Bảo quản sạch, tức là bảo quản cẩn
thận thức ăn đã nấu chín, các dụng cụ dùng
để bảo quản cần được rửa sạch thường
xuyên; các thực phẩm không nên để qua
ngày hôm sau; hạn chế bảo quản thức ăn
trong tủ lạnh lâu ngày. Nếu phải chuẩn bị
thức ăn trước hoặc phải đợi sau 3 giờ mới ăn
thì cần giữ nóng ở nhiệt độ 60oC hoặc duy trì
ở điều kiện lạnh ≤ 10oC, nhưng lưu ý là không
đưa quá nhiều thức ăn còn ấm hoặc thức ăn
còn đang nóng vào tủ lạnh và không để lẫn
thực phẩm sống với thức ăn chín. Sau khi bỏ
thức ăn trong tủ lạnh ra thì phải đun lại thức
ăn trước khi ăn là biện pháp tốt nhất để
phòng ngừa các vi khuẩn phát triển trong quá
trình bảo quản.
Ngoài ra chúng ta cần rửa tay trước khi
chế biến thức ăn và sau mỗi lần gián đoạn
để làm việc khác. Nếu bạn bị nhiễm trùng ở
bàn tay, hãy băng kín kỹ vết thương nhiễm
trùng đó trước khi chế biến thức ăn. Cần
rửa tay sạch trước khi ăn và sau khi đi vệ
sinh. Và cuối cùng là khống chế đến mức tối
đa, hạn chế đến mức tối thiểu các nguy cơ
dẫn đến NĐTP bằng cách cung cấp các kiến
thức để nâng cao nhận thức của người dân
về VSATTP, phòng chống NĐTP qua các
thông tin đại chúng. Đồng thời xây dựng
một hệ thống kiểm soát dựa trên nguy cơ áp
dụng các nguyên tắc đánh giá nguy cơ, quản
lý nguy cơ và truyền thông nguy cơ đã được
WHO xây dựng.
9 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 12 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Thực trạng bệnh nhân nhập viện do ngộ độc thực phẩm tại khoa nhiễm bệnh viện đa khoa tỉnh Lâm Đồng từ tháng 11/2014 đến tháng 5/2015, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TẠP CHÍ KHOA HỌC YERSIN – CHUYÊN ĐỀ KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ
Tập 06 (12/2019) 90
THỰC TRẠNG BỆNH NHÂN NHẬP VIỆN DO NGỘ ĐỘC
THỰC PHẨM TẠI KHOA NHIỄM BỆNH VIỆN ĐA KHOA
TỈNH LÂM ĐỒNG TỪ THÁNG 11/2014 ĐẾN THÁNG 5/2015
Đinh Thị Hoài Thương1
Title: Current situation of
food poisioning in infectious
disease ward at Lamdong
general hospital from
November 2014 to May
2015
Từ khóa: Ngộ độc thực
phẩm (NĐTP), vệ sinh an
toàn thực phẩm, vi sinh vật
Keywords: Food poisoning,
food safety,
microorganisms
Lịch sử bài báo:
Ngày nhận bài: 6/5/2019;
Ngày nhận kết quả bình
duyệt: 9/5/2019;
Ngày chấp nhận đăng bài:
25/5/2019.
Tác giả: Trường Đại học
Yersin Đà Lạt
Email:
hoaithuong200394@gmail.
com
TÓM TẮT
Ngộ độc thực phẩm (NĐTP) là một tình trạng bệnh lí xảy ra do
ăn uống phải các thức ăn bị ô nhiễm các chất độc hại đối với cơ thể
con người. Nếu chúng ta thiếu cẩn trọng trong việc lựa chọn, chế biến,
sử dụng và bảo quản thực phẩm thì nguy cơ NĐTP rất dễ xảy ra. Bên
cạnh đó, người dân còn thiếu kiến thức và thực hành trong việc phòng
ngừa nguy cơ xảy ra NĐTP. Vì vậy, nghiên cứu này thực hiện bởi mục
tiêu là tìm ra nguyên nhân NĐTP và đưa ra các khuyến cáo về phòng
chống NĐTP ở cộng đồng. Qua quá trình thực hiện nghiên cứu trên
113 bệnh nhân cho thấy có 59.3% NĐTP do vi khuẩn gây nên, 25.7%
do nấm và 15% là do nguyên nhân khác. Yếu tố nguy cơ xảy ra NĐTP
là không có thói quen rửa tay chiếm 64.6%. Từ kết quả trên, khuyến
nghị đến cộng đồng để ngăn chặn NĐTP không xảy ra điều đầu tiên là
ngăn chặn tất cả nguy cơ có thể dẫn đến NĐTP.
ABSTRACT
Food poisoning is a medical condition that occurs due to eating
and drinking contaminated food that toxic substances which are
harmful to the human body. If we lack cautions in choosing,
processing, using and preserving food, the risks of food poisoning are
very likely to occur. Moreover, people still lack knowledge and practice
in preventing the risks of food poisoning. So, this study is carried out
with the goal of finding out the causes of food poisoning and making
recommendations on preventing food poisoning in the community.
Over the course of the study, 113 patients showed 59.3% of bacterial
food poisoning, 25.7% caused by fungi and 15% by other causes. No
handwashing habit owns 64.6% in the risk factors for food poisoning.
