gần đây Hội đồng
nhà nước và Bộ xây dựng
Trung Quốc cũng đã ban hành
một loạt chỉ tiêu kỹ thuật môi
trường về khí thải, nước thải.
Hiện Trung Quốc đang có 4
đạo luật liên quan đến lĩnh vực
thuế BVMT đó là Thuế tài
nguyên, Thuế tiêu thụ, Thuế
đối với các phương tiện giao
thông, tàu bè và Thuế mua các
phương tiện giao thông. Các
loại thuế này được ban hành
nhằm định hướng cho các chủ
thể sử dụng và khai thác tiết
kiệm nguồn tài nguyên. Các
sản phẩm từ các làng nghề
truyền thống bị đánh thuế 5%,
bất kể hàng hóa loại nào [4].
Trong lĩnh vực bảo vệ nguồn
tài nguyên nước, phí nước thải
được quy định tại Điều 18 Luật
BVMT 1979. Trong những năm
1979-1981, phí ô nhiễm được
áp dụng thử nghiệm ở 27 tỉnh,
thành phố dưới sự giám sát
trực tiếp của chính phủ. Năm
2003, hệ thống tính phí nước
thải của Trung Quốc đã có một
số thay đổi: việc tính phí được
dựa trên tải lượng chứ không
chỉ dựa trên nồng độ, phí được
tính với tất cả các đơn vị ô
nhiễm, phí được tính với hơn
Ảnh minh họa: Nguồn Internet
104 Taïp chí Hoaït ñoäng KHCN An toaøn - Söùc khoûe & Moâi tröôøng lao ñoäng, Soá 4,5&6-2016
Kt qu nghiên cu KHCN
về BVMT làng nghề của các địa
phương. Phong trào sử dụng
công nghệ phát triển sạch trong
sản xuất thủ công của các làng
nghề hiện nay trở nên tích cực
hơn. Năm 2006, lãnh đạo thôn
Ái Dân, thành phố Du Thụ nơi
có làng nghề trồng rau củ lớn
nhất ở vùng Hoa Bắc đã thí
điểm thực hiện mô hình cải
thiện môi trường xanh nông
thôn thu gom rác thải “phân
loại, tập trung ủ phân, thống
nhất bón trên ruộng”. Trên cơ
sở trưng cầu ý dân, Đảng ủy thị
trấn đã hướng dẫn thôn Ái Dân
ban hành “Quy định thôn” và
“Quy ước hộ nông dân”, quy
định đối với người dân trong
thôn. Theo đó, thị trấn đã tổ
chức thực hiện: “Một là, mỗi
làng chọn ra hai khu vực tập
kết rác thải làm phân bón, rác
thải của các hộ gia đình do các
hộ tự thu gom và vận chuyển;
rác thải công cộng do nhân
viên chuyên thu gom và vận
chuyển. Các hộ nuôi lợn lắp đặt
hệ thống Bi-ô-ga để tận dụng
nguồn phân lợn tại chỗ, sản
xuất khí ga phục vụ sinh hoạt;
dùng nước tiểu pha loãng rồi
định kỳ tưới lên bãi rác thải nơi
làm phân bón chôn tập trung.
Hai là, Phó Bí thư chi bộ các
thôn phụ trách quản lý công tác
thu gom rác thải của toàn thôn,
định kỳ kiểm tra hoạt động làm
sạch môi trường. Rác thải do
các hộ tự vận chuyển sẽ do
nhân viên thu gom rác phân
loại quản lý và ủ tập trung. Ba
là, rác thải không xử lý được sẽ
để riêng và chôn lâp tập trung”.
Sở Bảo vệ môi trường và Sở
Nông nghiệp thành phố sẽ tổ
chức tập huấn cho nhân viên
thu gom rác thải làm phân bón,
tiền lương sẽ được giải quyết
theo cơ chế làm bao nhiêu
hưởng bấy nhiêu, con số cụ thể
sẽ tính theo số lượng thu gom
được. Việc tuyên truyền phổ
biến kiến thức về BVMT làng
nghề cho người dân làng nghề
cũng đã được thực hiện và
không ngừng đổi mới, hoàn
thiện các biện pháp kiểm soát ô
nhiễm, BVMT trong toàn thị
trấn, công tác xử lý và cải thiện
môi trường được tăng cường
hơn [5].
