Thực tế tình hình các nguyên tắc trong doanh nghiệp Việt Nam

Trong những ngày đầu năm 2006 tại thành phố Hồ Chí Minh khoảng 11000 công nhân của 6 doanh nghiệp đầu tư nước ngoài FDI đồng loạt đình công đòi tăng lương tối thiểu. Sở dĩ có cuộc đình công rầm rộ này vì các công nhân thấy cuộc đình công của 18000 công nhân công ty FREETREND đạt được hiệu quả và được chủ sử dụng lao động chấp nhận nâng 25,5% lương. Nguyên nhân cơ bản của các vụ đình công này là do việc các cơ quan hữu quan chậm ban hành các văn bản hướng dẫn cho giới sử dụng lao động về việc tăng lương tối thiểu của khối doanh nghiệp FDI từ ngày 1/1/2006. Ngay khi sự việc xảy ra, ngày 6/1/2006 chính phủ đã ban hành nghị định 03/2006 NĐ-CP về việc quy định mức lương tối thiểu trong doanh nghiệp FDI.Theo đó từ ngày 1/2/2006 mức lương tối thiểu trong khu vực này là 710000-870000/tháng. Như vậy mức lương này tăng 38% so với mức đã áp dụng từ 1999.

doc24 trang | Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1674 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Thực tế tình hình các nguyên tắc trong doanh nghiệp Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU Đổi mới đất nước, phát triển nền kinh tế quốc gia là mục tiêu phấn đấu của mỗi quốc gia, mỗi đất nước. Để nền kinh tế phất triển, phụ thuộc vào kết quả của từng doanh nghiệp thuộc từng thành phần kinh tế. Trong nhiều thập kỉ vừa qua có hàng nghìn doanh nghiệp biến mất, đồng thời cũng có hàng nghìn doanh nghiệp ra đời. Để tồn tại, hoạt động và phát triển là những doanh nghiệp có những nhà lãnh đạo tài tình, có nguời quản lí tài ba. Chủ doanh nghiệp và cán bộ quản lí phải được trang bị đầy đủ kiến thức về quản trị. Họ không thể không nghiên cứu, tìm hiểu về các nguyên tắc quản trị .Chính những nguyên tắc quản trị này, giúp họ có những định hướng, những quyết định đúng đắn và cách ứng xử phù hợp cho doanh nghiệp của mình. Nhận thấy tầm quan trọng của việc nghiên cứu các nguyên tắc quản trị, em đã lựa chọn đề tài này để hoàn thành đề án môn học của mình duới sự hướng dẫn tận tình của GS-TS Đỗ Hoàng Toàn. Trong quá trình thực hiện, do còn thiếu kinh nghiệm thực hành và hạn chế trong nghiên cứu, em mong thâỳ cô xem xét và chỉnh sửa để em hoàn thành một cách xuất sắc nhất. Em xin chân thành cảm ơn những ý kiến đóng góp của thầy cô ! CHƯƠNG I TỔNG QUAN VỀ NGUYÊN TẮC QUẢN TRỊ Để có thể nắm bắt được những vấn đề cơ bản nhất về nguyên tác quản trị, thì chúng ta phải hiểu rõ, hiểu đúng về một số khái niệm liên quan tới nó. Như doanh nghiệp là gì? Nguyên tắc là gì? Nguyên tắc quản trị là gì?... Các nguyên tắc ấy được xây dựng trên các cơ sở nào? Chúng bị chi phối bởi những yêu cầu nào? Các yêu cầu đó là gì? Và nguyên tắc được rút ra từ quy luật nào? Rồi từ việc nghiên cứu các nguyên tắc quản trị ấy chúng ta rút ra những phương pháp quản trị ra sao? Và có vị trí ra sao? 1.1/Doanh nghiệp là gì? Có rất nhiều khái niệm, cách hiểu về doanh nghiệp Có người cho rằng: Doanh nghiệp là một đơn vị kinh tế được thành lập để thực hiện các hoạt động kinh doanh nhằm mục đích sinh lợi. Lại có ý kiến khác cho rằng: Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng kí kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh. Từ các định nghĩa khác nhau, có thể tìm ra các điểm chính của khái niệm như sau: Doanh nghiệp Nơi tìm kiếm lợi nhuận Là nhóm người có tổ chức và có cấp bậc Tổ hợp các nhân tố sản xuất Sản xuất để bán (đầu ra) Phân chia lợi nhuận 1.2/ Thế nào là nguyên tắc? Nguyên tắc là các quy tắc chỉ đạo, là những tiêu chuẩn, chuẩn mực đòi hỏi chủ thể phải tuân thủ và thực hiện theo . 1.3/ Thế nào là quản trị: Thật nhữ quản trị cũng có nhiều cách hiểu khác nhau: Có người cho rằng : Quản trị là các hoạt động được thực hiện nhằm bảo đảm sự hoàn thành công việc qua những nỗ lực của nguời khác. Ý kiến khác lại cho rằng : Quản trị là công tác phối hợp có hiệu quả các hoạt động của những nguời cộng sự khác cùng chung một tổ chức. Quản trị là quá trình làm việc cùng thông qua các các nhân, các nhóm , cũng như các nguồn nhân lực khác nhau để hoàn thành các mục đích của tổ chức. Từ những điểm chung của định nghĩa trên ta có thể định nghĩa như sau: Quản trị là sự tác động của chủ thể quản trị lên đối tượng bị quản trị nhằm đạt được mục tiêu đặt ra trong điều kiện biến động của môi truờng. Chúng ta có thể hình dung định nghĩa đó qua sơ đồ sau đây: Chủ thể quản trị Đối tượng bị quản trị Mục tiêu 1.4/ Thế nào là nguyên tắc quản trị ? Các nguyên tắc quản trị là các quy luật chỉ đạo, là tiêu chuẩn hành vi mà các nhà quản lí, nguời chủ doanhnghiệp phải tuân thủ trong quá trình quản trị kinh doanh. 