Thực trạng huy động và sử dụng vốn đầu tư phát triển của dnnn trong giai đoạn 2000 - 2007

Hoàn thiện hệ thống pháp luật, đổi mới cơ chế, chính sách đầu tư: + trước mắt tập trung triển khai có hiệu quả Luật đầu tư, Luật đấu thầu, Luật kinh doanh bất động sản, Luật doanh nghiệp, Luật chứng khoán.; chúng ta cần sớm ban hành luật quản lý đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước tạo hành lang pháp lý rõ ràng cho các doanh nghiệp nhà nước hoạt động một cách chủ động, tích cực. +tiếp tục đổi mới mạnh mẽ hơn nữa cơ chế phân bổ vốn đầu tư, vốn cho chương trình mục tiêu quốc gia trên cơ sở tôn trọng nguyên tắc đầu tư, tôn trọng tiêu chí, tiêu chuẩn, định mức theo hướng công khai minh bạch và có chủ định rõ rệt.

doc66 trang | Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 985 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Thực trạng huy động và sử dụng vốn đầu tư phát triển của dnnn trong giai đoạn 2000 - 2007, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
uan trọng trong việc huy động vốn của DNNN. Tuy nhiên, hiện nay trong nền kinh tế thị trường, DNNN ngày càng bộc lộ nhiều hạn chế, yếu kém..Hoạt động của DN không còn hiệu quả, khả năng tạo ra lợi nhuận kém, khả năng chi trả không còn được đảm bảo, bên cạnh đó cơ chế quản lý của DNNN ngày càng bất cập với thực tế trong thời kỳ mở của hiện nay. Chính vì thế các ngân hàng thương mại đang hạn chế việc cho các DNNN vay vốn. Hiện nay, các ngân hàng không còn cạnh tranh nhau trong việc cho các DNNN nhà nước vay vốn nữa. Dư nợ cho vay của các DNNN đang giảm dõ dệt. Vào thời điểm cuối năm 2005 thì dư nợ cho vay của các DNNN tại các ngân hàng trong địa phận Hà nội là 42.170 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 47,6%/ tổng số dư nợ. Đến năm 2007 thì số dư này chỉ còn 41.500 tỷ đồng, chiếm khoảng 41%/tổng số dư nợ. Việc không có được dự tin cậy của các ngân hàng thương mại đang gây khó khăn rất lớn cho các DNNN. Muốn lấy lại sự tin cậy đó thì DNNN phải có những cải cách đổi mới, nâng cao hiệu quả kinh doanh, cải cách bộ máy 1.2.4.Huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu Trong những năm gần đây, thị trường trái phiếu của các DN đang có những thay đổi theo chiều hướng tích cực, và việc phát hành trái phiếu đang là lựa chọn hấp dẫn ho DN trong việc huy động vốn. Để tạo điều kiện thuận lợi cho các DN phát hành trái phiếu trong nước và nước ngoài, Nhà nước đã ban hành Nghị định 52 cho phép tất cả các DN được huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu. Sau 6 tháng thực hiện, DN đã huy động được 6.000 tỷ đồng, trong đó phải kể đến Tập đoàn Điện lực Việt nam huy động được 5.000 tỷ đồng. Số lượng DN phát hành trái phiếu cũng tăng đáng kể, năm 2005 chỉ có 2 DN phát hành với giá trị khoảng 1.600 tỷ đồng, năm 2006 số DN tăng lên 6 DN và giá trị trái phiếu khoảng 11.000 tỷ đồng, và trong năm 2007 đã có 12 DN phát hành cổ phiếu với 17 đợt phát hành có giá trị 20.000 tỷ đồng. Nhiều DN phát hành với mức lãi suất hấp dẫn: trái phiếu Vincom kỳ hạn 5 năm, lãi suất 10,3% phát hành tháng 10/2007, trái phiếu Nam Triệu kỳ hạn 2 năm lãi suất 8,95%/năm phát hành tháng 4/2007 2.Thực trạng sử dụng vốn đầu tư phát triển của DNNN trong giai đoạn 2001-2007 DNNN được nhiều ưu đãi của Nhà nước, nhưng lại hoạt động kém hiệu quả. Vì đâu mà DNNN lại hoạt động kém hiệu quả như vậy? Câu trả lời mà các nhà kinh tế đề ra là : DNNN đã và đang đầu tư một cách dàn trải, thất thoát, thiếu đồng bộ, lãng phí vốn nhiều. Trước đây, khi chúng ta chưa gia nhập WTO, thị trường chứng khoán chưa sôi động, các DNNN chủ yếu tập trung đầu tư vào lĩnh vực mà DN đang đảm nhiệm, nhưng do các yếu tố khách quan và chủ quan như cơ sở hạ tầng, cơ cấu quản lý, chất lượng nguồn nhân lực còn kém nên việc đầu tư và sử dụng vốn không hiệu quả. Vốn bỏ ra nhiều nhưng kết quả không tương xứng với đầu tư. Vấn đề đặt ra ở đây chính là thất thoát, lãng phí vốn đầu tư. Đặc biệt là các DNNN trong ngành xây dựng, việc thất thoát lãng phí vốn đầu tư là điều khó tránh, nhất là đối với các công trình đòi hỏi thời gian thực hiện dài. Do các bộ luật về đầu tư ở nước ta còn hạn chế, rườm rà, nhiều thủ tục hành chínhđã kéo dài thời gian phê duyệt dự án, từ quyết định đấu tư đến thực hiện là một khoảng thời gian dài. Mà đối với một dự án thì thời gian là vấn đề quan trọng nhất. Có thể có dự án vừa mới hoàn thành xong thì đã lạc hậu. Chúng ta đã thấy rất nhiều công trình đang còn dang dở, hay đã ngừng thực hiện nhiều năm, vấn đề gặp phải ở đây là tình trạng thiếu vốn. Điều này cũng do yếu tố trong tổ chức quản lý của ngành xây dựng – ngành đang tồn tại nhiều tiêu cực như: sử dụng vật liệu không đúng quy định, bỏ qua các khâu quản lý Biểu hiện cụ thể nhất trong yếu kém đầu tư là đầu tư dàn trải, sủ dụng kém hiệu quả của nguồn vốn nhà nước. Nhiều DN đầu tư kinh doanh theo phong trào, không đầu tư theo lĩnh vực, ngành nghề mình đảm nhiệm mà lại nhảy sang hoạt động khác. Tình trạng các DN đua nhau kinh doanh tiền tệ, chứng khoán, ngân hàng, bất động sảnđã tạo ra những kết quả không như ý muốn, thậm chí còn gây ra những hậu quả nghiêm trọng trong các khu vực này. Một số tập đoàn, TCT đã đầu tư vào ngân hàng, bảo hiểm, hoặc mua bán cổ phiếu trên thị trường với một số lượng vốn khá lớn. Theo báo cáo của 70 tập đoàn, TCT thì có tới 28 đơn vị hoạt động đầu tư chứng khoán, ngân hàng thương mại, công ty bảo hiểm với giá trị đầu tư lên đến 23.344 tỷ đồng, chiếm 8,7% vốn sở hữu và 20% tổng vốn đầu tư ra bên ngoài. Cụ thể, Tập đoàn Dầu khí đầu tư vào Ngân hàng 1.100 tỷ đồng, cong ty chứng khoán 76,5 tỷ đồng, công ty tài chính 4.005 tỷ đồng, công ty bảo hiểm 570 tỷ đồng, quỹ đầu tư 29 tỷ đồng, tổng cộng là 5.780 tỷ đồng. Bên cạnh đó, tình trạng DNNN lập quá nhiều công ty con, công ty liên kết hoạt động trong nhiều lĩnh vực ngày càng phổ biến. Như Tổng công ty Thuốc lá; Giấy; Dệt may; Công nghiệp Tàu thủy đầu tư vào rượu bia, công nghiệp thực phẩm; Tổng công ty Xây dựng công nghiệp đầu tư vào Thủy điện, nhiệt điện Theo các chuyên gia thì xu hướng đa ngành xuất phát từ một thực tiễn là các tập đoàn đang thay đổi hương kinh doanh sang những ngành không thuộc kĩnh vực, ngành nghề của DN nhưng đem lại lợi nhuận cao, nhanh chóng như bất động sản, ngân hàng,bảo hiểm và chứng khoán. Thậm chí còn có các DN bán bớt cổ phần tại các đơn vị sản xuất kinh doanh mang lại lợi nhuận để đi đầu tư và xây dựng cao ốc văn phòng cho thuê Đầu tư tràn lan, chạy theo lợi nhuận trước mắt. “Thực tế hiện