Tuy nhiên, việc THPL về
BVMT ở một số làng nghề vẫn
còn chưa nghiêm, điển hình là
các làng nghề thủ công truyền
thống ở hai bên sông Trường
Giang, có quy mô nhỏ, hộ gia
đình và không theo quy hoạch:
các làng nghề không được
trang bị hệ thống xử lý nước
thải, chất thải nguy hại nên
hầu hết chất thải được xả trực
tiếp ra môi trường, vi phạm
pháp luật môi trường. Điển
hình là các làng nghề tuyển sắt
và chế biến nhựa ở Mã Yên
Sơn, mỗi năm đổ xuống sông
khoảng 14 tỷ tấn rác thải làm
cho đời sống thủy sinh ở đây bị
ảnh hưởng nghiêm trọng, dẫn
đến sản lượng đánh bắt giảm
mạnh [6]. Tình hình vi phạm là
vậy, tuy nhiên, chính quyền tại
một số địa phương không chú ý
nhiều, chỉ khi nào xảy ra xô xát,
người dân biểu tình mạnh mẽ
thì chính quyền mới thực thi
pháp luật hay thực hiện đóng
cửa các cơ sở sản xuất, kinh
doanh đó.
Tóm lại, Trung Quốc đã
thành công trong việc ban hành
đầy đủ các văn bản QPPL về
BVMT trong đó có BVMT làng
nghề. Từng lĩnh vực đều có
một bộ luật riêng quy định việc
THPL về BVMT, tài nguyên.
Tuy nhiên, trong thực tế, khi
triển khai thực hiện thì vẫn còn
những bất cập. Đây cũng là
một kinh nghiệm cho Việt Nam
khi việc ban hành đầy đủ các
văn bản quy phạm pháp luật
chỉ là điều kiện cần chứ chưa
phải là điều kiện đủ để đảm bảo
việc thực hiện tốt pháp luật về
BVMT làng nghề.
2.3. Thực hiện pháp luật
BVMT của Singapore
Chính phủ Singapore đã
ban hành các đạo luật về môi
trường và quy định rõ các biện
pháp thi hành, các chế tài dân
sự, hành chính hay tăng cường
áp dụng các biện pháp hình sự
đối với các chủ thể vi phạm
pháp luật môi trường [7]. Bên
cạnh Luật Quản lý và BVMT
năm 1999, sửa đổi năm 2002
[3], được coi là một đạo luật
khung, một loạt các văn bản
liên quan đến pháp luật môi
trường đã được ban hành,
gồm: Luật không khí sạch, Luật
chất thải nguy hại, Luật hệ
thống thoát nước, Luật về môi
trường và sức khỏe cộng
đồng,... quy định các vấn đề về
tiếng ồn, vệ sinh công cộng,
quản lý chất thải rắn, chất thải
nguy hại cũng như các vấn đề
liên quan khác.
Singapore đề ra chiến lược
THPL về BVMT bao gồm 04
Taïp chí Hoaït ñoäng KHCN An toaøn - Söùc khoûe & Moâi tröôøng lao ñoäng, Soá 4,5&6-2016 105
Kt qu nghiên cu KHCN
được quy định trong các đạo
luật về môi trường, bao gồm
nhiều mức độ phạt tiền khác
nhau, tùy thuộc vào các đạo
luật khác nhau và mức độ nguy
hiểm của hành vi gây ra. Hình
thức phạt tiền được quy định
một cách rất linh hoạt đối với
các vi phạm ít nghiêm trọng
như cho phép người vi phạm
trả một khoản tiền thích hợp
cho Bộ Môi trường Singapore
và vụ việc sẽ được tự kết thúc
mà không phải đưa ra Tòa.