From the above results, the first thing in the recommendations to the
community to prevent food poisoning from happening is preventing all
risks that can lead to food poisoning
1. Đặt vấn đề
Thế kỉ 21 - thế kỉ của công nghệ, thế kỉ
của sự phát triển thịnh vượng. Thế kỉ chứa
đầy cơ hội và thách thức, thế kỉ mà con
người luôn phải chạy với tốc độ nhanh nhất
để kịp với thời đại. Chính vì thế nhu cầu ăn
uống nhanh của con người ngày càng tăng,
ít đi những bữa cơm gia đình mà thay vào
đó là đồ ăn nhanh, đồ ăn sẵn, các quán ăn
vỉa hè. Vì vậy, tình hình an toàn thực phẩm
(ATTP) ngày càng diễn tiến phức tạp và khó
kiểm soát. Và hậu quả cuối cùng chính là
NĐTP. NĐTP không chỉ gây ảnh hưởng trực
tiếp tới sức khoẻ và cuộc sống của mỗi
người, mà còn liên quan chặt chẽ đến năng
suất, hiệu quả phát triển kinh tế, thương
mại, du lịch và an sinh xã hội. Đảm bảo
ATTP góp phần quan trọng thúc đẩy phát
triển kinh tế - xã hội, xoá đói giảm nghèo và
hội nhập quốc tế. Như vậy, NĐTP là vấn đề
TẠP CHÍ KHOA HỌC YERSIN – CHUYÊN ĐỀ KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ
Tập 06 (12/2019) 91
được đặc biệt quan tâm của toàn xã hội và
là một thách thức lớn đối với mỗi quốc gia.
Theo báo cáo gần đây của Tổ chức Y tế
Thế giới (WHO), hơn 1/3 dân số các nước
phát triển bị ảnh hưởng của các bệnh do
thực phẩm gây ra mỗi năm. Đối với các
nước đang phát triển, tình trạng lại càng
trầm trọng hơn nhiều, hàng năm gây tử
vong hơn 2,2 triệu người, trong đó hầu hết
là trẻ em. Các vụ NĐTP có xu hướng ngày
càng tăng. Nước Mỹ hiện tại mỗi năm vẫn có
76 triệu ca NĐTP với 325.000 người phải
vào viện và 5.000 người chết. Trung bình cứ
1.000 dân có 175 người bị NĐTP mỗi năm
và chi phí cho 1 ca NĐTP mất 1.531 đôla Mỹ
(US - FDA 2006) Tại Việt Nam, theo thống kê của của Bộ
Y tế năm 2013, trung bình mỗi năm Việt Nam
xảy ra: 250 - 500 vụ NĐTP, 7000-10000 nạn
nhân nhập viện, 100-200 ca tử vong; nhà
nước tiêu tốn hơn 3 tỉ đồng cho việc xét
nghiệm, điều trị, điều tra nguyên nhân; chi phí
do bệnh viện chịu còn lớn hơn nhiều.... Ở Việt
Nam, tình hình ô nhiễm môi trường ngày
càng tăng, việc lạm dụng hóa chất, thuốc trừ
sâu, chất bảo quản thực vật ngày càng
nhiều. Vì thế tình trạng NĐTP có xu hướng
tăng và ảnh hưởng không nhỏ tới sức khoẻ
cộng đồng. Bên cạnh đó việc sản xuất, kinh
doanh thực phẩm ở nước ta cơ bản vẫn là
nhỏ lẻ, quy mô hộ gia đình nên việc kiểm
soát an toàn vệ sinh rất khó khăn.
Đà Lạt – Lâm Đồng từ lâu được mệnh
danh là thành phố du lịch, thu hút đông đảo
các du khách trong và ngoài nước cũng như
khách nước ngoài. Theo thống kê năm
2015, có gần 5 triệu lượt khách du lịch đến
với thành phố này. Vì vậy, một trong những
tiêu chí đầu tiên của ngành du lịch là đảm
bảo an toàn vệ sinh thực phẩm để đảm bảo sức khỏe và tính mạng cho du khách. Nhưng
tình hình hiện nay, NĐTP ngày có xu hướng
gia tăng làm ảnh hưởng không nhỏ đến phát
triển du lịch. Theo thống kê từ năm 2011
đến 9 tháng đầu năm 2013, tại tỉnh Lâm
Đồng, đã xảy ra 12 vụ NĐTP với 827 người
mắc và 4 người tử vong với nhiều nguyên
nhân khác nhau. Từ những lí do trên tôi thực hiện đề tài
nghiên cứu: “Khảo sát tình hình bệnh nhân
nhập viện do ngộ độc thực phẩm tại khoa
Nhiễm – Bệnh viện Đa khoa tỉnh Lâm Đồng từ
tháng 11 năm 2014 đến tháng 5 năm 2015”.
Kết quả nghiên cứu sẽ đưa ra những khuyến
cáo cho cộng đồng về phòng chống NĐTP.
2. Tổng quan tài liệu và phương
pháp nghiên cứu
2.1. Tổng quan tài liệu
2.1.1 Tầm quan trọng của thực phẩm
Thực phẩm là bất kỳ vật phẩm nào, bao gồm chủ yếu các chất: glucid, protid, lipid,
vitamin và muối khoáng mà con người hay
động vật có thể ăn hay uống được, với mục
đích cơ bản là thu nạp các chất dinh dưỡng
nhằm nuôi dưỡng cơ thể hay vì sở thích. Các
thực phẩm có nguồn gốc từ thực vật, động
vật, vi sinh vật hay các sản phẩm chế biến từ
phương pháp lên men như rượu, bia.(Phạm
Duy Tường, năm 2008)
2. 1.2 Bệnh lí NĐTP
NĐTP là hội chứng cấp tính xảy ra đột ngột do ăn phải thức ăn có chất độc. Biểu
hiện bằng các triệu chứng rối loạn tiêu hóa
(đau bụng, nôn, tiêu chảy, nhức đầu, sốt...)
hoặc những triệu chứng khác tùy theo
nguyên nhân gây ngộ độc. (Phạm Duy
Tường, năm 2008).