nay, nhiều DN nhẽ ra phải tập trung nguồn lực, tài chính, con người tập trung cho hoạt động chính để phát huy lợi thế cạnh tranh, nhưng họ lại nhìn những lợi ích trước mắt, tập trung đầu tư vào các lĩnh vực khác không phải lĩnh vực chính của họ. Điều đó dẫn đến nguồn lực bị phân tán, hiệu quả không cao.” ( theo ông Vũ Viết Ngoạn -Phó chủ nhiệm Ủy ban kinh tế Quốc hội) Nhiều tập đoàn kinh tế hiện nay bỏ nhiều vốn ra để thành lập ngân hàng, công ty cổ phần chứng khoán, siêu thị Họ chạy theo mục đích lợi nhuận trước mắt mà không tập trung vào phát triển ngành nghề, lĩnh vực chính của mình. Vào cuối năm 2006, thị trường chứng khoán đang lên cơn sốt thì rất nhiều công ty chứng khoán được thành lập. Trong thời gian này cũng có nhiều công ty chứng khoán khác ra đời như : “Chứng khoán dầu khí”, “Chứng khoán tàu thủy” EVN cũng là một trong những Tập đoàn kinh tế nhà nước đi đầu trong lĩnh vực đầu tư vào ngân hàng, chứng khoán Khi các tập đoàn đa ngành như vậy có thể gặp phải rủi ro. Thứ nhất, khi tập đoàn đi vào những ngành không có thế mạnh, đang cạnh tranh quyết liệt thì không thể đảm bảo là họ sẽ thành công. Thứ hai, họ không tập trung đầu tư vào ngành cốt lõi hay những ngành chinh của họ, những lĩnh vực này không được củng cố trong khi sức ép của thị trường trong nước và quốc tế ngày càng cao. Tập đoàn kinh tế nhà nước là DN nắm nhứng ngành huyết mạch trong nền kinh tế, trong trường hợp đầu tủ tràn lan không có hiệu quả, không những gây tổn thất cho DN mà còn có thể ảnh hưởng đến nền kinh tế. III.KẾT QUẢ VÀ CÁC TỒN TẠI TRONG HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VÀ SỬ DỤNG VỐN ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN CỦA DNNN 1)Kết quả hoạt động huy động và sử dụng vốn đầu tư phát triển của DNNN a)Quy mô vốn ngày càng cao Trong quá trình phát triển,DN đã có sự sắp xếp,phân bố lại theo đường lối phát triển kinh tế nhiều thành phần của Đảng và nhà nước.Số lượng các DNNN liên tục giảm về số lượng trong những năm qua, đặc biệt là giảm mạnh trong các năm gần đây(năm 2001là 5355 DN,năm 2006 là 3720,đến năm 2007 chỉ còn gần 3000), cho nên tỷ trọng của các DN này đã giảm từ 13,62% năm 2000 xuống chỉ còn 3,61% trong năm 2005. Tuy nhiên, ở đây cũng cần nói thêm rằng, tuy giảm cả về tuyệt đối lẫn tỷ trọng, nhưng các DNNN vẫn là những DN có quy mô lao động lớn và không ngừng tăng (năm 2000 là 363 lao động/DN; năm 2005 tăng lên 499 lao động/DN) và vốn bình quân của mỗi DN cũng không ngừng tăng (năm 2000 là 130 tỷ đồng/DN:năm 2001 là 153 tỷ đồng/DN ; năm 2005 đạt 355 tỷ đồng/DN,năm 2006 là 475 tỷ đồng/DN). Mặt khác, các DNNN hiện chủ yếu đang hoạt động trong các ngành như: công nghiệp chiếm 30,6%; xây dựng 17,3%; nông lâm nghiệp và thuỷ sản 14,0%; thương nghiệp 16,3%... Bảng 5: Một số chỉ tiêu về doanh nghiệp NN 2001 2002 2003 2004 2005 - Số doanh nghiệp nhà nước (DN) 5355 5363 4845 4596 4086 - Tỷ trọng (%) 10,36 8,53 6,73 5,01 3,61 - Số lao động DN nhà nước (người) 2114324 2259858 2264942 2249902 2040859 - Tổng số vốn DN nhà nước (tỷ VNĐ) 781705 858560 932942 1128483 1338255 - Giá trị TSCĐ DNNN (tỷ VNĐ) 263153 309084 332077 359952 487210 - Doanh thu thuần DN nhà nước (tỷVNĐ) 460029 611167 666202 708045 838396 Bảng 6 : Vốn đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước phân theo nguồn vốn Tổng số Chia ra Vốn ngân sách Nhà nước Vốn vay Vốn của các doanh nghiệp Nhà nước Nguồn vốn khác Giá thực tế Tỷ đồng 1995 30447 13575 6064 3700 7108 1996 42894 19544 8280 6329 8741 1997 53570 23570 12700 8996 8304 1998 65034 26300 18400 11522 8812 1999 76958 31763 24693 13362 7141 2000 89418 39006 27784 14587 8040 2001 101973 45607 28707 18055 9604 2002 112238 49685 34956 15597 12000 2003 125128 55541 39033 21554 9000 2004 147500 69100 45300 25100 8000 2005 175000 81600 53800 30300 930 b) Vốn sản xuất kinh doanh tăng. Vốn sản xuất kinh doanh trong khối doanh nghiệp nhà nước trong những năm qua vẫn tăng liên tục qua các năm, thể hiện qua bảng sau : Đơn vị: tỷ đồng Năm Tổng số(tỷ đồng) Vốn chủ sở hữu (tỷ đồng) Tỷ lệ vốn chủ sở hữu (tỷ đồng) 2001 2002 2003 2004 2005 2006 781705 858560 932943 1128484 133825 1601109 221655 234846 226752 306752 317221 380291 28.36 27.35 24.28 27.18 23.7 23.75 Bảng7:Quy mô vốn của doanh nghiệp nhà nước tại thời điểm cuối năm 2004 Vốn Phân theo quy mô vốn Dưới 0,5 tỷ đồng Từ 0,5 đến dưới 1 tỷ đồng Từ 1 đến dưới 5 tỷ đồng Từ 5 đến dưới 10 tỷ đồng Từ 10 đến dưới 50 tỷ đồng Từ 50 đến dưới 200 tỷ đồng Từ 200 đến dưới 500 tỷ đồng Từ 500 tỷ đồng trở lên 4596 35 31 509 516 1663 1238 401 203 Cơ cấu (%) trong tổng số doanh nghiệp trên cả nước 5.01 0.15 0.19 1.55 7.07 20.11 42.63 52.83 50.37 Mức vốn sản xuất kinh doanh phổ biến từ 10 đến dưới 200 tỷ.Vốn nhà nước trong các doanh nghiệp tăng bình quân 10% / năm. Số vốn nhà nước bình quân tại một doanh nghiệp cuối năm 2004 vào khoảng 74 tỷ đồng, tăng gấp 2,1 lần so với năm 2002. c) Lợi nhuận giữ lại tăng . Trong giai đoạn từ năm 2001 đến năm 2005 doanh thu tăng bình quân 11,2 %/ năm, lợi nhuận tăng bình quân 22%/ năm. Đây là 1 tín hiệu tốt của doanh nghiệp nhà nước vì lợi nhuận giữ lại là 1 phần của lợi nhuận doanh nghiệp sau khi trừ đi phần thuế nộp cho nhà nước và chi cổ tức ở các công ty cổ phần, Nó trực tiếp làm tăng nguồn vốn chủ sở hữu trong doanh nghiệp tạo sự chủ động và an toàn cho các mục tiêu đầu tư trong tương lai của doanh nghiệp d)Vốn tham gia liên doanh liên kết. Việc thu hút vốn liên kết giữa các doanh nghiệp nhà nước và giữa doanh nghiệp nhà nước với doanh nghiệp tư nhân, các công ty, tập đoàn nước ngoài đang ngày một phát triển. Thể hiện bằng các con số cụ thể: Từ năm 2002 đến năm 2006 lượng vốn lưu chuyển giữa các doanh nghiệp nhà nước trung bình vào khoảng 2’340’000 tỷ đồng, từ các doanh nghiệp tư nhân khoảng 450000 tỷ, từ FDI khoảng 8 Tỷ USD. Qua những con số trên ta thấy lượng vốn lưu chuyển giữa các doanh nghiệp trong nước vẫn còn thấp việc huy động vốn liên doanh vẫn chủ yếu là từ nước ngoài cho thấy mối liên kết giữa các doanh nghiệp nhà nước còn lỏng lẻo e)Vốn vay từ các ngân hàng thương mại. Đây là một phần quan trọng Và chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng lượng vốn mà các doanh nghiệp nhà nước hiện nay đang thu hút. Nó chiếm khoảng trên 20% nguồn vốn của doanh nghiệp và có xu hướng ngày càng tăng Hiện nay các doanh nghiệp nhà nước vẫn là khách hàng chủ yếu của các ngân hàng thương mại nhà nước, chiếm trên 30% tổng số vốn cho vay. Đây là một con số đang làm đau đầu các nhà