Hình thức phạt tù, là chế tài
nghiêm khắc nhất áp dụng đối
với những người vi phạm ở
mức độ nghiêm trọng. Theo
quy định tại Luật về môi trường
sức khỏe cộng đồng và Luật
kiểm soát ô nhiễm thì những
người vi phạm lần đầu bị buộc
tội về hành vi đưa chất thải
hoặc các chất độc hại vào
nguồn nước ngầm có thể phạt
tù đến 12 tháng. Đối với những
người tái phạm thì có thể bị
phạt tù với chế độ khắc nghiệt
yếu tố: Phòng chống - Thực thi
- Giám sát và Giáo dục. Vấn đề
phòng ngừa ONMT sẽ có hiệu
quả cao nếu kế hoạch sử dụng
đất được lập một cách hợp lý;
xây dựng kế hoạch kiểm soát ô
nhiễm đồng thời cung cấp các
thiết bị thu gom, xử lý chất thải
phù hợp; giám sát thường
xuyên để đánh giá đầy đủ và
chính xác các hoạt động kiểm
soát ONMT. Các dữ liệu về
chất lượng môi trường cũng
được sử dụng để phục vụ cho
hoạt động xây dựng chính
sách, pháp luật về kiểm soát
ONMT. Tiếp đến là tiến hành
giáo dục công chúng về kiểm
soát ô nhiễm và BVMT. Ngày
càng có nhiều chất thải, chất
thải nguy hại phát sinh gây ra
ONMT do sự gia tăng dân số
và tăng trưởng kinh tế. Do vậy,
Singapore không thể dựa hoàn
toàn vào sự mở rộng cơ sở hạ
tầng để đối phó lượng chất thải
ngày càng gia tăng; cũng
không dựa hết vào việc cưỡng
chế để chống lại ONMT. Cần
phải tăng cường hoạt động
giảm thiểu phát sinh chất thải
cũng như hạn chế tác động của
chất thải và chất ONMT.
Phương pháp hữu hiệu lại là
đánh giá từ phía người sử
dụng các thành phần môi
trường nhiều hơn, tức là áp
dụng các công nghệ tiết kiệm
năng lượng và sử dụng tài
nguyên hiệu quả sẽ giúp giảm
thiểu các chất thải và hạn chế ô
nhiễm. Hướng tới những mục
tiêu này, hi vọng nuôi dưỡng
một quốc gia là chủ động theo
đuổi lối sống thân thiện với môi
trường, thói quen và công
nghệ. Cần phải nhận thức tốt
và quan tâm nhiều hơn nữa
đến THPL về BVMT. Cũng phải
nhấn mạnh rằng chiến lược
thiết yếu vì môi trường bao
gồm: Đạt được mức độ nhận
thức cao về môi trường, Thúc
đẩy công nghệ làm sạch môi
trường và bảo tồn tài nguyên,
BVMT địa phương cũng như
môi trường toàn cầu [8].
Bên cạnh đó, để xử lý các
hành vi vi phạm pháp luật môi
trường, Singapore đã quy định
các biện pháp cưỡng chế khác
nhau, bao gồm cả biện pháp xử
lý hình sự, biện pháp hành
chính và biện pháp dân sự.
- Biện pháp xử lý hình sự: áp
dụng đối với những người bị
kết án phạt tiền, phạt tù, bắt bồi
thường và đối với những vi
phạm nhỏ thì phạt cải tạo lao
động bắt buộc (chỉ áp dụng đối
với những bị cáo từ 16 tuổi trở
lên). Cụ thể, hình thức phạt
tiền, là hình thức phổ biến nhất
Ảnh minh họa: Nguồn Internet
106 Taïp chí Hoaït ñoäng KHCN An toaøn - Söùc khoûe & Moâi tröôøng lao ñoäng, Soá 4,5&6-2016
Kt qu nghiên cu KHCN
từ 1 đến 12 tháng; hình thức
tạm giữ và tịch thu: đối với các
công cụ, phương tiện được sử
dụng vào việc phạm tội. Ví dụ,
trường hợp thực phẩm không
phù hợp cho con người có thể
bị tịch thu và tiêu hủy theo quy
định tại Luật về môi trường và
sức khỏe cộng đồng. Hình thức
lao động cải tạo bắt buộc: cũng
là một biện pháp hữu hiệu để
ngăn chặn các vi phạm nhỏ,
những người vi phạm đã bị áp
dụng hình phạt này rất ít khi lặp
lại hành vi đã vi phạm.