Đặc diểm dịch tễ học NĐTP
Trên thực tế chúng ta thấy được giai
đoạn ủ bệnh ngắn: đối với NĐTP do liên cầu
khuẩn thời gian ủ bệnh thường là từ 2 – 14
giờ, do Salmonella thường từ 12 – 24 giờ, do
Clostridium botulinum hoặc thức ăn bị biến
chất, thời gian ủ bệnh càng ngắn hơn. Khởi
bệnh bùng phát ở mức độ cao: các trường
hợp NĐTP bùng phát nhanh và cao trong
vòng 4 – 18 giờ, hầu hết các trường hợp đều
biểu hiện triệu chứng. Quy luật chung là
không có trường hợp thứ phát. NĐTP
TẠP CHÍ KHOA HỌC YERSIN – CHUYÊN ĐỀ KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ
Tập 06 (12/2019) 92
thường xuất hiện đột ngột và khi được xử
trí kịp thời thì kết thúc nhanh chóng.
Điều kiện tự nhiên, phong tục tập quán
ăn uống, điều kiện sinh hoạt: Điều kiện sản
xuất khác nhau thì nguy cơ thực phẩm
không an toàn cũng khác nhau. Tùy từng
lúc, từng nơi, sẽ có nhiều thể loại NĐTP
khác nhau. Ví dụ như: Ngộ độc do vi sinh vật
(VSV) chủ yếu xảy ra vào mùa hè (từ tháng
5 đến tháng 10, trong đó từ tháng 6 đến
tháng 9 là nhiều hơn cả) vì nhiệt độ trong
thời gian này thích hợp cho vi sinh vật phát
triển mạnh, bên cạnh đó, còn có ngộ độc do
ăn phải thức ăn có chứa độc tố như: Rau dại, nấm độc thường ở miền núi, do cá nóc
thường ở vùng biển.
Qua thực tế chúng ta thấy được, NĐTP
do vi sinh vật chiếm tỷ lệ cao nhưng tỷ lệ tử
vong thấp, trong khi đó NĐTP không phải
do VSV có tỷ lệ thấp hơn nhưng tỷ lệ tử vong
lại rất cao như ngộ độc thức ăn có sẵn chất
độc, do hóa chất Nói tóm lại, tùy từng loại
tác nhân mà có hậu quả khác nhau. (Phạm
Duy Tường, năm 2008)
Các con đường lây nhiễm vi sinh vật
vào thực phẩm
Sơ đồ 1: Các con đường lây nhiễm vi sinh
vật vào thực phẩm
Thực phẩm hay gặp trong NĐTP
Thường là các loại thực phẩm có nguồn gốc động vật có giá trị dinh dưỡng cao như
thịt các loại gia súc, gia cầm. Cá và các sản
phẩm của cá; sữa và các chế phẩm của sữa;
trứng và các chế phẩm của trứng; rau và hoa
quả. Nhìn chung, thực phẩm dễ nhiễm vi
sinh vật thường có độ ẩm cao, có pH kiềm
và có trạng thái lí hóa thuận tiện cho sự
nhiễm trùng và sự phát triển nhanh chóng
trong toàn bộ khối thực phẩm. (Trường Đại
học Y dược Hà Nội, Bộ môn Dinh dưỡng –
An toàn thực phẩm, 2004)
Nhận biết một vụ bị NĐTP
Gọi là một vụ NĐTP khi số bệnh nhân
mắc phải trên 30 bệnh nhân tại cùng một địa
điểm ăn uống. Sau khi ăn hay uống một thực
phẩm bị nhiễm độc, người bệnh thấy đột ngột
có những triệu chứng (sau vài phút, vài giờ, có
thể sau 1 ngày): buồn nôn và nôn ngay, có khi
nôn cả ra máu, đau bụng, tiêu chảy nhiều lần
(phân, nước tiểu có thể có máu) có thể không sốt hay sốt cao trên 38˚C. Ở người cao tuổi và
trẻ nhỏ dưới 5 tuổi, các triệu chứng thường nặng. Nếu nôn và đi ngoài nhiều lần sẽ bị mất
nước, mất điện giải, trụy tim mạch rất dễ dẫn
đến sốc nhiễm khuẩn nếu nguyên nhân do vi
khuẩn gây nên. Vì thế phải rất lưu ý đến
những dấu hiệu mất nước mà biểu hiện rõ
nhất là nôn nhiều trên 5 lần, đi ngoài phân
lỏng trên 5 lần, sốt cao, khô miệng, khô môi,
mắt trũng, khát nước (cần lưu ý ở người già
hay bị mất nước nặng lại không kêu khát
nước do tuổi cao làm mất cảm giác khát);
mạch nhanh, thở nhanh, mệt lả, có thể co giật,
nước tiểu ít, sẫm màu. (Võ Trung Tuấn & Đỗ
Văn Dũng,2013)
Các nguyên nhân gây ngộ độc thực
phẩm
Theo thống kê của Tổ chức Y tế thế giới,
một số nguyên nhân thường gặp trong
NĐTP là:
Súc vật
bị bệnh Môi trường Chế biến
Mổ
thịt
Ô nhiễm
đất, nước,
không
khí.