hoặc định chính sách vì việc cách ngân hàng huy động vốn có thời hạn ngắn để cho các doanh nghiệp nhà nước vay đầu tư vào các công trình lớn là một điều vô cùng nguy hiểm mang tính rủi ro cao nhất là khi mà chúng ta đã gia nhập vào WTO, việc can thiệp cùa nhà nước vào thị trường không còn được như trước f)Hiệu quả sử dụng vốn đầu tư thấp Tuy DNNN có tiềm lực lớn, được ưu đãi nhiều,có vốn đầu tư lớn nhất,vốn đầu tư cũng nhiều nhất đầu tư lớn từ phía Nhà nước nhưng hiệu quả kinh doanh thấp, năng lực cạnh tranh chưa tương xứng với đầu tư của nhà nước và lượng vốn bỏ ra.Theo số liệu thống kê, đến năm 2007 cả nước còn gần 3.000 doanh nghiệp nhà nước các loại, đang nắm giữ 20% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, gần 50% tổng vốn đầu tư của Nhà nước, 70% tổng vốn vay các ngân hàng nước ngoài và gần 60% tổng lượng vốn tín dụng của các ngân hàng thương mại nhà nước...Thế nhưng, hàng năm khối doanh nghiệp nhà nước mới chỉ đóng góp khoảng 40% thu nhập trong GDP của cả nước.Theo báo cáo của Kiểm toán Nhà nước về kết quả kiểm toán 277/523 DN thuộc 21 tổng công ty, tổ chức tài chính - ngân hàng công bố năm 2006 về kết quả hoạt động năm 2005 cho thấy, có 76,5% DN được kiểm toán có lãi với tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu bình quân là 19,2%, chỉ có 23% số DN thua lỗ. Đây là điều gây ngạc nhiên lớn bởi theo Báo cáo kiểm toán 2005 về kết quả hoạt động năm 2004 thì hầu hết các tổng công ty, tập đoàn kinh tế của Nhà nước có tỷ suất lợi nhuận chỉ là 0,5%. Các ý kiến cho rằng hiện còn nhiều DNNN chưa kiểm toán có lãi, nhưng lợi nhuận vẫn thấp hơn lãi suất ngân hàng, nhiều doanh nghiệp sống dựa vào việc cho thuê mặt bằng, còn kinh doanh thực tế không hiệu quả. Dẫu được hưởng hầu hết mọi ưu ái nhưng tỷ suất lợi nhuận/vốn kinh doanh của DNNN chỉ bằng 1/3 so với DN có vốn đầu tư nước ngoài và tỷ lệ nộp vào ngân sách cũng chưa cao: trong năm 2005, nộp ngân sách của các DNNN chỉ tăng có 49%, trong khi đó, con số này của các DN ngoài quốc doanh là 137%. Bảng8:Hiệu quả sử dụng vốn của DNNN so Với DN ngoài quốc doanh và DN có vốn đầu tư nước ngoài Loại hình DN Năm Tỷ suất lợi nhuận Trên vốn sản xuất kinh doanh Trên doanh thu Toàn bộ DN trong nền kinh tế 2001 2002 2003 2004 2005 2006 3.777 4.32 4.535 4.85 4.35 4094 5.406 5.134 5.368 5.99 5.23 6.12 DNNN 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2.453 2.9 2.768 3.15 3.21 3.52 4.176 4.179 4.154 5.27 5.4 6.22 DN ngoài quốc doanh 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2.277 2.311 2.146 1.62 1.49 2.01 1.343 1.504 1.492 1.25 1.21 1.74 DN có vốn đầu tư nước ngoài 2001 2002 2003 2004 2005 2006 8.74 9.991 11.598 13.04 11.25 13.15 13.019 16.612 14.602 15.37 11.82 14.19 Bảng9:Kết quả kinh doanh của DNNN so với DN ngoài quốc doanh và DN có vốn đầu tư nước ngoài Loại hình DN Năm Doanh thu thuần bình quân 1 lao động(triệu đồng) Tỷ lệ nộp ngân sách so với doanh thu(%) Toàn bộ DN trong nền kinh tế 2001 2002 2003 2004 2005 2006 238 260 281 303 356 409 9.23 9.04 7.56 8.1 7.28 7.0 DNNN 2001 2002 2003 2004 2005 2006 228 275 300 323 421 525 10.85 9.27 7.87 7.76 7.88 7.29 DN ngoài quốc doanh 2001 2002 2003 2004 2005 2006 206 214 237 260 289 339 2.7 3.25 3.4 3.51 3.49 2.98 DN có vốn đầu tư nước ngoài 2001 2002 2003 2004 2005 2006 368 327 341 365 411 420 14.82 17.75 16.52 12.74 14.12 13.76 Theo xếp loại của Bộ tài chính,trong tổng số DNNN được xếp hạng thì chỉ có 44,4% xếp loại A,39.5 xếp loại B,16.1% xếp loại C Theo số liệu từ Ngân hàng Nhà nước thì hiện các DNNN đang nợ hơn 20.000 tỷ đồng, trong đó khoảng hơn 10.000 tỷ đồng là nợ quá hạn. Tỷ lệ nợ trên vốn của DNNN nhìn chung còn quá cao. Đặc biệt, nhiều công ty có số nợ phải trả gấp 5 lần vốn nhà nước tại công ty. Có công ty vay gấp hơn 20 lần vốn tự có nên khả năng thanh toán nợ rất thấp, rủi ro cao.Các DNNN chiếm tỷ trọng khá lớn trong tổng nợ tín dụng và đầu tư xã hội cụ thể là hơn 50% vốn đầu tư nhà nước,70% tổng dư nợ quốc gia và hơn 80% tổng dư nợ tín dụng..Nhiều DNNN hiện chỉ sử dụng 50% hiệu suất tài sản,số còn lại là sự lãng phí mà không thể tính được. g)Kết quả thu được từ cổ phần hoá Hiệu quả hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) vẫn là sự quan tâm lớn của dư luận. Đặc biệt là các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế, như: IMF, WB, ADB và tổ chức phát triển của Liên hợp quốc UNDP luôn khuyến cáo Chính phủ Việt Nam cần đẩy mạnh việc sắp xếp lại các DNNN. Một trong số các giải pháp quan trọng sắp xếp lại các DNNN đó là tiến hành cổ phần hoá. Nếu như trong nhiều năm trước đây, giải pháp đó tiến hành chậm thì tốc độ cổ phần hoá DNNN trong 2 năm: 2005–2006 được đẩy nhanh hơn gắn liền với phát hành cổ phiếu lần đầu - IPO của các DNNN trên thị trường chứng khoán được tiến hành thuận lợi. Tuy nhiên, tiến độ cổ phần hoá trong năm 2007 lại rơi vào tìnhtrạng quá chậm. Bảng 10: Tiến độ cổ phần hóa DNNN  NĂM  DNNN CPH  NĂM  DNNN CPH  6/1992-1997  1998  1999  2000  2001  18  71  249  212  258  2002  2003  2004  2005  217  535  700  724   Qua số liệu tổng hợp của tiến trình CPH DNNN cho thấy tiến trình CPH diễn ra rất chậm, có tăng trưởng nhưng tỷ lệ tăng không liên tục, bắt đầu tăng nhanh từ năm 2004 đến nay, quy mô của các DNNN được CPH thường rất nhỏ, làm ăn kém hiệu quả nợ khó đòi rất cao, không tìm được đầu ra cho sản phẩm. Trong khi đó những DNNN kinh doanh có hiệu quả, vốn từ 20 tỷ đồng trở lên, có uy tín cao trên thương trường thì Nhà nước nắm giữ tỷ lệ cổ phần chi phối quá lớn. Riêng, năm 2004 là năm có số lượng DNNN được CPH khá lớn nhưng đáng tiếc năm 2004 chỉ có 4 DNNN CPH niêm yết trên TTGDCK TP. HCM.Trong suốt cả năm 2007, toàn quốc chỉ sắp xếp, cổ phần hoá được 116 DNNN, đạt 21% so với kế hoạch cả năm được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt; trong đó, riêng cổ phần hoá được 82 DNNN, đạt 21% kế hoạch, một kết quả quá thấp.  