KẾT LUẬN
- Về thực trạng nhiễm độc chì: qua
nghiên cứu 410 NLĐ tái chế nhôm từ 18 -
60 tuổi tại làng nghề Bình Yên, tỉnh Nam
Định cho thấy tỷ lệ bị nhiễm độc chì 11,7%,
trong đó tỷ lệ nhiễm độc mạn tính 11,4%;
tỷ lệ nhiễm độc cấp tính 0,3%.
- Một số yếu tố liên quan đến tình trạng
nhiễm độc chì: nguy cơ nhiễm độc chì
tăng theo tuổi nghề, người có tuổi nghề
6 - 10 năm, nguy cơ nhiễm độc chì cao
hơn nhóm người có tuổi nghề ≤ 5 năm
7,9 lần; người có tuổi nghề ≥ 11 năm,
nguy cơ nhiễm độc chì cao hơn người có
tuổi nghề từ 6 - 10 năm 3,2 lần. NLĐ làm
việc ở công đoạn đúc nhôm, cán nhôm
và tạo hình có nguy cơ nhiễm độc chì chỉ
bằng 30% so với nguy cơ nhiễm độc chì
của người làm ở công đoạn cô nhôm.
Với thực trạng trên, cần tiến hành điều
trị giải ngộ độc chì cho người bị nhiễm độc.
Về lâu dài, cần tiến hành các chương
trình can thiệp để giảm nồng độ kim loại
chì trong MTLĐ tại làng Bình Yên.
8 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 12 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Thực trạng nhiễm độc chì của người lao động làng nghề tái chế nhôm bình yên tỉnh Nam Định, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 6-2018
52
THỰC TRẠNG NHIỄM ĐỘC CHÌ CỦA NGƯỜI LAO ĐỘNG
LÀNG NGHỀ TÁI CHẾ NHÔM BÌNH YÊN TỈNH NAM ĐỊNH
Đỗ Minh Sinh*; Vũ Thị Thúy Mai*
TÓM TẮT
Mục tiêu: mô tả thực trạng nhiễm độc chì của người lao động tại làng nghề tái chế nhôm
Bình Yên tỉnh Nam Định và tìm hiểu một số yếu tố liên quan. Đối tượng và phương pháp:
nghiên cứu mô tả cắt ngang từ 2015 - 2016. 418 người lao động từ 18 - 60 tuổi được lựa chọn
ngẫu nhiên để tham gia nghiên cứu. Sử dụng phương pháp phổ hấp thu nguyên tử bằng lò
grafit (GFAAS) để xác định hàm lượng chì trong máu của người lao động. Đánh giá tình trạng
nhiễm độc theo Thông tư 15/2016/TT-BYT ngày 15/5/2016 của Bộ Y tế. Kết quả: thực trạng
nhiễm độc chì: 88,3% người lao động có hàm lượng chì máu < 40 µg/dl (mức an toàn); 11,4%
người lao động có hàm lượng chì máu từ 40 - < 80 µg/dl (nhiễm độc mạn tính); 0,3% người lao
động có hàm lượng chì máu > 80 µg/dl (nhiễm độc cấp tính). Yếu tố liên quan: người có tuổi
nghề 6 - 10 năm nguy cơ nhiễm độc chì cao hơn nhóm có tuổi nghề ≤ 5 năm 7,9 lần; có tuổi
nghề ≥ 11 năm, nguy cơ nhiễm độc chì cao hơn người có tuổi nghề từ 6 - 10 năm 3,2 lần.
Người lao động làm việc ở công đoạn đúc nhôm, cán nhôm và tạo hình có nguy cơ nhiễm độc
chì 30% so với nguy cơ nhiễm độc chì của người làm ở công đoạn cô nhôm. Kết luận: tỷ lệ
nhiễm độc chì 11,7% (đa số nhiễm độc mạn tính). Nguy cơ nhiễm độc chì tăng theo tuổi nghề
và phụ thuộc vào công đoạn sản xuất của quy trình tái chế nhôm.