1.5/ Các yêu cầu của nguyên tắc quản trị Các nguyên tắc quản trị do con người đặt ra nhưng nó không thể xuất phát từ những suy nghĩ, ý kiến chủ quan, cá nhân. Mà trái lại nó phải được đúc kết từ những quy luật khách quan. Vậy các nguyên tắc quản trị phải tuân thủ các yêu cầu sau: Nguyên tắc phải thể hiện được yêu cầu của quy luật. Các nguyên tắc phải phù hợp với mục tiêu của quản trị. Các nguyên tắc phải phản ánh đúng tính chất và quan hệ quản trị Các nguyên tắc quản trị phải đảm bảo tính hệ thống, tính nhất quán và phải được đảm bảo bằng kỉ luật của tổ chức 1.6/ Vị trí của nguyên tắc quản trị Hoạt động quản lí có liên quan đến một loạt quy luật về kinh tế, tổ chức, chính trị, xã hội, tự nhiên, kĩ thuật, tâm lí Tác động trong hệ thống, trong chỉnh thế. Người nghiên cứu có thể xem xét từng quy luật, từng nhóm quy luật, song đó chỉ là bước phân tích nhằm nhận thức bản chất từng mặt trong sự trừu tượng hoá các mặt khác của sự vật. Nghiên cứu,vận dụng lại phải tái tạo sự vật trong chỉnh thể làm cho sự vật sống động hơn,làm nổi bật vai trò của từng quy luật trong mối tác động qua lại với các quy luật khác.Sự xác lập và sử dụng cơ chế vận dụng quy luật trong hoạt động quản lí là phù hợp với đòi hỏi nhận thức và vận dụng quy luật trong chỉnh thể nhằm mô hình hoá sự nhận thức và vận dụng đó. Đó cũng chính là cơ sở khoa học để xá lập hệ thống nguyên tắc,mô hình nguyên tắc,cung là quan niệm xây dựng và đổii mới hệ thống quản lí.Như vậy, nguyên tắc quản trị đóng vai trò kim chỉ nam đối với lí luận và chính sách để tìm ra những hình thức,phương pháp cụ thể và đặc thù của quản lí. 1.7/ Các căn cứ hình thành nguyên tắc: Các nguyên tắc quản lý do con người đặt ra nhưng không phải do sự suy nghĩ chủ quan mà phải tuân thủ đòi hỏi của quy luật khách quan và hình thành trên cơ sở các ràng buộc sau: 1.7.1/.Mục tiêu của tổ chức: Mục tiêu của tổ chức là trạng thái tương lai ,là đích phải đạt tới, nó định hướng và chi phối sự vận động của toàn bộ tổ chức.Mỗi cá nhân cũng như các tổ chức thường thành công hơn khi các hoạt động của họ luôn trong tình trạng cố gắng vượt qua sự thử thách do các mục tiêu đã đặt ra mang lại. Các mục tiêu cá nhân được thực hiện trong phạm vi nỗ lực cá nhân,còn các mục tiêu của tổ chức đòi hỏi phải có những nỗ lực chung, những hoạt động tập thể và sự phối hợp hành động giữa các cá nhân trong tổ chức khi thực hiên chúng. Đồng thời có sự phối hợp này chỉ phát huy tác dụng khi có sự quản lý một cách có hệ thống.Như vậy các mục tiêu của tổ chức tạo ra sự hỗ trợ và định hướng đối với tiến trình quản lý và chúng cũng là cơ sở để đo lường mức độ hoàn thành công việc.Nếu một tổ chức không có mục tiêu hoạt động thì tiến trình quản lý của nó sẽ giống như một chuyến đi không có nơi đến, không có mục đích cụ thể và hoàn toàn vô nghĩa. 1.7.2/ Đòi hỏi của quy luật khách quan liên quan đến sự tồn tại phát triển của tổ chức Hệ thống quy luật là cơ sở lý luận trực tiếp hình thành các nguyên tắc quản lý. Điều kiện tự nhiên là một trong những nguồn lực quan trọng để phát triển kinh tế, đồng thời nhân loại cũng đã từng phải trả giá và chịu sự trừng phạt của tự nhiên do hành động trái với quy luật vốn có của nó.Vì thế phải tiết kiệm trong việc khai thác tài nguyên thiên nhiên đi liền với bảo vệ,tái tạo tài nguyên môi trường, coi đó là nguyên tắc quan trọng chi phối các hoạt động quản lý. Về thực chất,quản lý là quá trình xử lý mối quan hệ giữa người với người trong các hoạt động quản lý.Nói cách khác chủ thể quản lý phải tác động vào tâm lý người lao động qua đó khơi dậy lòng nhiệt tình hăng say và sáng tạo của họ.Muốn vậy phải nắm bắt quy luật tâm lý con người để đề ra nguyên tắc quản lý.Tuy nhiên, các cá nhân bao giờ cũng hoạt động trong một công đồng nhất định,cho nên ngoài việc nghiên cứu tính cách nhu cầu,sở rường của từng người còn phải nhận thức và vận dụng quy luật tâm lý tập thể,cộng đồng. Tổ chức là một khoa học,công việc tổ chức về thực chất là xác định cấu trúc của bộ phận và mối liên hệ giữa các bộ phận đó.Trong hoạt động quản lý đòi hỏi phải nhận thức đầy đủ các quy luật và tính quy luật về tổ chức, đó là quan hệ giữa cấp quản lí và khâu quản lí,giữa tập trung và phân cấp,giữa quyền hạn và trách nhiệm của cá nhân và tập thể Trong mỗi tổ chức,trên cơ sở đó vận dụng chúng vào việc đề ra các nguyên tắc quản lý. Các quy luật kinh tế-xã hội tác động trực tiếp đến sự hình thành và phát triển tổ chức.Trong nền kinh tế nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lí của Nhà Nước ở Việt Nam,các quy luật sau là cơ sở trực tiếp hình thành hệ thống nguyên tắc quản lí:nguyên tắc về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của LLXS.Quy luật phân phối theo lao động;các quy luật của kinh tế hàng hoá; quy luật giá trị,quy luật cung cầu 1.7.3/ Các ràng buộc của môi trường Đặc trưng nổi bật của Thế giới mà chúng ta đang sống ngày nay là tốc độ thay đổi của nó diễn ra ngày càng nhanh hơn.Các nhà quản lí phải đối mặt với một nhiệm vụ hết sức khó khăn là phải chuẩn bị cho sự thay đổi đó thay vì trở nên thụ động tuân theo. Do vậy nhận thức được các khuynh hướng và dữ kiện của sự thay đổi môi trường bên ngoài tổ chức sẽ cho phép các nhà quản lý có những định hướng chiến lược đúng đắn, đưa ra được các quyết định có hiệu quả trong quá trình quản lý. 1.7.4/ Thực trạng và xu thế phát triển của tổ chức Nhận thức quy luật mới chỉ là bước thứ nhấtcủa quá trình thiết lập các nguyên tắc quản lý.Bước quan trọng tiếp theo là phải ngiên cúư và nắm bắt thực tiễn; tiềm lực về tài nguyên,lao động,tiền vốn,khoa học-công nghệ,khả năng khai thác nguồn lực để phát triển,năng lực điều hành của đội ngũ các nhà quản lý thông qua đó để điều hành tổ chức hoạt động có hiệu quả. Thuộc về cơ sở thực tiễn để hình thành nguyên tắc còn bao gồm yếu tố văn hoá kinh tế-đó là sự thống nhất biện chứng giữa tri thức,niềm tin,sự sáng tạo của tập thể và người lao động trong quá trình hoạt động.Văn hoá kinh tế biểu hiện tính đặc thù về truyền thống, đạo đức, phong tục,tập quán của một dân tộc có tác dụng thúc đẩy sự tồn tại và phát triển của tổ chức. Ngoài ra kinh nghiệm của nhân loại về phát triển kinh tế,sự thành đạt của các tổ chức và kinh nghiệm quản lý sản xuất kinh doanh của các quốc gia trên Thế Giới cũng là một nền tảng không kém phần quan trọng để thiết lập nên các nguyên tắc quản lý trong mỗi tổ chức và trong kinh tế quốc dân. CHƯƠNG II NỘI DUNG CÁC NGUYÊN TẮC QUẢN TRỊ Nhận thức và vận dụng các quy luật trong quản lý là một quá trình đi từ cái chung đến cái riềng,từ trừu tượng đến cụ thể để đề ra các nguyên tắc của quản lý. Các nguyên tắc vừ phản ánh các quy luật khách quan nhưng cũng mang dấu ấn chủ quan của con người. Trong lịch sử hoạt động thực tiễn quản lý, người ta dã đưa ra nhiều nguyên tắc và mỗi lĩnh vực hoạt động lại có những nguyên tắc quản lý đặc thù. Tuy nhiên để quản lý thành công các tổ chức, các chủ thể quản lý cần phải tuân thủ các nguyên tắc cơ bản sau; 2.1/ Tuân thủ pháp luật và thông lệ xã hội Hệ thống pháp luật được xây dựng dựa trên nền tảng của các định hướng chính trị, nhằm quy định những điều mà các thành viên trong xã hội không được làm và là cơ sở đẻ chế tài những hành động vi phạm của mối quan hệ xã hội mà pháp luật bảo vệ.Qua đó có thể thấy rằng giữa các lĩnh vực chính trị-pháp luật-hoạt động quản lý kinh doanh có mối liên hệ hữu cơ,trong đó thể chế chính trị giữ vai trò định hướng chi phối toàn bộ các hoạt động trong xa hội-trong đó có hoạt động kinh doanh. Trong xu thế toàn cầu hoá hiện nay, hoạt động của các tổ chức ngày càng gắn bó chặt chẽ với nhau và trở thnàh một mắt xích trong hệ thống chính trị-xã hội.Sự ổn định chính trị- pháp luật sẽ tạo ra môi trường thuận lợi đối với hoạt động kinh doanh,hấp dẫn các nhà đầu tư trong và ngoài nước,cho phép tận dụng được những lợi thế so sánh của nền kinh tế, thu hút vốn, công nghệ,kỹ năng quản lý của bên ngoài và thâm nhập vầo thị trường Thế Giới. Chính vì vậy trong nền kinh tế, vai trò của Nhà Nước hết sức quan trọng,mang tính quyết định đối với tiền đồ kinh tế của một đất nước. Việc lựa chọn đúng đắn định hướng phát triển, đề ra các chính sách kinh tế thích hợp sẽ mở ra triển vọng, cơ hội cho các tổ chức,daonh nghiệp có thể tham gia vào sự phát triển của đất nước. Trong cơ chế thị trường, Nhà nước không can thiệp vào các hoạt động mang tính chất tác nghiệp hàng ngày của tổ chức. Việc sản xuất cái gì,bao nhiêu, bằng công nghệ nào, giá cả bao nhiêu, bán ở đâulà công việc của tựng đơn vị cơ sở và đòi hỏi của thị trường. Với chức năng quản lý vĩ mô của mình, Nhà nước đón vai trò là người tạo môi trường và định hướng cho các thành phần kinh tế tự do hoạt động. Mặt khác mỗi tổ chức kinh doanh dều hoạt động trong một môi trường xã hội nhất định,giũa chúng có những mối liên hệ chặt chẽ tác động qua lại lẫn nhau. Xã hội cung cấp những nguồn lực mà tổ chức cần và tiêu thụ những hàng hoá, dịch vụ được sản xuất ra. Các giá trị chung, thông lệ của xã hội,các tập tục truyền thống,lối sống của dân cư, các hệ tư tưởng tôn giáo và cơ cấu dân số, thu nhập của dân chúng đều có những tác động nhiều mặt trực tiếp đến hoạt động của các tổ chức kinh doanh. Do vậy trong quá trình hoạt động đòi hỏi các nhà quản lý phải có sự sang tạo trong quyết định,xử lý linh hoạt các yếu tố của quá trình sản xuất –kinh doanh, đảm bảo cho tổ chức tồn tại và phát triển vững chắc. 2.2/ Tập trung dân chủ Là nguyên tắc cơ bản của quản lý, nguyên tắc tập trung dân chủ phản ánh mối liên hệ giữa chủ thể và đối