Tính chung đến hết tháng 12/2007, trong cả nước đã, sắp xếp, cổ phần hoá được trên 3.800 DNNN, chiếm trên 70% doanh nghiệp cần được sắp xếp lại và chiếm 25% vốn Nhà nước tại các doanh nghiệp. Tuy số vốn Nhà nước đã cổ phần hoá còn quá khiêm tốn nhưng số lượng doanh nghiệp được cổ phần hoá nói trên đã tạo một khối lượng hàng hoá rất lớn cho thị trường chứng khoán giao dịch chính thức. Cổ phiếu niêm yết trên Sở Giao dịch Chứng khoán TP.HCM và Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Hà Nội, cũng như cung cấp một khối lượng rất lớn cổ phiếu giao dịch trên thị trường phi tập trung, tức thị trường OTC.Mặt khác nó còn huy động thêm vốn từ xã hội vào quá trình sản xuất kinh doanh. Quá trình cổ phần hóa giai đoạn vừa qua đã thu huy động được một khối lượng tiền lớn của các tổ chức cá nhân trong xã hội để đầu tư vào sản xuất kinh doanh,đầu tư vào các mục tiêu phát triển của kinh tế đất nước.Các DNNN đã CPH đều có bước phát triển nhanh về doanh thu, thu nhập người lao động, vốn điều lệ, hiệu quả kinh tế tăng lên khá rõ. Hiện nay, tỷ suất lợi nhuận trên vốn của các DNNN chỉ đạt dưới 10% nhưng ở các DNNN CPH đã đạt xấp xỉ 20%. Qua khảo sát 850 doanh nghiệp CPH hơn một năm cho thấy: vốn điều lệ tăng 44%; doanh thu tăng 24%, lợi nhuận tăng 140%; nộp ngân sách tăng 25%; thu nhập người lao động tăng 12%. Cổ tức chia bình quân là 17% và hơn 87% doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả hơn so trước khi CPH. Trong tổng số DNNN CPH có khoảng 80% doanh nghiệp có vốn dưới 10 tỷ đồng, trong đó số doanh nghiệp dưới 5 tỷ chiếm 60%; các doanh nghiệp vốn trên 10 tỷ chỉ chiếm 18,5% Nếu đánh giá riêng một số DNNN CPH hoạt động có hiệu quả và đặc biệt là các DN tham gia niêm yết trên TTCK thì CPH là điều kiện tiên quyết cho các DNNN có thể khai thác tiềm lực tối đa để huy động vốn của toàn xã hội thông qua phương thức phát hành CK. Cổ phần hóa đã tạo ra loại hình doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu bao gồm : Nhà nước, người lao động trong doanh nghiệp, các cổ đông ngoài doanh nghiệp,phần lớn là các cổ đông tiềm năng đã tạo ra động lực mở rộng thị trường, tăng thêm tiềm lực tài chính cho hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty cổ phần. h)Thành công của việc phát hành trái phiếu quốc tế Từ năm 1991 đến 2003, kỳ phiếu và trái phiếu kho bạc là công cụ chủ yếu để huy động vốn cho ngân sách nhà nước và cho đầu tư phát triển. Đặc điểm của thời kỳ này là phát hành trực tiếp qua hệ thống kho bạc nhà nước. Về mặt pháp lý, nó đánh dấu một bước tiến quan trọng trong quá trình chuyển đổi và hoàn thiện cơ chế huy động vốn của Nhà nước, các loại trái phiếu đã phong phú và linh hoạt hơn trong từng giai đoạn, có tác dụng tích cực trong việc thu hút mọi người dân tham gia mua trái phiếu.  Cuối tháng 10.2005, 750 triệu USD trái phiếu đã được bán hết với lãi suất danh nghĩa là 6,875%/năm; trong đó các nhà đầu tư châu Á nắm giữ 38%, châu Âu 32% và Mỹ là 30%. Trong số các nhà đầu tư này, các quỹ đầu tư tài chính là đối tượng quan tâm nhiều nhất đến trái phiếu của Việt Nam (chiếm tới 52%), còn lại là ngân hàng (25%), các công ty bảo hiểm (17%) và các tổ chức tài chính khác (7%). Thành công này hứa hẹn mở ra một kênh huy động vốn mới cho các doanh nghiệp. khi mà nguồn vốn trong nước đang đi dần đến điểm bão hoà, khó huy động hơn. i) Ngân sách “bà đỡ” của cách doanh nghiệp nhà nước Việt Nam Theo các số liệu thống kê ta thấy khoảng 50% vốn đầu tư của các doanh nghiệp là vốn từ ngân sách. Hầu như các dự án quan trọng của doanh nghiệp đều được đầu tư 100% từ ngân sách nhà nước, cho thấy sức ỳ trong việc huy động vốn của các doanh nghiệp nhà nước vẫn còn rất lớn, tư tưởng cũ vẫn còn tồn tại làm thoái hóa khả năng sáng tạo và tự vận động của 1 bộ phận không nhỏ doanh nghiệp nhà nước. 2)Các vấn đề còn tồn tại trong hoạt động huy động và sử dụng vốn trong các doanh nghiệp nhà nước hiện nay. *Nhiều doanh nghiệp huy động vốn quá lớn,dư nợ nhiều DNNN đã lợi dụng sự ưu đãi của mình huy động vốn tràn lan,gây thất thoát lớn và lãng phí .DNNN huy động vốn từ lợi thế được ưu đãi từ các tập đoàn kinh tế nhà nước với lãi suất cơ bản là 8,5%/năm và tối đa không quá 150 mức lãi cơ bản đó.Điều đó lí giải vì sao có nhiều tập đoàn kinh tế nhà nước có vốn vay vượt rất xa số vốn chủ sở hữu của họ. Phần lớn các DNNN khi vay không có tài sản để đảm bảo,hoặc nếu có thì hồ sơ pháp lí chưa đầy đủ.Do không xác định về điều kiện và mức khống chế nên có nhiều tổng công ty ,tập đoàn kinh tế nhà nước có nợ phải trả lớn gấp nhiều lần vốn chủ sở hữu,dẫn đến khả năng thanh toán không được đảm bảo. *Cơ cấu đầu tư chưa hợp lí Câu chuyện về hệ số ICOR (hệ số đầu tư tăng trưởng, hệ số sử dụng vốn) của đầu tư nhà nước lại nóng lên. Vào thời điểm trước cuộc khủng hoảng tài chính khu vực châu Á giai đoạn 1997-1998, hệ số này trong đầu tư của Việt Nam chỉ khoảng ở khoảng 3,4 - 3,5. Giải pháp kích cầu hậu khủng hoảng kinh tế được thực hiện tại Việt Nam sau đó đã đẩy hệ số này lên tới 6, và hiện giờ đang duy trì ở mức cao là 5. Theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới (WB) trong báo cáo Phát triển Việt Nam năm 2009, thì hệ số ICOR ở Việt Nam cao hơn, năm 2007 là 6,6 so với mức 4,5 vào năm 2001. Khu vực nhà nước có hệ số ICOR cao hơn cả, đến gần 8, trong khi khu vực tư nhân được ghi nhận ở mức hơn 4 trong năm 2007. Nguyên nhân của tình trạng này đó là hệ quả của đầu tư ồ ạt, kém hiệu quả Cơ cấu đầu tư còn chưa hợp lí:việc đầu tư cho nghiên cứu khoa học, đào tạo nhân lực quảng bá thương hiệu tại các doanh còn yếu kém,lại chưa đầu tư vào nguồn nhân lực,đa số trình độ lao động là phổ thông hoặc được đào tạo không chính quy vì vậy khi đưa tiến bộ công nghệ vào sản xuất hoặc ngành công nghệ cao thì đội ngũ lao động hiện tại không đủ trình độ để đáp ứng yêu cầu,tình trạng thiếu kỹ thuật tay nghề cao ngày càng trầm trọng.Thế nhưng vẫn tồn tại hiện tượng nhân tài không được trọng dụng tại các doanh nghiệp đang diễn ra phổ biến và đang trở thành đề tài nhức nhối của toàn xã hội. DN cũng chưa chịu đổi mới trang thíêt bị kĩ thuật ,đầu tư mua sắm thêm các trang thiết bị.Nhiều máy móc thiết bị của DNNN lạc hậu đã nhiều năm,không ít máy móc chờ thanh lí.Bên cạnh đó cũng có nhiều máy móc thiết bị tuy được đầu tư hiện đại nhưng hoạt động không hết công suất gây lãng phí.Trình độ công nghệ của DNNN còn lạc hậu,1 số DN còn sử dụng công nghệ cũ,tiêu hao nhiên liệu,năng lượng cao,sức cạnh tranh chưa đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế. Các tập đoàn của Việt Nam với công nghệ vốn,trình độ quản lí nhân lực...còn khiêm tốn thì lại khômg tập trung vào các lĩnh vực có thế mạnh và chuyên nghành lĩnh vực thuộc sở trường của mình mà lại chủ trương kinh doanh đa ngành.Đa phần các tập đoàn đầu tư vào các lĩnh vực ngân hàng,bất động sản,chứng khoán...những lĩnh vực đó không thuộc sở trường của họ có thể đem lại lơi nhuận cao nhưng cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro. *Việc giám sát,quản lí hoạt động đầu tư còn nhiều bất cập Việc quản lí,giám sát các hoạt động đầu tư của DN còn kém.