Tay, người
lành mang
trùng. Dụng
cụ mất vệ
sinh.
Điều kiện
mất vệ
sinh. Không
che đậy.
Ruồi, bọ,
Nấu
không
kỹ
Nhiễm
vào thực
phẩm
Nhiễm
vào thực
phẩm
Nhiễm
vào thực
phẩm
Bảo
quản
Người ăn
TẠP CHÍ KHOA HỌC YERSIN – CHUYÊN ĐỀ KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ
Tập 06 (12/2019) 93
- Vi sinh vật: Môi trường ô nhiễm, thức
ăn bảo quản không đúng cách hoặc bị nhiễm
các chất độc hại dẫn đến ngộ độc thức ăn,
làm ảnh hưởng đến sức khỏe và giảm chất
lượng cuộc sống con người. Theo nghiên
cứu mới đây, đưa ra danh sách thủ phạm
gây ra các trường hợp ngộ độc thức ăn:
Salmonella, E.coli, Staphylococcus aureus,
Clostridium botulinum, Shigella
- Nấm
- Một số nguyên nhân khác gây ngộ
độc thực phẩm: Nhiều nguyên nhân khác
gây ô nhiễm thực phẩm ở rất nhiều khâu
trong chuỗi dây truyền sản xuất, bảo quản,
chế biến thực phẩm như các dụng cụ dùng
(dao, thớt, rổ, nồi niêu xoong chảo, đôi bàn
tay, nước rửa). Ngộ độc do chất bảo quản, sử dụng chất ép trái cây chín nhanh, thuốc
bảo vệ thực vật, hóa chất, phụ gia.(Nguyễn
Công Khẩn, 2008)
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Đối tượng Đối tượng nghiên cứu là các bệnh
nhân nhập viện do NĐTP tại khoa Nhiễm -
Bệnh viện Đa khoa tỉnh Lâm Đồng từ tháng
11 năm 2014 đến tháng 5 năm 2015 và
đồng ý tham gia nghiên cứu.
2. 2.2. Thiết kế nghiên cứu Nghiên cứu sử dụng phương pháp mô
tả cắt ngang với cỡ mẫu toàn bộ dựa vào
báo cáo của khoa Nhiễm - Bệnh viện tỉnh Đa
khoa tỉnh Lâm Đồng từ tháng 11/2014 đến
tháng 5/2015.
2.2.3. Cách thu thập số liệu
- Dựa vào bệnh án của khoa Nhiễm
được chẩn đoán là NĐTP.
- Dựa vào kết quả xét nghiệm bệnh
phẩm của bệnh nhân.
- Hỏi bệnh nhân dựa vào bảng câu hỏi
có sẵn.
2.2.4. Quản lý và phân tích số liệu
Quản lý số liệu: Sau khi thu thập, phiếu
điều tra được kiểm tra tính đầy đủ của
thông tin. Sau đó phiếu được đưa lại cho
nghiên cứu viên để làm sạch, mã hóa và
nhập số liệu bằng phần mềm EpiData 3.1.
Xử lý số liệu bằng phần mềm SPSS 16.0.
Phân tích số liệu: Kết quả phân tích
được phân tích mô tả với các giá trị tỷ lệ, giá
trị trung bình phù hợp với bản chất biến số
đo lường.
3. Kết quả nghiên cứu và bàn luận
3.1. Thông tin chung
Bảng 4.1: Đặc điểm chung của đối
tượng tham gia nghiên cứu
Đặc điểm Số
lượng Tỉ lệ
Nhóm tuổi
Từ 16 đến
dưới 30 tuổi 21 18.58% Từ 30 đến
dưới 55 tuổi 36 31.85% 55 tuổi trở lên 56 49.59%
Giới tính Nam 44 38.9%
Nữ 69 61.1%
Dân tộc
Kinh 99 87.6%
K’ho 7 6.2%
Cill 4 3.5%
DTTS khác 3 2.7%
Nông dân 42 37.2%
Công nhân 13 11.5%
Nghề
nghiệp
Cán bộ công
chức viên chức 10 8.8%
Buôn bán 30 26.5%
Khác 61 54%
Không biết chữ 9 8%
Tiểu học 23 20.4%
Trình độ
học vấn
Trung học cơ sở 29 25.7%
Trung học phổ
thông 33 29.2%
Đại học 19 16.8%
Xếp loại hộ
gia đình
Nghèo, cận
nghèo 4 3.53%
Khác 109 96.47%
TẠP CHÍ KHOA HỌC YERSIN – CHUYÊN ĐỀ KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ
Tập 06 (12/2019) 94
Qua kết quả nghiên cứu 113 bệnh nhân
tại Bệnh viên Đa khoa tỉnh Lâm Đồng phân
bổ theo nhóm tuổi thì bệnh nhân có nhóm
tuổi từ 16 đến dưới 30 tuổi chiếm 18.59%,
nhóm tuổi từ 30 đến dưới 55 tuổi chiếm
31.85%, nhóm tuổi trên 55 tuổi chiếm
49.56%, kết quả của chúng tôi khác với kết
quả của Lê Văn Khải (2013) cho thấy nhóm
tuổi từ 5 đến 14 tuổi chiếm 25%, nhóm tuổi
từ 15 đến dưới 50 tuổi chiếm 50%, nhóm
tuổi trên 50 tuổi chiếm 25%; kết quả của tôi
phù hợp với nghiên cứu của trường đại học
Y khoa London khi đã chỉ ra rằng, các vi
khuẩn có lợi trong đường ruột sẽ bị suy