tượng quản lý cũng như yêu cầu và mục tiêu của quản lý. Tập trung và dân chủ là hai mặt của một thể thống nhất. Khía cạnh tập trung trong nguyên tắc thể hiện sự thống nhất quản lý từ một trung tâm. Đây là nơi hội tụ trí tuệ, ý chí, nguyện vọng và là cơ sở vật chất của tổ chức nhằm đạt hiệu quả tổng thể cao nhất tránh sự phân tán,rối loạn và triệt tiêu sức mạnh chung. Khía cạnh dân chủ thể hiện sự tôn trọng quyền chủ động sang tạo của tập thể và cá nhân người lao động trong hoật động sản xuất kinh doanh. Tập trung và dân chủ; dân chủ phải được thể hiện trong khuôn khổ tập trung. Đây là một nguyên tắc Nội dung của nguyên tắc: phải đảm bảo mối quan hệ chặt chẽ và tối ưu giữa rất quan trọng,nó có tính khách quan phổ biến song thực hiện không đơn giản, phụ thuộc vào bản lĩnh, phẩm chất đạo đức và phong cách của người quản lý. Quản lý tập trung là yêu cầu khách quan của nền kinh tế có phân công lao đỗngã hội và là điều kiện dể giai cấp thống trị duy trì các lợi ích căn bản của mình. Tuy nhiên các nhà quản lý phải không ngừng hoàn thiện nội dung và phương pháp quản lý để không trở về với cơ chế quản lý tập trung quan liêu như trước. Bảo đảm quyền tự chủ của các đơn vị, các cấp là một tất yếu khách quan khi LLXS cần xã hội hoá, tiềm năng của các thành phần kinh tế phải được khai thác triềt để. Mặt khác cơ chế thị trường đòi hỏi nhà quản lý phải tiếp cận và xử lý linh hoạt các thông tin có liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh. Vì vậy hoạt động quản lý tập trung thống nhất phải đi liền với bảo đảm quyền chủ động sang tạo, giải quyết thoả đáng mối quan hệ giữa các cấp,các ngành; xử lý tốt mối quan hệ về trách nhiệm,quyền hạn và lợi ích giữa các thành viên trong tổ chức. Hơn nữa trong nội bộ tổ chức, chức năng lãnh đạo quản lý của Đảng, chính quyền và các tổ chức quần chúng cần tiếp tục phân định theo yêu cầu của nguyên tắc tập trung dân chủ. 2.3/ Kết hợp hài hoà các loại lợi ích Quản lý suy cho cùng là quản lý con người nhằm phát huy tính tích cực và sáng tạo của người lao động. Song động lực của quản lý là lợi ích, do đó nguyên tắc quan trọng của quản lý là phải chú ý đến lợi ích của con người, đảm bảo sự kết hợp hài hoà các lợi ích, trong đó lợi ích của người lao động là động lực trực tiếp, đồng thời chú ý đến lợi ích của tổ chức và xã hội. Chính Adam Smith là người đầu tiên đã quy định những hiện tượng về của cải thành một sự thống nhất cao nhất bằng cách dưa vào một động cơ tâm lý căn bản-lợi ích cá nhân. Ông viết :” Không phải từ thiện cảm của anh hàng thịt, của người bán rượu,của người bán bánh mà chúng ta chờ đợi bữa tối của mình mà từ lợi ích cá nhân của họ. Chúng ta không kêu gọi lòng nhân ái của họ, mà hướng tới lòng tự ái của họ và chúng ta không bao giờ nói với họ về sự cần thiết mà bao giờ cũng nói với họ về những mối lợi của họ”. Về lý thuyết cũng như thực tiễn, lợi ích là mục tiêu,nhu cầu,là động lực khiến con người hành động, vì thế sẽ có sự nhất trí về mục đích và hành động nếu không có sự thống nhất về lợi ích và nhu cầu. -Lợi ích là sự vận động tự giác, chủ quan của con người nhằm thoả mãn một nhu cầu nào đó của bản thân - Lợi ích là một động lực to lớn nhằm phát huy tính tích cực chủ động của con người. -Lợi ích là phương tiện của quản lý cho nên phải dùng nó để động viên con người. Nội dung của nguyên tắc; phải kết hợp hài hoà các lợi ích có liên quan dến tổ chức trên cơ sở những đòi hỏi của quy luật khách quan. Trong nền kinh tế nhiều thành phần,có nhiều lợi ích cần được thoả mãn. Do vậy việc kết hợp hài hoà các lợi ích phải được xem xét và đề ra ngay từ khi xây dựng các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch kinh tế xã hội, quá trình hoạt động quản lý đén khâu phân phối và tiêu dung. Các kế hoạch và mục tiêu của tổ chức phải phản ánh được lợi ích cơ bản lâu dài của mọi thành viên,phải quy tụ được quyền lợi của cả hệ thống và phải có tính hiện thực cao.sự đúng đắn hay lệch lạc trong vấn đề lợi ích kinh tế không chỉ thuộc phạm vi công cụ, động lực mà trước hết là sự đúng đắn hay lệch lạc về mục tiêu sản xuất kinh doanh. Quan điểm lợi ích kinh tế là quan điểm về mục tiêu, là quan điểm định hướng cơ bản,quan điểm xuất phát của việc xây dựng cơ chế quản lý.Chính vì vậy giải quyết tôt mối quan hệ lợi ích trong quản lý sẽ bảo đảm cho tổ chức vận hành thuận lợi và có hiệu quả, ngược lại nếu quan hệ lợi ích bị rối loạn sẽ là nguyên nhân của rối loạn tổ chức, phá vỡ hệ thống quản lý. Thực hiện tốt nguyên tắc này cân chú ý một số vấn đề sau: -Thứ nhất,các quyết định quản lý phải quan tâm trước hết đến lợi ích người lao động.Người lao động là lực lượng tạo ra sản phẩm hàng hoá dịch vụ trực tiếp cho xã hội,hơn nữa lại là nhân tố có