- Biện pháp hành chính:
thường xuyên sử dụng những
chế tài hành chính rất hiệu quả
như kế hoạch sử dụng đất, cấp
giấy phép và việc ban hành các
mệnh lệnh thông báo. Cụ thể,
lập kế hoạch sử dụng đất: là
biện pháp mang tính phòng
ngừa cao. Các khu vực dành
cho công nghiệp nặng, công
nghiệp vừa và công nghiệp làm
sạch được phân ranh giới rõ
ràng. Có sự phối hợp chặt chẽ
giữa Bộ Môi trường và các cơ
quan liên quan như Ủy ban tái
phát triển đô thị và Cục kiểm
soát xây dựng. Cấp giấy phép
và giấy chứng nhận: thuộc
thẩm quyền của Bộ Môi trường
nhằm đảm bảo kiểm soát và
quản lý chặt chẽ các hoạt động
có khả năng gây ONMT. Trước
khi một hoạt động phát triển
được phép tiến hành, Bộ Môi
trường phải đảm bảo là hoạt
động đó sẽ không gây ảnh
hưởng xấu cho môi trường và
con người. Thông báo và lệnh:
áp dụng trong trường hợp
người chủ sở hữu hoặc quản lý
một tài sản không tuân thủ các
quy định về tiêu chuẩn môi
trường hay các điều kiện khác
về môi trường. Thông báo và
lệnh này sẽ yêu cầu chủ thể
này phải tuân thủ các yêu cầu
đặt ra trong đó. Nếu không
thực hiện các yêu cầu đó, chủ
sở hữu hoặc quản lý tài sản đó
phải chịu trách nhiệm trước tòa
án và phải chịu hình phạt. Bên
cạnh đó, để đảm bảo yếu tố
dân chủ, pháp luật Singapore
còn quy định người nhận được
lệnh hoặc thông báo nếu không
đồng ý với yêu cầu đề ra trong
đó thì có thể nộp đơn phản đối.
Đơn phản đối đó sẽ được Bộ
trưởng Bộ có liên quan quyết
định là giữ nguyên, thay đổi
hoặc bãi bỏ lệnh hoặc thông
báo. Quyết định của Bộ trưởng
là quyết định cuối cùng. Do tính
cấp thiết của pháp luật môi
trường nên trong các đạo luật
về môi trường của Singapore
cũng đã trao cho Bộ trưởng
một số quyền hạn để thực thi
các công việc khẩn cấp, nhằm
thi hành ngay bất kỳ nhiệm vụ
nào nếu nhiệm vụ đó là cấp
bách đối với sự an toàn xã hội,
sức khỏe hay dịch vụ cộng
đồng.
- Biện pháp dân sự: Pháp
luật Singapore yêu cầu cá nhân
gây ONMT phải nộp phạt, bồi
thường thiệt hại, chi phí và các
khoản phí tổn mà cơ quan có
thẩm quyền phải chịu để làm
sạch môi trường. Trong vòng 14
ngày theo quy định, nếu chi phí
này chưa được thanh toán thì
vụ việc sẽ được đưa ra Tòa [7].
Như vậy, có thể thấy ở
Singapore, các văn bản quy
phạm pháp luật về BVMT được
ban hành khá đầy đủ, việc áp
dụng pháp luật của các cơ
quan quản lý nhà nước về
BVMT được thực hiện rất
nghiêm minh, đặc biệt là việc
áp dụng các chế tài, các hình
thức xử lý khắt khe các đối
tượng vi phạm pháp luật về
BVMT nhằm răn đe và có tính
chất ngăn ngừa cao. Do đó,
việc tuân thủ pháp luật về
BVMT của người dân, các cơ
sở sản xuất, kinh doanh là rất
nghiêm túc. Đây sẽ là những
kinh nghiệm quý báu cho việc
hoàn thiện quá trình xây dựng
và tổ chức THPL về BVMT làng
nghề ở nước ta.
3. MỘT SỐ KINH NGHIỆM
THAM KHẢO CHO VIỆT NAM
Đứng trước những thách
thức về môi trường, trước thực
trạng về THPL về BVMT làng
nghề ở Việt Nam, chúng ta cần
phải có những cải cách ngay
trong những quy định của pháp
luật, trong hành động cũng như
trong nhận thức của người
dân. Các nước như Nhật Bản,
Trung Quốc, Singapore đã
từng rơi vào tình trạng ONMT
nghiêm trọng, nhưng sau đó họ
đã có những biện pháp vô cùng
hữu hiệu để kiểm soát và
BVMT, đảm bảo an sinh xã hội
và phát triển kinh tế. Những
hành động của Nhật Bản,
Singapore và Trung Quốc đã
mang lại những gợi mở vô
cùng quý giá cho Việt Nam
trong việc THPL về BVMT làng
nghề ở Việt Nam trong giai
đoạn hiện nay, cụ thể:
Taïp chí Hoaït ñoäng KHCN An toaøn - Söùc khoûe & Moâi tröôøng lao ñoäng, Soá 4,5&6-2016 107
Kt qu nghiên cu KHCN
động ONMT làng nghề gây ra ở
Việt Nam.