giảm nhanh khi chúng ta bước sang tuổi 55,
từ đó làm suy giảm chức năng của hệ tiêu
hoá, đặc biệt là ở phần ruột già. Chức năng
tiêu hoá của dạ dày, gan, tuyến tụy, ruột non
và các cơ quan tiêu hóa khác bắt đầu suy
giảm càng làm tăng nguy cơ mắc các bệnh
về đường ruột. Vì thế, tỉ lệ bệnh nhân nhập
viện trên 55 tuổi chiếm đa số trong nghiên
cứu của tôi là hợp lý. Trong nghiên cứu này, tỉ lệ bệnh nhân
nam nhập viện chiếm 38.9% và bệnh nhân nữ chiếm 61.1%. Kết quả này phù hợp với
nghiên cứu của Viện Đại học Colorado (Hoa
Kì, 2008) khi họ khẳng định phụ nữ có bàn
tay chứa nhiều vi khuẩn hơn nam giới (vì da
của phụ nữ ít acid hơn nam giới, chính vì thế
rất thích hợp cho vi khuẩn phát triển), đồng
thời theo nghiên cứu của Trịnh Xuân Nhất
(2007) cho thấy rằng hầu hết các quán ăn
vỉa hè đều do phụ nữ bán hàng và phụ nữ là
những người thường hay có thói quen ăn
quà vặt ở các quán vỉa hè nhiều hơn nam
giới. Nên tỉ lệ nữ nhập viện do NĐTP nhiều
hơn nam là rất phù hợp.
Theo kết quả khảo sát thì bệnh nhân là
dân tộc Kinh nhập viện chiếm đa số với
87.6%, còn các dân tộc thiểu số chiếm 14.3%. Điều này phù hợp với tình hình tại
tỉnh Lâm Đồng, khi các dân tộc thiểu số
thường sống cách xa bệnh viện Đa khoa tỉnh
(Tại trung tâm thành phố Đà Lạt), chính vì
thế, khi mắc bệnh các bệnh nhân chữa chủ
yếu bằng các biện pháp dân gian hoặc điều
trị tại các tuyến y tế vùng huyện, chỉ có các
trường hợp nặng bệnh nhân mới chuyển
lên bệnh viện Đa khoa tỉnh Lâm Đồng để
theo dõi, chẩn đoán và điều trị bệnh. Nên tỉ
lệ bệnh nhân nhập viện là dân tộc thiểu số
chiếm tỉ lệ thấp là phù hợp.
3.2. Nguyên nhân gây NĐTP
Bảng 1. Nhóm thực phẩm bệnh nhân ăn
trước khi nhập viện
Nhóm thực phẩm Số
lượng
Tỷ lệ
Gluxit (cơm, phở,
cháo,) 63 55.8%
Protit (thịt, cá, trứng, sữa,) 51 45.1%
Lipit (lạc, mè, mỡ
động vật,) 33 29.2%
Vitamin và muối
khoáng (rau củ và
hoa quả,) 87 77%
Nghiên cứu đã chỉ ra rằng, NĐTP được
gây nên bởi nhiều nguyên nhân khác nhau.
Theo kết quả điều tra 113 bệnh nhân cho
thấy, trước khi nhập viên họ đã ăn một hay
nhiều nhóm thực phẩm khác nhau, trong đó
có 50 bệnh nhân ăn 1 nhóm thực phẩm
chứa vitamin và muối khoáng (rau củ, hoa
quả), 12 bệnh nhân ăn kết hợp 2 nhóm
thực phẩm chứa gluxit – vitamin và muối
khoáng, 18 bệnh nhân ăn kết hợp nhóm
thực phẩm chứa gluxit – protit – vitamin và
muối khoáng, 26 bệnh nhân ăn kết hợp
nhóm gluxit – protit – lipit và có 7 bệnh
nhân ăn kết hợp 4 nhóm trên trước khi
nhập viện. Và tính theo nhóm thực phẩm
bệnh nhân thì các bệnh nhân ăn thực phẩm
TẠP CHÍ KHOA HỌC YERSIN – CHUYÊN ĐỀ KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ
Tập 06 (12/2019) 95
thuộc nhóm gluxit (cơm phở, cháo) chiếm
tỉ lệ 55.8%, nhóm protit (thịt, cá, trứng sữa) chiếm tỉ lệ 45.1%, nhóm lipit (lạc,
mè, mỡ động vật,) chiếm tỉ lệ 29.2%,
nhóm vitamin và muối khoáng ( rau, củ,
quả) chiếm tỉ lệ 77% điều này tương đối
khác với nghiên cứu ở tỉnh Vĩnh Phúc
(2011) nhóm thực phẩm dễ bị ngộ độc thực
phẩm có các thực phẩm giàu đạm chiếm gần
50%, cùng với đó, các loại hoa quả cũng là
một nguyên nhân quan trọng dẫn đến NĐTP
trong thời gian qua; và khác với nghiên cứu
của Lê Văn Khải (2013) ở tỉnh Phú Yên, ngộ
độc do thực phẩm chứa độc tố chiếm 40%,
các thực phẩm từ thịt, hải sản (chứa hàm
lượng lớn Protein) chiếm 14.21%, rau củ và
thực phẩm hỗn hợp đều chiếm 14.3%, từ
thực phẩm khác chiếm 7.14%. Kết quả này
phản ánh được thói quen sinh hoạt và ăn
uống ở mỗi tỉnh là khác nhau dẫn đến nhóm
thực phẩm gây NĐTP cũng khác nhau.