khả năng sáng tạo.Bởi vậy hệ thống phương pháp công cụ, cơ chế, chính sách quản lý phải nhằm vào việc đem lại lợi ích, mà quan trọng nhất là lợi ích vật chất cho người lao động. Đó là những khoản tiền lương,tiền thưởng,phúc lợi tập thể và phúc lợi xã hội mà họ được hưởng thụ. Đồng thời người lao động ngày càng có nhu cầu cao về học tập,chữa bệnh, đi lại và trưởng thành trong công việc.Vì thế mọi chính sách kinh tế luôn luôn được gắn liền với chính sách xã hội nhằm thoả mãn sự đòi hỏi của con người. -Thứ hai, phải tạo ra những vectơ lợi ích chung nhằm kết hợp các lợi ích kinh tế. Nếu chỉ quan tâm đến lợi ích người lao động mà sao nhãng lợi ích tập thể và lợi ích xã hội thì chủ nghĩa cá nhân sẽ phát triển, thậm chí dẫn đến tham nhũng đặc quyền, đặc lợi ở một số người có chức có quyền.Hơn nữa lợi ich cá nhân không thể bền vững và ngày càng được thoả mãn cao hơn nếu không đồng thời chăm lo đến lợi ích tập thể và lợi ích xã hội.Vì thế các quyết định quản lý phải có tác dụng huy động sự đóng góp về trí tuệ, sức lực và cơ sở vật chất để xây dựng tổ chức và người lao động có cơ hội để thoả mãn lợi ích, đồng thời được hưởng thụ các khoản phúc lợi tập thể. - Thứ ba, phải coi trọng lợi ích vật chất tinh thần của tập thể và người lao động. Trong khi lao động còn là một hoạt động bắt buộc đối với con người thì vấn đề khuyến khích lợi ích vật chất đối với người lao động phải đặt lên vị trí ưu tiên thoả đáng. Song không phải vì thế mà coi nhẹ hoặc phủ nhận khuyến khích lợi ích tinh thần thong qua các phương pháp động viên,giáo dục chính trị tư tưởng, thưởng phạt, cất nhắc, đề bạt vào các chức vụ công tác thích hợp. Khuyến khích lợi ích tinh thần về thực chất là sự đánh giá của tập thể và xã hội đối với sự cống hiến cuẩ mọi người ,là sự khẳng định thang bậc về giá trị của họ trong cộng đồng.Cũng thong qua các hình thức khuyến khích đó người lao động nhận biết được kết quả, ý nghĩa của công việc mình làm,Vì thế nó rất cần thiết đối với bất kỳ ai vào thời gian nào. 2.4/ Chuyên môn hoá Nguyên tắc chuyên môn hoá đòi hỏi việc quản lý phải được thực hiện bởi những người có chuyên môn, được đào tạo,có kinh nghiệm và khả năng điều hành để thực hiện các mục tiêu của tổ chức một cách có hiệu quả và hiệu quả. Để có được những phẩm chất và năng lực này đòi hỏi các nhà quản lý cần phải nỗ lực không ngừng. Những kiến thức lý thuyết giúp cho việc tư duy có hệ thống,còn những kinh nghiệm,thực tế có thể tự tích luỹ bằng kinh nghiệm của bản than, đây là cơ sở của việc nâng cao hiệu quả của tổ chức. Bởi vậy một mặt những người hoạt động trong guồng máy hệ thống phải nắm vững chuyên môn nghề nghiệp ở vị trí công tác của mình,mặt khác họ phải ý thức được mối quan hệ của họ với những người khác thuộc guồng máy chung của tổ chức. Mối quan hệ phụ thuộc của mỗi bộ phận và nhân viên thừa hành nhất thiết phải được xác minh rõ rang, cần phải phân cấp và phân bố hợp lý các chức năng quản lý, bảo đảm sự cân xứng giữa các chức năng,nhiệm vụ, quyền hạn lợi ích của các bộ phận quản lý. Điều đó cho phép cán bộ quản lý có thể độc lập giải quyết công việc thuộc phạm vi chức năng của mình. 2.5/ Biết mạo hiểm Mạo hiểm không phải là liều lĩnh mà là sự phiêu lưu có tính toán. Nguyên tắc này đòi hỏi các nhà lãnh đạo tổ chức phải biết tìm ra các giải pháp độc đáo (nhất là các giải pháp công nghệ) để tăng sức cạnh tranh cho tổ chức. Giá trị của tính mạo hiểm là ở chỗ, nó đưa tới sự ra đời của một sản phẩm mới, một cải tiến mới trong công nghệ, đưa ra một phát minh mới về tổ chức quản lý, nhằm nâng cao năng suất lao động hoặc phát hiện ra một thị trường mới cho doanh nghiệp. Một nữ tiến sĩ kinh tế người Mỹ đã điều tra 100 người thành đạt trong sự nghiệp kinh doanh trên Thế Giới và phát hiện ra ở họ có 12 điểm chung. Trong đó tính mạo hiểm “Sai lầm vẫn không nao núng” được coi là một trong những điểm quan trọng nhất. Dám mạo hiểm phải đi đôi với dám chịu trách nhiệm về hậu quả do đó nó đòi hỏi nhà quản lý phải tự tin trên cơ sở tỉnh táo xem xét cân nhắc. Lòng tự tin giúp nhà lãnh đạo có được các quyết định táo bạo, gây ra một số “đảo lộn hợp lý, có hiệu quả” nhằm biến đổi tình thế . Chủ hang Mitshushita- nơi sản xuất các mặt hàng điện tử mang nhãn hiệu JVC đã rút ra điều này:”Nếu ta tin vào những nguyên tắc vững chắc đến mức ta sẵn sang biến chúng thành một bộ phận của con người ta thì không có khó khăn nào mà ta không thể đương đầu và vượt qua. Cứ nghĩ tới thành công rồi ta sẽ mặc nhiên tạo ra những hoàn cảnh và những cuộc vận động dẫn tới thành công. Một tờ báo Pháp viết : “Mạo hiểm và tự tin là mẹ đẻ ra tất cả của cải, vật chất trên đời ngồn ngộn sinh sôi nay nảy nở không ngừng.” 