Thứ ba là, khuyến khích các
hộ gia đình, các cơ sở sản xuất
làng nghề tham gia trực tiếp
vào THPL về BVMT làng nghề
bởi việc THPL về BVMT làng
nghề là trách nhiệm của toàn
xã hội và nếu thực hiện có hiệu
quả thì có thể nâng cao doanh
số kinh doanh của họ một cách
nhanh chóng. Điều này được
minh chứng bởi kết quả của
nền công nghiệp Nhật Bản đã
dẫn đầu thế giới về công nghệ
môi trường trong giai đoạn vừa
qua. Gợi mở này sẽ rất giá trị
để các nhà lập pháp Việt Nam
có thể tham khảo giải quyết các
vấn đề vướng mắc cụ thể trong
quá trình tổ chức THPL về
BVMT tại khu vực làng nghề ở
Việt Nam.
Thứ tư là, quản lý và xử lý
chất thải toàn diện ở các làng
nghề. Học tập kinh nghiệm ở
Singapore, công tác quản lý
chất thải của chúng ta ở các
khu vực làng nghề nên đặt sẵn
mục tiêu ngăn ngừa và hạn chế
chất thải ngay từ nguồn thải là
ưu tiên số một. Sau đó mới tính
đến việc giảm thiểu chất thải
phát sinh bằng các biện pháp
xử lý làm biến đổi những đặc
tính có hại của chất thải hoặc
áp dụng các công nghệ sản
xuất sạch trong sản xuất ở làng
nghề. Đối với các chất thải thì
cố gắng tái sử dụng, tái chế lại
ở một mức độ cho phép. Giải
pháp tiếp theo là xử lý chất thải
bằng các công nghệ tiên tiến và
cuối cùng khi tất cả các giải
Thứ nhất là, cần ban hành
đầy đủ, kịp thời các văn bản
quy phạm pháp luật về BVMT
làng nghề. Các biện pháp được
quy định trong các văn bản quy
phạm pháp luật thường xuyên
được xem xét định kỳ để bổ
sung cho chặt chẽ và hợp lý
hơn. Học tập kinh nghiệm Nhật
Bản, Trung Quốc đã rất thành
công trong việc ban hành kịp
thời và cụ thể cho từng đối
tượng (đất, nước, không khí,
tiếng ồn, chất thải) các văn bản
quy phạm pháp luật phù hợp,
ban hành đầy đủ các quy định,
các tiêu chuẩn kiểm soát ONMT
ở các làng nghề. Ngoài ra, vấn
đề THPL về BVMT ở làng nghề
không chỉ được quy định trong
những văn bản pháp luật chung
về môi trường mà còn cần
được thể hiện trong một đạo
luật riêng về làng nghề.
Thứ hai là, học tập kinh
nghiệm của Nhật Bản, đề cao
các sáng kiến của chính quyền
ở các địa phương trong việc
THPL về BVMT làng nghề bởi
chính quyền địa phương đóng
vai trò quan trọng trong hoạt
động kiểm soát ONMT. Họ đã
đưa ra được những sáng kiến
tích cực, thích ứng riêng với
điều kiện đặc thù của địa
phương mình và kết hợp với
các biện pháp của chính quyền
Trung ương như tăng cường
các quy định về kiểm soát ô
nhiễm, hỗ trợ tài chính và bổ
sung các biện pháp từ khu vực
tư nhân Điều đó đã mang lại
những hiệu quả to lớn trong
phát triển kinh tế và đã đi đầu
trong việc thúc đẩy các chính
sách môi trường trên khắp đất
nước Nhật Bản. Đây sẽ là một
gợi mở tốt cho Việt Nam trong
quá trình xây dựng và tổ chức
THPL về BVMT do các hoạt
Ảnh minh họa: Nguồn Internet
pháp đã được khai thác triệt để
rồi mới tính đến phương pháp
tiêu hủy cuối cùng.