Theo khảo sát các bệnh nhân nhập viên
do NĐTP ta thấy được: NĐTP liên quan đến
địa điểm bệnh nhân đã ăn trước khi nhập
viện, cách chế biến thức ăn trước khi ăn,
thói quen rửa tay trước khi ăn và sau khi đi
vệ sinh. Và dựa vào chỉ số xét nghiệm bệnh
phẩm để tìm nguyên nhân chính yếu gây ra
NĐTP. Cụ thể như sau:
Biểu đồ 1: Phân bổ địa điểm bệnh nhân
đã ăn trước khi nhập viện
Nhận xét: Về hoàn cảnh, địa điểm gây
ra NĐTP thấy được, tỉ lệ NĐTP từ bữa ăn gia
đình chiếm 57.5%, quán ăn vỉa hè chiếm
32.7%, ở nhà hàng chiếm 3.5%, nơi khác
chiếm 6.2%. Kết quả này phù hợp với
nghiên cứu ở Vĩnh Phúc có tỉ lệ NĐTP tại các
bữa ăn gia đình là 60%. Thấp hơn so với kết
quả nghiên cứu của Lê Văn Khải (2013)
NĐTP từ bữa ăn gia đình là 73.33%, quán
hàng rong chiếm 20%, tập thể chiếm 6.67%.
Điều này phản ánh nhận thức về ATTP ở các
hộ gia đình và các quán hàng vỉa hè vẫn
chưa cao. Bên cạnh đó, do thời gian thực
hiện ngắn (từ tháng 11 năm 2014 đến tháng 5 năm 2015) nên thu thập được 113 mẫu
nghiên cứu nhập viện tại khoa Nhiễm do
NĐTP vì thế tính đại diện chưa cao. Điều
này có thể dẫn tới kết quả nghiên cứu khi
địa điểm gây ra NĐTP từ bữa ăn gia đình cao
hơn so với khu vực khác.
Bảng 2 Thực phẩm được chế biến trước
khi ăn Số lượng Tỉ lệ
Sống 56 49.6%
Tái 60 53.1%
Chín 13 11.5%
Khác 1 0.9%
Theo kết quả trên ta thấy, trước khi
nhập viện bệnh nhân đã ăn một hay nhiều
nhóm thực phẩm khác nhau và được chế
biến bằng một hay nhiều cách khác nhau
trong đó: ăn thực phẩm tái dễ gây ra NĐTP
nhất chiếm 53.1%, tiếp đến là thực phẩm sống 49.6%, thực phẩm chín chiếm 11.5%,
các cách chế biến khác chiếm 0.9%. Trong
đó có 56 bệnh nhân ăn thực phẩm sống, 53
bệnh ăn thực phẩm tái, 3 bệnh nhân ăn kết
hợp thực phẩm sống và tái, 10 người ăn kết
hợp thực phẩm tái và chín, 1 bệnh nhân ăn
kết hợp cách chế biến tái, chín và nướng.
Nhà
hàng
3.5%
Ở nhà
57.5%
Quán
vỉa hè
32.7%
Khác
6.2%
Địa điểm
TẠP CHÍ KHOA HỌC YERSIN – CHUYÊN ĐỀ KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ
Tập 06 (12/2019) 96
Điều này phản ánh một sự thật hiển nhiên
khi các thực phẩm sống là nguồn chứa
nhiều loại vi khuẩn cũng như các kí sinh
trùng nhất, vì các thực phẩm sống là môi
trường rất thích hợp cho vi khuẩn, kí sinh
trùng khu trú và phát triển. Khi thực phẩm
được tác động bởi nhiệt và nấu chín kĩ thì
diệt hết được hầu hết các vi sinh vật và kí
sinh trùng này, nhưng trong quá trình ăn
uống, các vật dụng không được rửa kĩ hoặc
bảo quản thực phẩm không đúng cách cũng
là nguyên nhân gián tiếp gây nên NĐTP.
Bảng 3. Phân bổ thói quen rửa tay trước
khi ăn và sau khi đi vệ sinh
Thói quen rửa tay Số lượng Tỉ lệ
Có 40 35.4%
Không 73 64.6%
Nhận xét:
Về các thói quen rửa tay trước khi ăn
và sau khi đi vệ sinh của bệnh nhân, ta thấy
được bệnh nhân có thói quen rửa tay chiếm
35.4%, không có thói quen rửa tay chiếm
64.6%. Qua đây ta thấy được, thói quen rửa
tay trước khi ăn và sau khi đi vệ sinh ở các
bệnh nhân còn thấp, theo nghiên cứu vào
năm 2008 thực hiện bởi Viện Đại học
Colorado (Hoa Kì) đã ghi nhận 4.742 loại vi
khuẩn ở 2 bàn tay của một nhóm sinh viên,
trung bình mỗi bàn tay co mặt 158 loài
trong đó có một số chủng loại gây nên NĐTP
như: Staphylococcus aureus, Salmonella,
E.Coli, Listeria
Bảng 4. Nguyên nhân gây NĐTP theo chỉ
số xét nghiệm
Nguyên nhân Số lượng Tỉ lệ %
Vi khuẩn 67 59.3%
Nấm 29 25.7%
Nguyên nhân khác 17 15%
Về nguyên nhân theo chỉ số xét nghiệm
các bệnh phẩm cho thấy do vi khuẩn chiếm
59.3%, nấm chiếm 25.7%, nguyên nhân
khác chiếm 15%. Trong 15% của nguyên
nhân khác bao gồm các trường hợp không
biết nguyên nhân, các trường hợp không lấy
được bệnh phẩm làm xét nghiệm, kết quả
này cao hơn so với kết quả nghiên cứu tai
bệnh viện Đa khoa tỉnh Bình Định (2004)
nguyên nhân do VSV 55.6%, hóa học 13.1%,
chất độc trong thực phẩm 22.76%, không rõ
nguyên nhân 8.54%. Như chúng ta đã biết,
Lâm Đồng là một tỉnh ở nước ta có khí hậu
ôn hòa, đây là điều kiện thuận lợi cho sự
phát triển của các VSV, nấm, cũng như các
sinh vật khác. Điều này phản ánh, ở mỗi địa
phương khác nhau có các đặc điểm tự nhiên
(khí hậu, địa hình, độ ẩm) khác nhau thì sự phát triển của các VSV, nấm, cũng
không giống nhau. Vì thế, nguyên nhân phát
sinh bệnh ở các địa phương là khác nhau.