Đó là do việc quản lí lỏng lẻo của nhà nước và cũng là do trình độ quản lí kém.Nguồn vốn đầu tư do nhà nước quản lý chủ yếu là vốn đầu tư xây dựng cơ bản, tuy tiến độ có đạt khá nhưng đầu tư vẫn còn dàn trải và chủ yếu vẫn là những công trình chuyển tiếp và trả vốn cho các công trình đã ứng trước của các năm trước đó. Thực tế những năm vừa qua đã cho thấy, nhiều nơi, nhiều lúc tình trạng thất thoát, đặc biệt tệ lãng phí trong đầu tư xây dựng cơ bản đã xảy ra tương đối trầm trọng mà nhiều kỳ họp của Quốc hội, của Hội đồng nhân dân các cấp đã đề cập, giải trình. Các cơ quan pháp luật, Chính phủ cũng đã có nhiều biện pháp ngăn chặn, xử lý, nhiều vụ án đã được đưa ra xét xử nghiêm minh, nhưng vẫn còn có nhiều vụ việc, nhiều công trình lãng phí tiền bạc của ngân sách Nhà nước nhiều tỷ đồng chưa được giải quyết một cách kịp thời, đúng pháp luật. Dư luận cảm thấy rất đau lòng khi xảy ra những công trình thiết kế không bảo đảm, thi công chưa xong thì phải sửa đổi thiết kế đến khi hoàn thành thì cũng chẳng có sử dụng; thời gian thi công công trình từ khi khởi công hoành tráng đến khi bàn giao phải mất gần chục năm trong khi nếu thực hiện đúng quy định của Nhà nước thì chỉ mất khoảng vài năm; công trình dự toán ban đầu chưa đầy chục tỷ đồng nhưng đến khi nghiệm thu hoàn thành đã vượt trên hai lần. Một điều đáng phải lên án đó là công trình mới hoàn thành tốn hàng chục tỷ đồng không sử dụng được và nếu lại phải phá đi để xây dựng ở một địa điểm khác thì cũng phải tốn mất một khoản kinh phí gần bằng khi xây. Đó chỉ là một trong vô số công trình ra đời của tệ lãng phí - bất chấp cả luật pháp và dư luận, làm cho thất thoát một lượng tiền của ngân sách rất lớn, trong khi hàng năm chúng ta phải đi vay của các tổ chức quốc tế, của các ngân hàng nước ngoài hàng tỷ USD để đầu tư cho phát triển kinh tế - xã hội, cho xoá đói giảm nghèo... Chính những công trình, dự án có số phận như: chậm hoàn thành, đầu tư không đúng, dàn trải, không kịp thời đưa vào khai thác sử dụng... một mặt làm thất thoát tiền bạc; nhưng mặt khác còn trầm trọng hơn nữa là lực cản của sự phát triển của nền kinh tế đất nước, làm giảm tốc độ tăng trưởng. 3)Nguyên nhân của các tồn tại trên a)Nguyên nhân khách quan -Trong DNNN,sở hữu DN là toàn dân.Nhà nước(chính phủ) đại diện cho toàn dân quản lí phần tài sản này.Do vậy vẫn còn tồn tại những tư tưởng cấp phát, cơ chế mệnh lênh của cơ chế cũ đó là DNNN phải tuân thủ những quy trình hành chính của nhà nước trong tất cả các việc từ mua sắm hay đầu tư,cái gì cũng phải lên kế hoạch,làm tờ trình,xin được phê duyệt,gọi thầu,đấu thầu... Do vậỵ DNNN không nắm bắt được những cơ hội mới của kinh tế thị trường,dẫn đến những thất bại trong cạnh tranh. DNNN tuy thuộc sở hữu nhà nước nhưng vai trò,trách nhiệm của chủ sở hữu và người quản lí lại không xác định rõ rang,trong khi DN tại các bộ chủ quản thì lại cũng không có cơ quan nào phải chịu trách nhiệm cuối cùng về hoạt động của DN. -Chủ chương cổ phần hóa chưa được thực hiện triệt để. Còn nhiều công ty đang trong giai đoạn phá sản, hoặc tình hình tài chính mập mờ, không chính xác minh bạch, gây khó khăn lớn cho việc cổ phần hóa - Nhà nước can thiệp quá nhiều vào hoạt động của DN trong quá trình cấp vốn,sử dụng vốn đầu tư.Đó là lí do dẫn đến tình trạng ỷ lại,trông chờ vào tín dụng nhà nước,vào tín dụng ưu đãi ,vào vốn vay của các ngân hàng thương mại quốc doanh của DNNN.Nhà nước ban hành những chính sách khuyến khích, ưu đãi đầu tư song việc triển khai thực hiện vẫn còn một số mặt bất cập, một số điểm chưa phù hợp với lộ trình hợp tác kinh tế quốc tế và thu hút đầu tư: - Công tác quy hoạch của nhà nước chưa hoàn chỉnh, còn chậm nhất là quy hoạch phát triển các khu công nghiệp, quy hoạch đô thị và dịch vụ thương mại,. --Thị trường tài chính chưa phát triển.Thị trường tài chính là một trong những thị trường yếu tố sản xuất quan trọng, bao gồm thị trường tiền tệ (thị trường vốn ngắn hạn) và thị trường vốn (thị trường vốn dài hạn - thị trường chứng khoán). Ở nước ta, Thị trường tài chính còn rất non trẻ, đặc biệt là thị trường vốn dài hạn rất sơ khai. Vì vậy, việc huy động các nguồn vốn dài hạn đang là gánh nặng của cả hệ thống ngân sách và ngân hàng. Việc xây dựng và hoàn thiện thể chế để phát triển Thị trường tài chính là vấn đề vừa cấp bách vừa lâu dài nhằm đáp ứng đủ vốn cho nhu cầu CNH - HĐH đất nước. b)Nguyên nhân chủ quan - Người được giao trọng trách quản lý tài sản nhà nước tại DNNN thường là hội đồng quản trị do chủ tịch đứng đầu. Những ông chủ này không có đầy đủ quyền năng (gồm quyền sử dụng, chuyển nhượng và định đoạt). Thường họ không có một đồng vốn nào trong DN vậy nhưng lại được tiêu tiền thật. Một trong những cách tiêu tiền quen thuộc là thông qua việc đầu tư mua sắm vật tư thiết bị để nâng giá khống. Những chuyện như vậy trên thực tế diễn ra rất nhiều và điều này tất yếu sẽ làm tăng chi phí và giảm hiệu quả đầu tư. -Nhận thức của cán bộ đảng viên về thu hút các nguồn nội lực, ngoại lực tuy đã được nâng cao, tuy nhiên năng lực lãnh đạo, giải pháp tổ chức thực hiện còn hạn chế. Trong chỉ đạo và điều hành chỉ tập trung vào khai thác nguồn lực, vốn đầu tư do Nhà nước quản lý mà coi nhẹ nguồn vốn dân cư.Thêm vào đó là sự lãng phí của DNNN,đó là tình trạng đầu tư không đồng đều,gây ra sự lãng phí mà hiệu quả của việc đầu tư không cao,kém hiệu quả -Công tác giải tỏa, đền bù, san lấp mặt bằng để đầu tư hệ thống công trình hạ tầng kỹ thuật còn chậm (nhất là các KCN) tiến độ triển khai về vốn và thủ tục đầu tư để đầu tư hệ thống công trình hạ tầng kỹ thuật ngoài hàng rào các KCN và doanh nghiệp chưa đáp ứng kịp yêu cầu đầu tư. - Cải cách thủ tục hành chính theo mô hình "một cửa" tuy đã thực hiện nhưng mang lại hiệu quả chưa cao. Thủ tục đầu tư trên lĩnh vực xây dựng và đất đai còn phức tạp nhưng chậm được đổi mới, thời gian chờ đợi còn kéo dài. - Việc phối hợp giữa các ngành, các cấp trong việc thu hút đầu tư chưa được chặt chẽ, thường xuyên. Một số công chức trong các ngành tuy tuân thủ đúng các quy định nhưng quá máy móc khi áp dụng khiến nhiều nhà đầu tư nản lòng. - Việc vận động, kêu gọi và xúc tiến thu hút đầu tư còn thiếu kinh nghiệm, thiếu tính đồng bộ giữa các Sở, ban ngành của tỉnh, các huyện thị và các doanh nghiệp có liên quan trong tỉnh. - Công tác đào tạo, huấn luyện nguồn nhân lực tại chỗ có trình độ chuyên môn, kỹ thuật và tay nghề để đáp ứng cho các doanh nghiệp còn thiếu về số lượng và thấp về chất lượng. - Công tác ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin trong các loại hình doanh nghiệp còn nhiều hạn chế. Chương III GIẢI PHÁP HUY ĐỘNG VÀ SỬ DỤNG VỐN ĐẦU TƯ PHAT TRIỂN CỦA DNNN I.Giải pháp vi mô: 1.Giải pháp tăng cường huy động vốn của doanh nghiệp nhà nước: 1.1.Cổ phần hóa,đa dạng hóa hình thức sở hữu doanh nghiệp nhà nước: Cổ phần hóa DNNN là việc các DNNN bán cổ phần của mình cho công chúng và công nhân viên trong công ty để huy động nguồn vốn trong công chúng. Cổ phần lớn nhất của công ty không nhất thiết phải là của nhà nước mà cũng có thể nhà nước giữ 1 lượng cổ phần nhất định để biểu quyết về các quyết định của công ty.Còn đối với một số ngành cơ hữu của nhà nước như tập đoàn than và khoáng sản ,tập đoàn điện lức ... thì đa số cổ phần trong công ty này là của nhà nước vì đây là 1 số ngành đặc biệt quan trọng với nước ta. Tại sao cổ phần hóa DNNN vì: +tạo sự thúc đẩy trong sản xuất kinh doanh của nhân viên trong Doanh nghiệp vì họ lao động là phục vụ lợi ích cho công ty và cho chính bản thân họ +huy động nguồn vốn trong nhân dân và trong cán bộ công nhân viên của Dn để giảm bớt gánh nặng tài chính cho nhà nước +DN cổ phần hóa sẽ được hoạt động như công ty đối vốn và không còn cơ chế bao cấp của nhà nước .Tính chịu trách nhiệm sẽ cao hơn trong công việc và có tác phong kinh doanh hiện đại vì không còn ỉ lại nhà nước nữa. Việc chuyển đổi doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần không chỉ giúp Nhà nước bảo tồn nguồn vốn mà còn tăng đáng kể tỉ suất lợi nhuận trên đồng vốn. Các doanh nghiệp hoạt động năng động, nhạy bén và tự chủ hơn trong kinh doanh. Quá trình cổ phần hoá đã thu hút rộng rãi các nguồn vốn của người lao động cả trong doanh nghiệp và ngoài xã hội, nhờ đó doanh nghiệp có vốn đầu tư đổi mới công nghệ, phát triển sản xuất kinh doanh theo chiều sâu. Để có thể thực hiện cổ phần hoá một cách hiệu quả nhất phải: - Rà soát lại các tiêu chí phân loại DNNN cần duy trì 100% sở hữu nhà nước, những doanh nghiệp có cổ phần chi phối và những doanh nghiệp trong đó nhà nước sẽ bán phần lớn cổ phần hoặc toàn bộ cổ phần, giảm bớt ngành nghề, lĩnh vực nhà nước nắm cổ phần chi phối. - Đối với những doanh nghiệp nhà nước cần nắm 100% sở hữu: + Từng bước tạo lập khuân khổ pháp lý để tiến hành công ty hoá DNNN (chuyển DNNN 100% vốn Nhà nước sang hoạt động theo mô hình công ty và luật doanh nghiệp). Đối với các doanh nghiệp loại này: Cần tiến hành tách quyền sở hữu các DNNN kinh doanh ra khỏi các cơ quan của Chính phủ; xác định cơ quan duy nhất thực hiện quyền sở hữu và kiểm soát đối với doanh nghiệp. Cơ quan này thay mặt nhà nước thực hiện quyền sở hữu đối với doanh nghiệp. Chuyển giao những trách nhiệm tài trợ và thực hiện các chức năng xã hội của doanh nghiệp sang cho chính quyền địa phương thực hiện, thực hiện quỹ luận ngân sách nghiêm ngặt. Nâng cấp hệ thống thông tin tài chính và công bố những báo cáo về kiểm toán, tài chính; nâng cáo năng lực quản lý và kế toán. Đưa ra hệ thống đòn bẩy khuyến khích các nhà quản lý và công nhận nâng cao kết quả, các cán bộ quản lý phải có các hợp đồng quy định những điều khoản trả lương theo kết quả công nghiệp. + Xây dựng hệ thống chỉ tiêu giám sát có hiệu quả đối với các DNNN còn giữ 100% sở hữu Nhà nước, trong đó có các DNNN đã chuyển sang công ty hoá. - Đối với DNNN thuộc diện cổ phần hoá: +Làm rõ những vấn đề còn tồn tại về cổ phần hoá như đánh giá lại tài sản, các thủ tục, phương thức cổ phần hoá. + Đổi mới chế độ chính sách đối với nhà đầu tư, người mua cổ phần. +Thiết lập quỹ hỗ trợ thất nghiệp cho những người bị mất việc làm do cổ phần hoá. - Đối với các DNNN quy mô chỉ thua lỗ kéo dài hoặc nhà nước không cần nắm giữ cổ phần: + Đẩy nhanh việc ban hành nghị định giao, bán khoán kinh doanh cho thuê DNNN để đẩy mạnh đa dạng hoá sở hữu, phương thức quản lý doanh nghiệp, giảm bớt doanh nghiệp quy mô nhỏ Nhà nước không giữ 100% vốn sở hữu. + Ưu tiên về chính sách đối với các trường hợp tiếp nhận nhiều lao động của các doanh nghiệp này. + Ban hành chính sách giải quyết nợ cho các doanh nghiệp chuyển sang áp dụng giao, bán, khoán kinh doanh và cho thuê. 1.2.Tạo lập vốn chủ sở hữu: Bản thân nguồn vốn này trích từ lợi nhuận sau khi thực hiện các nghĩa vụ đối với nhà nước của doanh nghiệp. Nguồn vốn nay chính là cơ sở để cho các doanh nghiệp gọi vốn Bởi vì mỗi dự án muốn gọi được vốn đầu tư thì bản thân chủ dự án phải có từ 15%-30% vốn, nếu không đạt được tỷ lệ này thì không ai dám cho doanh nghiệp vay vốn. Muốn tạo lập đc nguồn vốn này đòi hỏi doanh nghiệp phải hoạt động có hiệu quả có lãi 1.3.Nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp: -Các doanh nghiệp phải lập chương trình tiết kiệm nguyên liệu, năng lượng, hoàn thiện công nghệ sản xuất và quản lý để tăng năng suất lao động, giảm chi phí trên từng công đoạn của quá trình sản xuất, lưu thông, bảo đảm chất lượng, hạ giá thành sản phẩm đi đôi với việc thiết lập và hoàn thiện các kênh phân phối để chiếm lĩnh và mở rộng thị trường nội địa. Nâng cao hiệu quả của doanh nghiệp nhà nước trước hết là các tập đoàn và tổng công ty. Tăng cường trách nhiệm của chủ sở hữu nhà nước đối với hoạt động đầu tư, kinh doanh của khối doanh nghiệp này, hướng vào các ngành nghề kinh doanh chính để đổi mới công nghệ, nâng cao năng suất, hiệu quả và sức cạnh tranh. các giải pháp nâng cao hiệu quả sx kinh doanh của doanh nghiệp: - Thứ nhất là, ưu tiên sản xuất các sản phẩm có khả năng cạnh tranh cao và có thể xuất khẩu. Giữ vững thị trường trong nước và phát triển thêm thị trường ngoài nước, cải tiến mẫu mã sản phẩm phù hợp với yêu cầu của người tiêu dùng. - Thứ hai là, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn , nắm bắt được những cơ hội đầu tư một cách nhanh chóng - Thứ ba là,thực hiện đầu tư có hiệu quả và có những thiết bị mang tính “vượt trội”, áp d ụng những tiến bộ khoa học kĩ thuật hiện đại vào sản xuất kinh doanh , trên cơ sở tổ chức hợp tác sâu rộng trong và ngoài nước. - Thứ tư là, tăng cường đào tạo và thu hút đội ngũ cán bộ kỹ thuật và công nhân có chuyên môn và tay nghề cao. - Thứ năm là, làm tốt công tác tài chính kinh doanh để tái sản xuất mở rộng - Thứ sáu là , tổ chức hợp tác sâu rộng, liên doanh, liên kết trong và ngoài nước. 2.Giải pháp sử dụng vốn hiệu quả của doanh nghiệp nhà nước: 2.1. Khai thác triệt để nguồn vốn bên trong doanh nghiệp: Để nâng cao hiệu quả quản lý sử dụng vốn, cần tìm nghuồn vốn tập trung vốn cho cho DNNN.Trong đó , cần khai thác triệt để nguồn vốn bên trong doanh nghiệp: từ lợi nhuận dể lại , từ các quỹ. Để có dược điều này cần thiết nhất các DNNN phải hoạt động kinh doanh có lãi, có hiệu quả , lợi nhuận đạt dược phải cao đặc biệt trong những ngành lĩnh vực có tích chất quan trọng. Và từ đó có sự quản lý doanh thu, chi phi và phân phối lợi nhuận một cách hợp lý: * Quản lý doanh thu ,chi phí - Cơ chế quản lý chi phí của doanh nghiêp theo hướng mở rộng quyền của người quản lý và điều hành doanh nghiêp trong việc quyết định các khoản chi phí, trên cơ sở trách nhiệm rõ ràng, cụ thể.  - Xây dựng và ban hành cơ chế kiểm soát chi phí của các doanh nghiệp trong các ngành có lợi thế hoặc độc quyền, chống việc lợi dụng những lợi thế, độc quyền để tạo nên những đặc quyền, đặc lợi.  * Phân phối lợi nhuận   - Cần khẳng định lợi nhuận sau thuế là của Nhà nước, Nhà nước có toàn quyền quyết định việc sử dụng các khoản lợi nhuận này. Nhà nước dành một phần khoản lợi nhuận sau thuế để khen thưởng và đảm bảo phúc lợi cho người lao động trong doanh nghiệp, song không tạo thành một đặc quyền của họ so với những người lao động ở các doanh nghiệp khác tạo nên sức ì khi chuyển đổi hình thức sở hữu.   - Xác định lại hệ thống quỹ của doanh nghiệp. Lợi nhuận sau thuế sau khi dành một phần để trích quỹ khen thưởng, phúc lợi, còn lại dùng để đầu tư đổi mới công nghệ, thay thế thiết bị, bổ sung vào vốn cho doanh nghiệp. Đối với các doanh nghiệp không có các nhu cầu này hoặc nhà nước thấy không cần thiết phải đầu tư lại cho doanh nghiệp thì nhà nước sẽ thu hồi lại để đầu tư cho những doanh nghiệp có nhu cầu hoặc cần thiết phải đầu tư.  - Cải cách chế độ tiền lương: Thực hiện chế độ tiền lương theo chức danh tiêu chuẩn, tiền lương phải thực sự là thu nhập chủ yếu của người lao động đủ sức nuôi sống bản thân người lao động và gia đình (thậm chí còn có tích luỹ), còn tiền thưởng chỉ là thứ yếu nhằm kích thích người lao động hoàn thành tốt công việc được giao.  2.2. Tìm nguồn huy động vốn bên ngoài hợp lý, hiệu quả: -Trước hết, DNNN cần kiên quyết xóa bỏ các loại bảo hộ bất hợp lý như khoanh nợ, giãn nợ, xóa nợ cấp vốn tín dụng ưu đãi tràn lan đối với các hoạt động kinh doanh của DNNN. Thực hiện đầu tư vốn thông qua các Công ty đầu tư tài chính của Nhà nước. Hiện nay, vẫn còn nhiều vướng mắc về cơ chế chính sách trong quá trình thực hiện chưa được tháo gỡ, tiến độ thực hiện chậm, hiệu quả hoạt động của nhiều DNNN còn thấp, tình trạng thất thoát, lãng phí và tham nhũng chưa được khắc phục. -Trong điều kiện vốn ngân sách Nhà nước còn nhiều khó khăn phải giải quyết nhu cầu chi tiêu lớn cho an ninh quốc phòng và các nhu cầu phát triển kinh tế, văn hóa xã hội khác nên việc trợ giúp cho các DN cũng rất hạn hẹp. Bản thân các ngân hàng thương mại cũng là DN nên nguồn vốn cho vay cũng là nguồn vốn huy động. Nếu DN không trả được nợ thì ngân hàng cũng sẽ không có vốn để quay vòng và ngược lại. Nên DN phải nêu cao tinh thần tự lực cánh sinh là chính, tận dụng mọi nguồn thu và huy động vốn từ nhiều nguồn để giảm bớt những áp lực khó khăn nói chung. -Đối với các DNNN đã, đang và sẽ sắp xếp lại để cổ phần hóa, các ngân hàng thương mại chủ động tham gia xây dựng và quyết định phương án sắp xếp lại DNNN với vai trò là chủ nợ, phù hợp với chính sách và giải pháp tiếp tục đổi mới DNNN. Đồng thời, tiếp tục mở rộng đầu tư vốn tín dụng để giúp cho các DN đổi mới công nghệ bằng nguồn vốn trung dài hạn để mua sắm các loại máy móc thiết bị, dây chuyền sản xuất và xây dựng nhà xưởng để DN có đủ sức cạnh tranh cao, phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững trong quá trình hội nhập quốc tế. -Đối với tín dụng ngân hàng cần tập trung đầu tư vốn vào các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh có hiệu quả, có dự án khả thi và có khả năng trả nợ. -Tăng cường đôn đốc thu hồi nhanh vốn nhanh, thực hiện phương thức "tiền vào hàng ra, tiền trao cháo múc" hạn chế tối đa nhất các khoản vốn đi chiếm dụng và vốn bị chiếm dụng trong thanh toán. Tiếp tục đầu tư đổi mới công nghệ nâng cao chất lượng và hạ giá thành sản phẩm. Trên cơ sở đó tạo ra lợi nhuận trong DN, nâng cao đời sống của người lao động. -Phát triển mạnh các DN vừa và nhỏ, khuyến khích đầu tư cho các DN tư nhân, Công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, cần phát triển mạnh mẽ các mô hình DN tư nhân, mô hình này rất thích hợp với nền kinh tế thị trường ở nước ta. 2.3.Xây dựng chiến lược đầu tư đúng hướng: Tình trạng yếu kém trong định hướng đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước đã gây ra nhiều tác hại chẳng những cho bản thân mỗi doanh nghiệp mà còn gây tác hại lớn cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Với mỗi doanh nghiệp nó làm phân tán nguồn lực và sức mạnh nguồn vốn và trí tuệ khi doanh nghiệp còn chưa đủ sức cạnh tranh, thậm chí nó là nguy cơ tiềm ẩn của sự thua lỗ và phá sản.Với nền kinh tế quốc dân, nó gây ra sự lãng phí và thất thoát tiền vốn và tài sản công, nó gây ra sự rối loạn dòng chảy tài chính, tiền tệ, làm cho ngân sách quốc gia sa vào tình trạng bội chi, và kết cục nó là một trong những tác nhân của lạm phát, khiến cho nền kinh tế phát triển không bền vững. Giải pháp của doanh nghiệp: - Doanh nghiệp cần xây dựng một kết cấu tài sản hợp lý: kết cấu tài sản tùy thuộc vào đặc thù kinh doanh của từng doanh nghiệp. Do đó, doanh nghiệp cần xây dựng một cơ cấu tài sản tối ưu, phù hợp với đặc thù ngành nghề kinh doanh của doanh nghiệp. - Tăng tốc độ chu chuyển vốn, nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản. + Thường xuyên cập nhật khoa học kỹ thuật, chú trọng đổi mới trang thiết bị, tận dụng tối đa công suất máy móc, thiết bị, hợp lý hóa môi trường công nghệ. + Kịp thời thanh lý các tài sản cố định không cần dùng hoặc đã hư hỏng. + Không dự trữ quá mức các tài sản cố định chưa cần dùng, linh hoạt sử dụng quỹ khấu hao vào việc đầu tư kinh doanh sinh lòi, mua bảo hiểm tài sản để phòng ngừa rủi ro. + Sử dụng đúng các chức năng của quỹ dự phòng tài chính, trích trước chi phí dự phòng, giảm giá các khoản đầu tư tài chính. + Cân nhắc thận trọng khi đầu tư đổi mới tài sản cố định, thực hiện biện pháp đánh giá đúng giá trị tài sản cố định, lựa chọn phương pháp khấu hao thích hợp, mức khấu hao thích hợp không để mất vốn, hạn chế tối đa ảnh hưởng của hao mòn vô hình. + Sau mõi kỳ kinh doanh doanh nghiệp cần tiến hành phân tích đánh giá tình hình sử dụng tài sản cố định vào vốn, kiểm kê tài sản cố định, mọi trường hợp phát hiện thừa, thiếu đều phải lập biên bản tìm nguyên nhân và