2.6/ Hoàn thiện không ngừng Ngày nay chúng ta đang sống trong một kỉ nguyên mà những thay đổi trên tất cả mọi phương diện của đời sống xã hội diễn ra với một tốc độ bão táp. Peter F. Drucker đã gọi thời đại chúng ta là” thời đại bão táp”. Trong thời đại này nền kinh tế Thế Giới đang được toàn cầu hoá một cách hết sức mạnh mẽ và trong tương lai gần sẽ không còn công nghệ hay sản phẩm quốc gia, công ty quốc gia hay ngành kinh doanh Tài sản quan trọng nhất của mỗi quốc gia, mỗi tổ chức là các kỹ năng quản lý và sáng kiến của các thành viên của nóCác tổ chức, các công ty, doanh nghiệp sẽ trở thành những mạng lưới toàn cầu, hoạt động trong một môi trường cạnh tranh toàn cầu trong bối cảnh đó, các tổ chức và các nhà quản lý cần hoạch định chiến lược,uỷ quyền tối đa, đổi mới liên tục về nhận thức, hành động để thích nghi và phát triển bền vững trong một Thế Giới luôn thay đổi. Trong hoạt động nếu đợi cho là một phương sách đạt được sự hoàn mỹ thì sẽ là không tưởng hoặc là chậm trễ. Nếu chần chừ, do dự sẽ bỏ lỡ cơ hội. Bởi vậy phải hành động khi độ tin cậy của các phương án mới chiếm một tỷ lệ khả quan. Người quản lý phải biết khai thác các thông tin có lợi từ mọi nguồn để kịp thời có đối sách tận dụng thời cơ. Đặc biệt là các thông tin về cung cầu,công nghệ mới,về chính sách của Nhà nước có liên quan và về sự biến động trong cách thức quản lý của các tổ chức khác có ảnh hưởng tới tổ chức mình. Đây là mối quan hệ giứa thế và lực của hệ thống. Lực là tiềm năng của hệ thống còn thế là mối quan hệ cảu hệ thống với môi trường. Vì vậy có thể nói rằng quản lý là một quá trình rất năng động và đổi mới không ngừng. Sự thành công của các nhà quản lý, sự sống còn của tổ chức phụ thuộc phần lớn vào những chiến lược đổi mới hữu hiệu. Bởi vậy nhiều tổ chức kinh doanh lớn có tiếng tăm đang tiến hành việc hoàn thiện và đổi mới tại tất cả các cấp và trong hầu hết toàn bộ các chức năng của tổ chức; mở rộng và nâng cao năng lực sáng tạo của nhân viên. Cần phải thưởng cho tất cả những ai có sáng kiến, nếu không sẽ làm thui chột niềm say mê của họ, trên cơ sở đó thúc đẩy tổ chức phát triển, phù hợp, và thích nghi với sự thay đổi của môi trường. 2.7/ Tiết kiệm và hiệu quả Là nguyên tắc quyết định mục tiêu của quản lý,bao gồm cả hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội, nguyên tắc tiết kiệm và hiệu quả đòi hỏi người quản lý phải có quan điểm hiệu quả đúng đắn, biết phân tích hiệu quả trong từng tình huống khac nhau, biết đặt lợi ích của tổ chức lên trên lợi ích cá nhân, từ đó ra các quyết định tối ưu nhằm tạo được các thành quả có lợi nhất cho nhu cầu phát triển của tổ chức. Tiết kiệm và hiệu quả là vấn đề mang tính quy luật của các tổ chức kinh tế-xã hội. Tiết kiệm không đồng nghĩa với hạn chế tiêu dùng. Vấn đề là tiêu dùng phù hợp trên khả năng và điều kiện cho phép.Trong nhiều trường hợp cần pahỉ kích thích tiêu dùng để khắc phục tình trạng thiểu phát,thúc đẩy sản xuất phát triển. Tiết kiệm cũng không phải là chi ít tiền mà là chi tiêu và sử dụng đồng tiền sao cho có thể sản xuất ra nhiều sản phẩm hàng hoá có chất lượng cao, giá thành hạ, thoả mãn nhu cầu của thị trường. Khi cần thiết phải tăng chi phí bằng cách đầu tư nhằm tạo việc làm và tăng khối lượng hàng hoá và dịch vụ cho xã hội. Hiệu quả được xác định bằng cách đầu tư nhằm tạo việc làm và tăng khối lượng hàng hoá dịch vụ cho xã hội. Hiệu quả được xác định bằng kết quả so với chi phí. Tăng kết quả bằng cách tăng năng suất lao động. Giảm chi phí bằng cách tiết kiệm các yếu tố đầu vào và tiết kiệm thời gian. Cũng có thể tăng hiệu quả bằng cách tăng chi phí sản xuất để tăng kết quả với tốc độ nhanh hơn và quy mô lớn hơn. Như vậy giữa tiết kiệm và hiệu quả có mối quan hệ hữu cơ với nhau. Hiệu quả chính là tiết kiệm theo nghĩa rộng và đầy đủ nhất. Hoạt động quản lý chỉ cần thiết và có ý nghĩa khi chủ thể quản lý biết lấy vấn đề tiết kiệm và hiệu quả làm nguyên tắc hoạt động của mình. Nguyên tắc này đòi hỏi nhà quản lý phải đưa ra các quyết định quản lý sao cho với một lượng chi phí nhất định có thể tạo ra nhiều giá trị sử dụng và lợi ích nhất để phục vụ cho con người. Để đạt được các yêu cầu trên cần phải giảm thiểu lao động vật hoá và lao động sống trong việc sản xuất ra một đơn vị sản phẩm. Giảm thiểu lao động vật hoá được thực hiện thông qua việc lựa chọn và ứng dụng công nghệ tiên tiến vào sản xuất, xây dựng các định mức kinh tế kỹ thuật hợp lý, khai thác triệt để công suất máy móc thiết bị nhằm khấu hao nhanh, hạn chế hao mòn hữu hình và hao mòn vô hình. Đặc biệt trong điều kiện kinh tế thị trường cần có chính sách và cơ chế thuận lợi khuyến khích các thnàh phần kinh tế sử dụng lao động, tiền vốn tại chỗ để sản xuất tại chỗ nhằm tiết kiệm thời gian, hạ giá thành