4. Kết luận và khuyến nghị
4.1. Kết luận
Qua thực tế khảo sát 113 đối tượng là
bệnh nhân bị NĐTP đang được điều trị tại
khoa Nhiễm - Bệnh viện đa khoa tỉnh Lâm
Đồng từ tháng 11 năm 2014 đến hết tháng
5 năm 2015 cho thấy các kết quả như sau: - Nhóm thực phẩm bệnh nhân ăn nhiều
nhất trước khi nhập viện là nhóm vitamin
và muối khoáng (rau, củ, quả) chiếm 77%,
nhóm gluxit (cơm, phở, cháo) chiếm
55.8%, nhóm protit (thịt, cá, trứng, sữa)
chiếm 45.1%, nhóm lipit (lạc, mè, mỡ động
vật) chiếm 29.2%. - Các thói quen sinh hoạt hằng ngày
như: ăn thực phẩm sống, tái chiếm tỉ lệ cao
lần lượt là 53.1% và 49.6%; thói quen rửa
TẠP CHÍ KHOA HỌC YERSIN – CHUYÊN ĐỀ KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ
Tập 06 (12/2019) 97
tay trước khi ăn và sau khi đi vệ sinh còn
thấp, chỉ có 35.4% bệnh nhân có thói này.
Đây cũng là một trong những nguyên nhân
gây nên NĐTP. - Theo các chỉ số xét nghiệm các mẫu bệnh
phẩm thu thập được thì tỉ lệ bệnh nhân NĐTP
do vi khuẩn chiếm tỉ lệ cao nhất là 59.3%, nấm
chiếm 25.7%, nguyên nhân khác 15%. - Tỉ lệ bệnh nhân nhập viện sau bữa ăn
tại gia đình chiếm tỉ lệ cao với 57.5%, các
quán ăn vỉa hè 32.7%, nơi khác 9.7%.
4. 2. Khuyến nghị Từ những kết quả nghiên cứu về ngộ
độc thực phẩm tại khoa Nhiễm – bệnh viện
Đa khoa tỉnh Lâm Đồng, chúng tôi xin có
một số khuyến nghị 4 sạch như sau:
Lựa chọn thực phẩm sạch là chọn các
thực phẩm an toàn, biết rõ nguồn gốc, xuất
xứ, hạn sử dụng, của các loại thực phẩm.
Với rau quả phải chọn các loại rau, quả tươi,
không bị dập nát, không có mùi lạ. Với các
loại thịt phải qua kiểm dịch và đạt tiêu chuẩn
thịt tươi. Cá và thủy sản phải còn tươi, không
có dấu hiệu ươn. Các thực phẩm đã chế biến
phải được đóng hộp hoặc đóng gói đảm bảo,
phải có nhãn hàng hóa ghi đầy đủ nội dung
như: Tên sản phẩm, trọng lượng, các thành
phần chính, cách bảo quản, sử dụng, nơi sản
xuất, chế biến và còn thời hạn sử dụng. Với
đồ hộp không chọn hộp bị méo, phồng hay gỉ.
Không nên dùng thực phẩm khô đã bị mốc,
các loại thực phẩm lạ không rõ nguồn gốc
xuất xứ, các loại phẩm màu, đường hóa học.
Chế biến sạch nghĩa là các loại rau, củ,
quả ăn sống phải được rửa trên vòi nước
sạch, quả nên gọt vỏ trước khi ăn; Khu vực
chế biến thực phẩm phải đặt ở nơi có ánh
sáng, thoáng khí và thông gió, không có nước
đọng, xa các khu khói, bụi bẩn, nhà vệ sinh
hoặc khu chăn nuôi gia súc, rác thải gây ô
nhiễm môi trường. Những vật dụng và đồ
dùng nấu nướng phải dễ cọ rửa, không để
dụng cụ bẩn qua đêm, bát đĩa dùng xong phải
rửa ngay, dụng cụ tiếp xúc với thức ăn chín
và sống phải để riêng biệt. Không dùng dụng
cụ bằng đồng, nhôm, thủy tinh gia công, nhựa
tái sinh có màu để nấu nướng và tuyệt đối
không được dùng bao bì đã sử dụng để đựng
thực phẩm đã nấu chín. Nước thực sự rất
quan trọng trong việc chế biến và phòng
tránh ngộ độc thực phẩm, sử dụng nguồn
nước sạch là bạn đã yên tâm đến 50% trong
việc phòng tránh ngộ độc. Nước sạch phải là
nước trong, không có mùi, không có vị lạ.