* Từ khóa: Nhiễm độc chì; Tái chế kim loại; Làng nghề; Người lao động.
Reality of Lead Poisoning in Workers in Binhyen Aluminum
Recycling Village in Namdinh Province
Summary
Objectives: To describe the current status of lead poisoning in workers in Binhyen aluminum
recycling village in Namdinh province and find out some related factors. Subjects and methods:
A cross-sectional study was conducted from 2015 - 2016. There were 418 workers aged 18 -
60 years who were randomly selected to participate in the study. Using atomic absorption
spectrometry (GFAAS) to determine the level of lead in the blood of workers. Assessment of
poisoning status in accordance with Circular 15/2016/TT-BYT dated 15 May 2016 of Ministry of
Health. Results: Lead poisoning: 88.3% of workers had blood lead content < 40 μg/dL (safety
level); 11.4% of employees had blood lead content of 40 - < 80 μg/dL (chronic poisoning); 0.3%
of workers had blood lead levels > 80 μg/dL (acute poisoning). Relevant factors: workers with 6
- 10 years of occupational exposured to lead poisoning were 7.9 times as high as those who
with the 5 years of occupational age. Workers with over 11 years of occupational exposure to
lead poisoning were 3.2 times as high as those who with the 6 - 10 years of occupational age.
* Trường Đại học Điều dưỡng Nam Định
Người phản hồi (Corresponding): Nguyễn Minh Sinh (minhsinh82@gmail.com)
Ngày nhận bài: 17/04/2018; Ngày phản biện đánh giá bài báo: 16/06/2018
Ngày bài báo được đăng: 09/07/2018
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 6-2018
53
Workers working in aluminum casting, aluminum rolling and molding had a lead poisoning
risk of only 30% compared with the risk of lead poisoning of aluminum workers. Conclusions:
The results showed that lead poisoning was 11.7% (most of which were chronic poisoning).
The risk of lead poisoning increases with age and depends on the manufacturing process of the
aluminum recycling process.
* Keywords: Lead poisoning; Metal recycling; Handicraft villages; Workers.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Tái chế kim loại (TCKL) có vai trò quan
trọng trong quá trình phát triển kinh tế ở
mỗi quốc gia. Tuy nhiên, phương thức và
công nghệ sản xuất hiện nay tại các làng
nghề, cơ sở tái chế kim loại vẫn còn lạc
hậu, sản xuất theo quy mô nhỏ lẻ, không
tập trung. Thực trạng trên đã gây ra bất
lợi về điều kiện lao động tại các khu vực
này. Người lao động (NLĐ) phải thường
xuyên tiếp xúc với yếu tố nguy hiểm và có
hại trong sản xuất như nhiệt độ cao, tiếng
ồn lớn, vi khí hậu không đảm bảo, nhiều
bụi và hơi khí độc hại [1, 7]. Bên cạnh đó
một vấn đề cũng rất đáng quan tâm hiện
nay tại các làng nghề TCKL là ô nhiễm
môi trường lao động (MTLĐ) do kim loại
nặng, trong đó phổ biến nhất là kim loại
chì. Nghiên cứu tại làng nghề TCKL màu
Đông Mai và Nghĩa Lộ tỉnh Hưng Yên
cho thấy có tới 85,7% số mẫu đo có
nồng độ hơi chì trong không khí vùng
làm việc vượt tiêu chuẩn vệ sinh lao động
(TCVSLĐ) [3]. Nồng độ hơi chì trung bình
trong môi trường làm việc tại làng nghề
Bình Yên tỉnh Nam Định là 0,7 mg/m3,
cao hơn 13,8 lần so với TCVSLĐ và có
tới 70% số mẫu đo có nồng độ chì vượt
TCVSLĐ [4].