sản phẩm, đồng thời khai thác tiềm năng kinh tế của các tổ chức. Mặt khác phải không ngừng đổi mới cơ cấu tổ chức quản lý trong nội bộ tổ chức theo định hướng tinh giản thật sự vì nhu cầu công việc vạ hiệu quả cao. Trong thực tiễn quản lý có rất nhiều nguyên tắc với tính chất và thứ bậc khác nhau, do nhiều tổ chức, nhiều cấp đề ra. Bởi vậy các nguyên tắc cần đảm bảo tính thống nhất trong hệ thống các nguyên tắc, cần phải được cụ thể hoá thành các quy phạm pháp luật và những chuẩn mực cụ thể Các nguyên tắc quản lý cơ bản trên đây thuộc về các nguyên tắc bậc cao,bậc quy luật,nó định hướng cho sự hoạt động của người quản lý. Sự vi phạm nguyên tắc này sẽ gây cho cả hệ thống những tổn thất nặng nề. Trong tình hình quản lý kinh tế xã hội hiện nay, việc vận dụng các nguyên tắc đòi hỏi các nhà quản lý phải nắm vững nội dung và thực chất của nguyên tắc đẻ từ đó đưa ra những hình thức và giải pháp thích hợp. Đồng thời nhà quản lý phải biết phân biệt được các loại nguyên tắc, phải tự giác tôn trọng và kiên trì thực hiện các nguyên tắc,mặt khác phải khắc phục những nguyên tắc lỗi thời trái với quy luật để đấu tranh loại bỏ dần, tạo cho các nguyên tắc ngày càng phù hợp với quy luật khách quan và phù hợp với đối tượng quả. CHƯƠNG III VẬN DỤNG CÁC NGUYÊN TẮC TRONG QUẢN LÝ Vận dụng ngyên tắc trong thực tiễn quản lý là một hoạt động sang tạo. Người quản lý giỏi là người biết vận dụng một cách thích hợp các nguyên tắc vào những tình huống và đối tượng cụ thể. Nắm vững thực chất của nguyên tắc,am hiểu sâu sắc đối tượng quản lý,sang tạo những hình thức và biện pháp thích hợp là những điều cơ bản bảo đảm vận dụng đúng đắn những nguyên tắc. Tuy nhiên đây là một vấn đề rất phức tạp, nó tuỳ thuộc vào trình độ và nghệ thuật của nhà quản lý. Trong quá trình vận dụng nguyên tắc quản lý phải chú ý một số vấn đề cơ bản sau: 1/ Coi trọng việc hoàn thiện hệ thống nguyên tắc quản lý Nguyên tắc quản lý vừa mang tính chủ quan,vừa mang tính khách quan. Nhận thức của nhà quản lý luôn có giới hạn trong khi các quá trình kinh tế,môi trường quản lý diễn ra rất đa dạng và thay đổi thường xuyên. Vì vậy phỉa không ngừng nghiên cứu lý luận đẻ nâng cao khả năng nhận thức quy luật, đồng thời tổng kết thực tiễn nhằm hoàn thiện nội dung các nguyên tắc phù hợp với sự vận hành của cơ chế quản lý. Việc hoàn thiện hệ thống nguyên tắc quản lý còn đòi hỏi một mặt phải tự giác,tôn trọng và kiên trì tuân thủ các nguyên tắc, mặt khác cần phải phát hiện những nguyên tắc không còn phù hợp, bổ sung những nguyên tắc mới phù hợp với quy luật khách quan và do sự đòi hỏi của thực tiễn quản lý. 2/ Vận dụng tổng hợp các nguyên tắc quản lý Mỗi nguyên tắc đều có mục đích, nội dung và yêu cầu riêng đối với quá rình quản lý. Bởi vậy khi ra quyết định quản lý, khi phân tích thực trạng của tổ chức phải làm rõ đâu là quan điểm nguyên tắc cơ bản ở bậc quy luật,tức là thuộc bản chất,còn đâu là nguyên tắc thuộc thể chế cụ thể. Cần thấy rằng quy luật, nguyên tắc nằm trong hệ thống,và trong hệ thống đó,quy luật,nguyên tắc cũng có hệ thống thứ bậc của nó. Có các quy luật, nguyên tắc cơ bản so với quy luật nguyên tắc khác. Từ đó phải vận dụng tổng hợp các nguyên tắc quản lý trong việc xây dựng cơ chế, chính sách, công cụ, phương pháp, cơ cấu tổ chức bộ máy nhằm phát huy ưu thế của từng nguyên tắc, đồng thời đảm bảo các nhân tố cần thiết cho quá trình quản lý- đó là: Mục tiêu, động lực,phương tiện, điều kiện và phương pháp quản lý. 3.Lựa chọn hình thức và phương pháp vận dụng nguyên tắc Hệ thống nguyên tắc chi phối việc hình thành các quyết định quản lý ở cả tầm vĩ mô và vi mô.Tuy nhiên phải tuỳ thuộc vào đối tượng quản lý cấp quản lý và những điều kiện kinh tế-xã hội cụ thể để lựa chọn và quyết định hình thức,phương pháp vận dụng các nguyên tắc quản lý. Đây chính là cơ sở để nâng cao chất lượng và hiệu quả các chức năng quản lý, làm cho các hoạt động quản lý không chỉ là những tác động mang tính tác nghiệp đơn thuần mà còn mang tính xã hội sâu sắc. Muốn vậy phải nắm vững chiến lược phát triển kinh tế-xã hội của đất nước,chiến lược sản xuất-kinh doanh của tổ chức hiểu rõ nội dung, yêu cầu của các nguyên tắc, thực trạng kinh tế-xã hội của quốc gia, năng lực sản xuất kinh doanh của tổ chức. Ngoài ra còn cần phải tiếp cận kinh nghiệm và những thành tựu mới, tiến bộ của nhân loại về quản lý, để vạn dụng có hiệu quả các nguyên tắc trong việc đề ra các quyết định quản lý. 4. Cần có quan điểm toàn diện và hệ thống trong việc vận dụng các nguyên tắc quản lý Trong quá trình quản lý,hệ thống nguyên tắc giữ vai trò định hướng cho việc hình thành các quyết định quản lý, bao gồm phương pháp, cơ chế, công cụ, tổ chức bộ máy quản lýChính vai trò định hướng đó