Tuyệt đối không uống nước lã và lấy nước lã
để làm kem, đá. Nước đun sôi 1000C và bảo
quản trong tủ lạnh còn để ngoài phải có các
dụng cụ chứa đảm bảo vệ sinh, kín, không
chứa nước vừa đun sôi vào các bình bằng các
chất liệu nhựa, xốp
Sử dụng sạch, tốt nhất là ăn ngay sau
khi nấu, lúc thức ăn còn nóng bởi thức ăn
chín để nguội ở nhiệt độ bình thường dễ bị
vi khuẩn xâm nhập; hạn chế ăn các loại
thực phẩm sống; không nên ăn các loại
thức ăn đã bị ôi thiu, quá hạn sử dụngđặc
biệt hạn chế ăn các thức ăn đường phố
không hợp vệ sinh.
Bảo quản sạch, tức là bảo quản cẩn
thận thức ăn đã nấu chín, các dụng cụ dùng
để bảo quản cần được rửa sạch thường
xuyên; các thực phẩm không nên để qua
ngày hôm sau; hạn chế bảo quản thức ăn
trong tủ lạnh lâu ngày. Nếu phải chuẩn bị
thức ăn trước hoặc phải đợi sau 3 giờ mới ăn
thì cần giữ nóng ở nhiệt độ 60oC hoặc duy trì
ở điều kiện lạnh ≤ 10oC, nhưng lưu ý là không
TẠP CHÍ KHOA HỌC YERSIN – CHUYÊN ĐỀ KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ
Tập 06 (12/2019) 98
đưa quá nhiều thức ăn còn ấm hoặc thức ăn
còn đang nóng vào tủ lạnh và không để lẫn
thực phẩm sống với thức ăn chín. Sau khi bỏ
thức ăn trong tủ lạnh ra thì phải đun lại thức
ăn trước khi ăn là biện pháp tốt nhất để
phòng ngừa các vi khuẩn phát triển trong quá
trình bảo quản.
Ngoài ra chúng ta cần rửa tay trước khi
chế biến thức ăn và sau mỗi lần gián đoạn
để làm việc khác. Nếu bạn bị nhiễm trùng ở
bàn tay, hãy băng kín kỹ vết thương nhiễm
trùng đó trước khi chế biến thức ăn. Cần
rửa tay sạch trước khi ăn và sau khi đi vệ
sinh. Và cuối cùng là khống chế đến mức tối
đa, hạn chế đến mức tối thiểu các nguy cơ
dẫn đến NĐTP bằng cách cung cấp các kiến
thức để nâng cao nhận thức của người dân
về VSATTP, phòng chống NĐTP qua các
thông tin đại chúng. Đồng thời xây dựng
một hệ thống kiểm soát dựa trên nguy cơ áp
dụng các nguyên tắc đánh giá nguy cơ, quản
lý nguy cơ và truyền thông nguy cơ đã được
WHO xây dựng.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Bùi Minh Đức cùng cộng sự. (2013). “Các
bệnh ô nhiễm – lây nhiễm do thực phẩm”.
Hà Nội: Nhà xuất bản Y học, tr.9 – 18.
Lê Văn Khải. (2013). “Thực trạng ngộ độc
thực phẩm từ năm 2009 đến năm 2012
tại tỉnh Phú Yên”. Huế: Đại học Y dược
Huế - khoa Y tế công cộng.
Nguyễn Công Khẩn. (2008). “Dinh dưỡng
cộng đồng và an toàn vệ sinh thực phẩm”.
Hà Nội: Nhà xuất bản Y học, tr.249 – 262
Phạm Duy Tường. (208). “Dinh dưỡng cộng
đồng và an toàn vệ sinh thực phẩm”. Hà
Nội: Nhà xuất bản Y học, tr.151 – 171.
Trịnh Xuân Nhất. (2007). “Nghiên cứu thực
trạng ô nhiễm vi khuẩn thức ăn đường
phố và một số yếu tố liên quan tại thành
phố Thanh Hóa năm 2007”, Đại học Thái
Nguyên – Đại học Y dược.
Trường Đại học Y dược Hà Nội. (2004). Bộ
môn Dinh dưỡng – An toàn thực phẩm,
“Dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực
phẩm”. Hà Nội: Nhà xuất bản Y học.
Sức khỏe cộng đồng. (01/7/2013). Vi khuẩn
ở bàn tay chúng ta, Tạp chí: Thuốc và sức
khỏe, Hội Dược học Việt Nam. Số 479.
Võ Trung Tuấn Và Đỗ Văn Dũng. (2013).
“Điều tra, đánh giá thực trạng vệ sinh an
toàn thực phẩm bếp ăn tập thể tại Tây
Ninh và đề xuất giải pháp”, Trung tâm Y
tế dự phòng Tây Ninh. Mead PS và đồng nghiệp (1999). “Food-
related illness and death in the United
States”.Emerg Infect Dis 5 (5):
60725. doi:10.3201/eid0505.990502.P
MC 2627714. PMID 10511517. 10.3201
/eid0505.990502
Các file đính kèm theo tài liệu này:
thuc_trang_benh_nhan_nhap_vien_do_ngo_doc_thuc_pham_tai_khoa.pdf