có biện pháp xử lý. + Nhà nước công bố hệ số trượt giá thì vốn doanh nghiệp phải tăng theo cùng hệ số để trích khấu hao cho đủ. + Doanh nghiệp có thể áp dụng các biện pháp tăng tốc độ vốn lưu động như: áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật để rút ngắn chu kỳ sản xuất sản phẩm, sớm đưa nguyên vật liệu và chế biến. II.Giải pháp vĩ mô: Thứ nhất Cần tập trung áp dụng cơ chế, giải pháp mạnh trong quản lý dự án, quản lý công trình đầu tư xây dựng cơ bản :bằng cách phân định rõ quyền và trách nhiệm của cá nhân, tổ chức trong từng khâu như chủ đầu tư, chủ dự án, tư vấn, thiết kế, nhà thầu, giám định... Thứ hai Tăng cường hoạt động kiểm tra, kiểm soát: +trước hết là các biện pháp giám sát và kiểm soát nội bộ, sau đó là các biện pháp kiểm tra, thanh tra từ bên ngoài; +hình thành, duy trì và nâng cao tính hiệu lực của hệ thống kiểm soát nội bộ bằng chính quy trình đầu tư, quy trình quản lý vốn, quản lý đầu tư... Hiện nay bộ Tài chính đã xác định một đổi mới quan trọng trong việc quản lý vốn nhà nước tại các doanh nghiệp, đó là chuyển từ quản lý hành chính sang phương thức kinh doanh vốn, có sự quản lý của nhà nước, thông qua tổ chức kinh doanh vốn nhà nước độc lập là Tổng công ty Đầu tư - Kinh doanh vốn nhà nước. đó là cơ sở để tạo ra một tổ chức kinh doanh vốn nhà nước mang tính chuyên nghiệp, một công cụ đẩy nhanh quá trình sắp xếp doanh nghiệp nhà nước và thúc đẩy thị trường vốn, thị trường chứng khoán phát triển. Thứ Ba Hoàn thiện hệ thống pháp luật, đổi mới cơ chế, chính sách đầu tư: + trước mắt tập trung triển khai có hiệu quả Luật đầu tư, Luật đấu thầu, Luật kinh doanh bất động sản, Luật doanh nghiệp, Luật chứng khoán...; chúng ta cần sớm ban hành luật quản lý đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước tạo hành lang pháp lý rõ ràng cho các doanh nghiệp nhà nước hoạt động một cách chủ động, tích cực.  +tiếp tục đổi mới mạnh mẽ hơn nữa cơ chế phân bổ vốn đầu tư, vốn cho chương trình mục tiêu quốc gia trên cơ sở tôn trọng nguyên tắc đầu tư, tôn trọng tiêu chí, tiêu chuẩn, định mức theo hướng công khai minh bạch và có chủ định rõ rệt. Đứng trước thực trạng lãng phí, thất thoát vốn đầu tư của Nhà nước khá trầm trọng như hiện nay thì giải pháp cơ bản là cần hạn chế tối đa các cơ hội để xảy ra thất thoát. Muốn thực hiện điều này và để nâng cao hiệu quả đầu tư thì Nhà nước chỉ nên đóng vai trò là người tiêu dùng lớn nhất, không nên kiêm nhiệm vừa là người sản xuất, vừa là người tiêu dùng. Hay nói cách khác, Nhà nước không trực tiếp tham gia vào cạnh tranh mà chỉ tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh, minh bạch. Nhà nước chỉ đầu tư vào những lĩnh vực mà tư nhân không được làm hoặc không muốn làm. Lĩnh vực nào mà tư nhân có thể làm tốt và mong muốn làm thì được Nhà nước khuyến khích. Với biện pháp đó, dòng vốn đầu tư của Nhà nước sẽ tránh bị chia cắt, dàn trải. Thứ tư Cải cách hành chính trong đầu tư xây dựng, trước hết tập trung vào cải cách thủ tục hành chính, thủ tục đầu tư, thủ tục xem xét, phê duyệt dự án, phân bổ và bố trí vốn, thủ tục giải ngân và thanh toán... Thứ năm Nâng cao chất lượng, tầm nhìn dài hạn, tính đồng bộ, tính liên kết, tính pháp lý trong công tác quy hoạch, kế hoạch đầu tư xây dựng cơ bản. Chính phủ cần sớm ban hành Nghị định về quy hoạch hoặc chỉ đạo soạn thảo Pháp lệnh về quy hoạch đầu tư xây dựng cơ bản; tăng cường phân cấp, phân quyền, phân công nhiệm vụ cụ thể, rõ ràng gắn quyền với trách nhiệm trong công tác quy hoạch giữa các bộ ngành, địa phương. CHƯƠNG I: 1 LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGUỒN VỐN ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN CỦA DNNN 1 I-NGUỒN VỐN ĐẦU TƯ CỦA DOANH NGHIỆP 1 1. Khái niệm-bản chất của nguồn vốn đầu tư : 1 2. Các nguồn vốn đầu tư của doanh nghiệp 3 II. CÁC NGUỒN VỐN VÀ PHƯƠNG THỨC HUY ĐỘNG VỐN ĐẦU TƯ CỦA DNNN 6 1. Khái quát về DNNN. 6 2. Các nguồn vốn và phương thức huy động vốn trong DNNN 7 2.1 Nguồn vốn chủ sở hữu. 9 2.2 Nợ và phương thức huy động nợ của DN: 12 3. Hoạt động sử dụng các nguồn vốn đầu tư của DNNN. 16 4. Những nhân tố ảnh hưởng tới nguồn vốn đầu tư trong DNNN 18 CHƯƠNG II: 22 THỰC TRẠNG HUY ĐỘNG VÀ SỬ DỤNG VỐN ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN CỦA DNNN VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN 2001-2007 22 I-THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG DNNN VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN 2001-2007. 22 II-THỰC TRẠNG HUY ĐỘNG VÀ SỬ DỤNG VỐN ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN CỦA DNNN TRONG GIAI ĐOẠN 2000-2007. 26 1.Thực trạng huy động vốn đầu tư phát triển của DNNN giai đoạn 2000-2007. 26 1.1.Thuận lợi-Khó khăn của doanh nghiệp trong quá trình huy động vốn 26 1.1.1.Thuận lợi: 26 1.1.2.Khó khăn: 27 1.1.2.1. Nhà nước đang thắt chặt ngân sách dành cho DNNN 27 1.1.2.2.Hạn chế nguồn vốn tín dụng ngân hàng 27 1.1.2.3.Thị trường tài chính yếu kém 27 1.2.Thực trạng huy động vốn đầu tư phát triển của DNNN giai đoạn 2001-2007 28 1.2.1.Vốn góp ban đầu 28 1.2.1.1.Vốn được cấp từ ngân sách nhà nước 28 1.2.1.2.Vốn huy động từ nội bộ doanh nghiệp 29 1.2.1.3.Vốn huy động thông qua phát hành cổ phiếu 29 1.2.2.Vốn huy động thông qua cổ phần hóa 29 1.2.3.Vốn vay tín dụng ngân hàng thương mại 30 1.2.4.Huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu 31 2.Thực trạng sử dụng vốn đầu tư phát triển của DNNN trong giai đoạn 2001-2007 32 III.KẾT QUẢ VÀ CÁC TỒN TẠI TRONG HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VÀ SỬ DỤNG VỐN ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN CỦA DNNN 35 1)Kết quả hoạt động huy động và sử dụng vốn đầu tư phát triển của DNNN 35 2)Các vấn đề còn tồn tại trong hoạt động huy động và sử dụng vốn trong các doanh nghiệp nhà nước hiện nay. 47 3)Nguyên nhân của các tồn tại trên 50 Chương III 53 GIẢI PHÁP HUY ĐỘNG VÀ SỬ DỤNG VỐN ĐẦU TƯ PHAT TRIỂN CỦA DNNN 53 I.Giải pháp vi mô: 53 1.Giải pháp tăng cường huy động vốn của doanh nghiệp nhà nước: 53 1.1.Cổ phần hóa,đa dạng hóa hình thức sở hữu doanh nghiệp nhà nước: 53 1.2.Tạo lập vốn chủ sở hữu: 55 1.3.Nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp: 56 2.Giải pháp sử dụng vốn hiệu quả của doanh nghiệp nhà nước: 57 2.1. Khai thác triệt để nguồn vốn bên trong doanh nghiệp: 57 2.2. Tìm nguồn huy động vốn bên ngoài hợp lý, hiệu quả: 58 2.3.Xây dựng chiến lược đầu tư đúng hướng: 59 II.Giải pháp vĩ mô: 61

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc6109.doc
Tài liệu liên quan