Với tình hình trên cho thấy cần phải có
nghiên cứu đánh giá thực trạng nhiễm
độc chì của NLĐ tại các làng nghề TCKL,
từ đó có thể xác định quy mô cũng như
nguyên nhân của vấn đề và đề xuất các
giải pháp can thiệp phù hợp, khả thi nhằm
nâng cao sức khỏe cho NLĐ tại khu vực
này. Nghiên cứu này triển khai với mục
tiêu: Mô tả thực trạng nhiễm độc chì của
NLĐ làng nghề Bình Yên tỉnh Nam Định
và tìm hiểu một số yếu tố liên quan đến
tình trạng nhiễm độc chì của NLĐ.
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
1. Đối tượng, thời gian và địa điểm
nghiên cứu.
* Đối tượng nghiên cứu:
- Tiêu chuẩn lựa chọn: NLĐ tham gia
vào quá trình sản xuất tái chế nhôm tại
làng Bình Yên, có độ tuổi từ 18 - 60,
thời gian lao động tại làng nghề tối thiểu
01 năm.
- Tiêu chuẩn loại trừ: NLĐ không đồng
ý tham gia nghiên cứu, nghỉ việc trong
thời gian nghiên cứu.
* Thời gian và địa điểm nghiên cứu:
Nghiên cứu tiến hành từ 2015 - 2016
tại làng nghề tái chế nhôm Bình Yên,
xã Nam Thanh, huyện Nam Trực, tỉnh
Nam Định.
2. Phương pháp nghiên cứu.
* Thiết kế nghiên cứu: nghiên cứu mô
tả cắt ngang.
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 6-2018
54
* Mẫu và phương pháp chọn mẫu:
Công thức tính cỡ mẫu: áp dụng công
thức tính cỡ mẫu cho một tỷ lệ:
2)2/1(
2
)(
)1(
p
ppZn
ε
α
−
=
−
Trong đó: n: cỡ mẫu tối thiểu; Z1-α/2:
giá trị Z thu được từ bảng Z tương ứng
với giá trị α; trong nghiên cứu này lấy
Z = 1,96 với α = 0,05; p: ước lượng tỷ lệ
nhiễm độc chì của NLĐ, theo nghiên cứu
trước chọn p = 0,29 [2]; ε: mức độ chính
xác tương đối, trong nghiên cứu này
chọn = 0,15.
Thay vào công thức trên tính được
n = 418 người.
* Phương pháp chọn mẫu: phương pháp
chọn mẫu ngẫu nhiên đơn:
Bước 1: lập danh sách toàn bộ NLĐ từ
18 - 60 tuổi tại làng Bình Yên vào phần mềm
SPSS (1.003 người do địa phương cung
cấp). Bước 2: sử dụng phần mềm SPSS
22.0 lựa chọn ngẫu nhiên 418 người từ
tổng số NLĐ bằng lệnh: Select cases/random
sample of cases.
* Kỹ thuật xét nghiệm định lượng hàm
lượng chì trong máu:
Kỹ thuật lấy máu (theo hướng dẫn của
Bộ Y tế): tiến hành vô khuẩn, lấy 10 ml
máu tĩnh mạch. Mẫu máu được bảo quản
theo thường quy và chuyển về labo xét
nghiệm. Mẫu máu được các kỹ thuật viên
của Bệnh viện Đa khoa Sài Gòn - Nam
Định lấy. Xét nghiệm thực hiện tại Trung
tâm Y tế dự phòng tỉnh Nam Định.
Sử dụng phương pháp phổ hấp thu
nguyên tử bằng lò grafit (GFAAS) để xác
định hàm lượng chì trong máu. Sử dụng
máy quang phổ hấp thụ nguyên tử ZEEnit
700P (Analytik-Jena, Đức, năm 2012).
Máy có độ chính xác bước sóng ≤ ± 0,3 nm,
độ ổn định ≤ 3%, độ hấp thu ≥ 0,25 Abs.
Đánh giá tình trạng nhiễm độc theo
phụ lục 8 tại Thông tư 15/2016/TT-BYT
ngày 15 tháng 5 năm 2016 của Bộ Y tế.