đã quy định tính toàn diện và tính hệ thống của nguyên tắc quản lý, tạo nền tảng cho việc khai thác tối đa tiềm năng của tổ chức để tăng trưởng và phát triển. CHƯƠNG IV THỰC TẾ TÌNH HÌNH CÁC NGUYÊN TẮC TRONG DOANH NGHIỆP VIỆT NAM 1.Chưa dung hòa lợi ích các bên Trong những ngày đầu năm 2006 tại thành phố Hồ Chí Minh khoảng 11000 công nhân của 6 doanh nghiệp đầu tư nước ngoài FDI đồng loạt đình công đòi tăng lương tối thiểu. Sở dĩ có cuộc đình công rầm rộ này vì các công nhân thấy cuộc đình công của 18000 công nhân công ty FREETREND đạt được hiệu quả và được chủ sử dụng lao động chấp nhận nâng 25,5% lương. Nguyên nhân cơ bản của các vụ đình công này là do việc các cơ quan hữu quan chậm ban hành các văn bản hướng dẫn cho giới sử dụng lao động về việc tăng lương tối thiểu của khối doanh nghiệp FDI từ ngày 1/1/2006. Ngay khi sự việc xảy ra, ngày 6/1/2006 chính phủ đã ban hành nghị định 03/2006 NĐ-CP về việc quy định mức lương tối thiểu trong doanh nghiệp FDI.Theo đó từ ngày 1/2/2006 mức lương tối thiểu trong khu vực này là 710000-870000/tháng. Như vậy mức lương này tăng 38% so với mức đã áp dụng từ 1999. Các vụ đình công này diễn ra là chính đáng trong bối cảnh giá cả thị trường ngày một gia tăng,song việc công nhân đình công tự phát là hoàn toàn trái pháp luật. Lỗi là do ai? Câu trả lời là do cả hai phía Quan hệ giữa người lao động và người quản lý, người sử dụng lao động là quan hệ bình đẳng, đôi bên cùng có lợi và được điều chỉnh theo pháp luật hiện hành. Nguyên tắc quản trị đã chỉ ra điều này:” Phải hài hoà mọi lợi ích”. Mâu thuẫn chỉ xảy ra khi quyền lợi của mỗi bên bị ảnh hưởng. Để có thể làm hài hoà mối quan hệ này chỉ có cách các bên cùng nhau đối thoại để tháo gỡ vướng mắc. (Theo số liệu của báo Doanh Nhân-2006) 2.Còn lơi là quản lý,quản lý kém hiệu quả Để đánh giá tình hình thực hiện bộ luật lao động, luật công đoàn và điều lệ BHXH trong năm 2002 của các doanh nghiệp, sở LĐ TBXH, LĐLĐ và BHXH tỉnh Hà Tĩnh đã phối hợp kiểm tra. Qua kiểm tra 82 doanh nghiệp sản xuất kinh doanh do địa phương và trung ương quản lý trên địa bàn tỉnh,với số liệu kiểm tra hợp đồng lao động dài hạn là 9119 người, hợp đồng ngắn hạn là 1192 người, hợp đồng thời vụ 4503 người. Về lao động thấy rằng người sử dụng lao động trong các doanh nghiệp ký với một số lượng lớn hợp đồng lao động ngắn hạn,hợp đồng thời vụ để tránh,lách nộp BHXH cho người lao động. Trong số lao động đóng BHXH 11685 thì số không tham gia đóng BHXH là 6294 người. Trong 63 doanh nghiệp có thoả ước lao động tập thể thì số còn quyết định công nhận của sở LĐTBXH là 26. Qua kiểm tra liên ngành thấy bộc lộ rõ tình trạng Bộ luật lao động, luật công đoàn, điều lệ BHXH chưa thẩm thấu tới người lao động và người sử dụng lao động. Đoàn kiểm tra thấy một thực tế đáng báo động: có 84 doanh nghiệp tư nhân có đăng ký kinh doanh nhưng không có doanh nghiệp nào hoạt động tại địa điểm, địa chỉ đã đăng kí. Từ thực tế trên thấy rằng các cơ quan chức năng còn buông lỏng quản lý, ít doanh nghiệp kiểm tra giám sát, và sự coi thường luật thường luật pháp của một số doanh nghiệp. (Theo báo Lao Động -2002) KẾT LUẬN Quản trị là một khoa học, là một nghệ thuật. Để quản trị tốt các nhà quản trị hơn ai hết phải nắm vững những nguyên tắc quản trị. Để từ đó định hướng và có quyết định hợp lý mang lại kết quả cao cho doanh nghiệp của mình. Việc nghiên cứu và nhận thức các nguyên tắc quản trị trong doanh nghiệp có một vai trò hết sức quan trọng. Nó là những tiền đề, cơ sở cơ bản về những kiến thức quản trị. Qua các ví dụ thực tế như trên, các con số cụ thể dã phần nào phản ánh đúng thực tế của Việt Nam. Thực tế đã chứng minh rằng nguyên tắc quản trị vẫn chưa được thực sự áp dụng một cách linh hoạt, khôn khéo. Một đặc điểm lớn của thực trạng Việt nam nữa là cơ quan quản lý các doanh nghiệp vẫn còn lơi là. Thực trạng ấy đ ược chỉ rõ ở những con số của báo lao động đề cập. Quyền lợi của các bên không đảm bảo, tính hiệu quả giảm dần. Việc đề ra các nguyên tắc đã khó nhưng nhận thức và vận dụng chúng Trong thực tế kinh doanh còn khó gấp bội phần. Do đó các nhà lãnh đạo, quản lý phải hết sức sáng tạo và linh hoạt. TÀI LI ỆU THAM KHẢO 1. Mai Văn Bưu, Phan Kim Chiến - Lý thuyết Quản trị kinh doanh - NXB Khoa học và Kỹ thuật - ĐHKTQD 2. Anh Cường, Hương Trang - Nguyên tắc quản lý xưa và nay - NXB Tài chính Hà Nội - 2006. 3. Đoàn Thị Thu Hà, Nguyễn Thị Ngọc Huyền - Khoa học quản lý (tập1) - ĐHKTQD - NXB Khoa học và Kỹ thuật năm 2004. 4. Đỗ Hoàng Toàn, Nguyễn Kim Truy - Quản trị Kinh doanh - NXB Thống kê- 3/2005 5. Báo Lao động số 22 năm 2002. 6. Báo danh nhân số 48 năm 2006 MỤC LỤC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc4779.doc
Tài liệu liên quan