Thứ năm là, đẩy mạnh công
tác tuyên truyền ở địa phương
và giáo dục nghiêm về BVMT
do các hoạt động của làng
nghề gây ra bởi sự nhận thức
của người dân ở làng nghề về
môi trường là yếu tố quan
trọng, là cơ sở để duy trì và
đảm bảo môi trường trong
lành. Việc thực hiện nhiều
chương trình tuyên truyền giáo
dục về BVMT làng nghề sẽ
thúc đẩy sự tham gia của cộng
đồng và các tổ chức xã hội dân
sự vào hoạt động BVMT làng
nghề. Các cơ quan quản lý nhà
nước về BVMT làng nghề cần
thường xuyên làm việc với các
tổ chức xã hội để thực hiện
những chiến dịch giáo dục tới
các cộng đồng dân cư ở làng
nghề. Trung Quốc là một trong
những nước đã làm rất tốt công
tác này.
4. KẾT LUẬN
Thông qua việc phân tích
tình hình THPL về BVMT làng
nghề của một số nước trên thế
giới như Nhật Bản, Trung
Quốc, Sinhgapore, một số kinh
nghiệm học tập từ các nước
trên thế giới có thể áp dụng cho
sự nghiệp BVMT làng nghề ở
Việt Nam, đó là:
- Cần thiết lập, hoạch định
một chiến lược THPL về BVMT
do các hoạt động làng nghề
gây ra một cách tổng thể, toàn
diện, hợp lý và nhất quán.
- Đề cao các sáng kiến của
chính quyền địa phương trong
THPL về BVMT làng nghề bởi
chính quyền địa phương đóng
vai trò vô cùng quan trọng.
- Khuyến khích các hộ gia
đình, các cơ sở sản xuất, kinh
doanh, dịch vụ ở làng nghề
tham gia trực tiếp vào quá trình
THPL về BVMT làng nghề.
- Quản lý và xử lý chất thải
toàn diện ở các làng nghề:
ngăn ngừa và hạn chế chất thải
ngay từ nguồn thải là ưu tiên số
một, sau đó mới tính đến việc
giảm thiểu chất thải phát sinh
bằng các biện pháp xử lý chất
thải hoặc áp dụng các công
nghệ sản xuất sạch trong sản
xuất ở làng nghề.
- Ban hành pháp luật và giáo
dục nghiêm trong THPL về
BVMT do các hoạt động của
làng nghề gây ra.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Aki Nakauchi - Cục Sức
khỏe Môi trường - Bộ Môi
trường Nhật Bản, (2013), “Kinh
nghiệm kiểm soát ô nhiễm môi
trường của Nhật Bản”, tại trang
trien-ben-vung/4388-bai-hoc-
kiem-soat-o-nhiemmoi-truong-
cua-nhat-ban, [truy cập ngày
20/7/2015].
[2]. Phạm Thị Huyền (2013),
“Mô hình mỗi làng một sản
phẩm của Nhật Bản: Phiên bản
nào cho Việt Nam?”, Tạp chí
Công thương, (5).
[3]. Trung tâm Nghiên cứu khoa
học - Viên Nghiên cứu lập pháp
(2013), Kinh nghiệm một số
nước trên thế giới trong xây
dựng pháp luật về bảo vệ môi
trường, Hà Nội.
[4]. Đỗ Nam Thắng (2010),
“Kinh nghiệm quốc tế về phí
bảo vệ môi trường đối với nước
thải công nghiệp và đề xuất
định hướng cho Việt Nam”, Tạp
chí Môi trường, (7).
[5]. China Radio International.
CRI (2011), “Thành phố Du
Thụ, Tỉnh Cát Lâm sáng tạo mô
hình cải thiện môi trường nông
thôn”, tại trang
namese.cri.cn, [truy cập ngày
10/3/2012].
[6]. Ngọc Sơn (theo Reuters)
(2006), “Sông Dương Tử sắp
chết”, tại trang
press.net/tin-tuc/the-gioi, [truy
cập ngày 15/3/2013].
[7]. REDS.VN chuyên trang môi
trường (2013), “Bài học bảo vệ
môi trường từ luật pháp
Singapore”, tại trang
hat-trien-ben-vung/4838-bao-
ve-moi-truong-va-luat-phap-
singapore, [truy cập ngày
30/9/2013].
[8]. A.T. Loh (1998), The expe-
rience of Singapore in the con-
trol of pollution, Singapore
Journal of International &
Comparative Law, 2: 507 - 510.
Kt qu nghiên cu KHCN
Taïp chí Hoaït ñoäng KHCN An toaøn - Söùc khoûe & Moâi tröôøng lao ñoäng, Soá 4,5&6-2016108
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- thuc_hien_phap_luat_bao_ve_moi_truong_lang_nghe_o_mot_so_nuo.pdf