Phân loại nhiễm độc chì: nhiễm độc
cấp tính chì vô cơ khi chì huyết > 80 µg/dl;
nhiễm độc mạn tính chì vô cơ khi chì huyết
> 40 µg/dl.
* Quản lý, xử lý và phân tích số liệu:
Số liệu sau khi được thu thập được làm
sạch và nhập bằng phần mềm EpiData
3.1. Số liệu xử lý bằng phần mềm SPSS
trước khi đưa vào phân tích. Sử dụng tần
số, tỷ lệ phần trăm và bảng để tóm tắt
biến định tính như: giới, công đoạn sản
xuất Sử dụng mô hình hồi quy logistic
để tìm hiểu mối liên quan giữa tình trạng
nhiễm độc chì với các biến độc lập.
* Đạo đức nghiên cứu:
Nghiên cứu này đã được xem xét,
nhận xét và chấp thuận về đạo đức và
khoa học của Hội đồng Đạo đức trong
nghiên cứu y sinh học Trường Đại học
Điều dưỡng Nam Định. Việc triển khai
các hoạt động của nghiên cứu đảm bảo
đúng nguyên tắc của đạo đức nghiên
cứu trong y học: tự nguyện, an toàn và
bình đẳng.
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 6-2018
55
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
1. Đặc điểm chung đối tượng nghiên cứu.
Bảng 1: Một số đặc điểm của NLĐ tái chế nhôm tại Bình Yên (n = 418).
Đặc điểm Số lượng Tỷ lệ (%)
Tốt nghiệp tiểu học 35 8,3
Tốt nghiệp trung học cơ sở 305 73,0 Trình độ học vấn
Tốt nghiệp trung học phổ thông 78 18,7
Nam 190 45,5
Giới tính
Nữ 228 54,5
Có 57 13,6
Tập huấn về an toàn vệ sinh lao động
Không 361 86,4
≤ 5 năm 125 29,9
6 - 10 năm 167 40,0 Nhóm tuổi nghề
≥ 11 năm 126 30,1
≤ 30 tuổi 69 16,5
31 - 40 tuổi 137 32,8 Nhóm tuổi đời
41 - 60 tuổi 212 50,7
Tổng số có 418 NLĐ tham gia nghiên cứu, trong đó nữ 54,5%. 86,4% NLĐ chưa
được tập huấn về an toàn vệ sinh lao động trước khi làm việc.
2. Thực trạng nhiễm độc kim loại chì của NLĐ.
Bảng 2: Phân loại mức độ nhiễm độc chì của NLĐ (n = 418).
Hàm lượng chì máu Tình trạng nhiễm độc Số lượng Tỷ lệ (%)
< 40 µg/dl Bình thường 369 88,3
40 - < 80 µg/dl Nhiễm độc mạn tính 48 11,4
> 80 µg/dl Nhiễm độc cấp tính 1 0,3
Kết quả phân tích cho thấy 11,7% NLĐ có hàm lượng chì trong máu > 40 µg/dl
(mức được coi bị nhiễm độc). Trong đó, số NLĐ bị nhiễm độc mạn tính chiếm đa số
(11,4%), chỉ duy nhất 1 NLĐ được xác định bị nhiễm độc cấp tính.
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 6-2018
56
3. Một số yếu tố liên quan đến tình trạng nhiễm độc chì.
Bảng 3: Mô hình hồi quy logistic mô tả nguy cơ nhiễm độc chì của NLĐ với các yếu
tố liên quan.
Biến số Đặc tính OR 95% khoảng tin cậy Giá trị p
Nam 1 - -
Giới tính
Nữ 0,6 0,3 - 1,4 > 0,05
≤ 8 giờ/ngày 1 - -
Thời gian làm việc
> 8 giờ/ngày 0,8 0,4 - 1,7 > 0,05
≤ 5 năm 1 - -
6 - 10 năm 7,9 2,6 - 24,6 < 0,05 Tuổi nghề
≥ 11 năm 3,2 1,5- 6,9 < 0,05
Cô nhôm 1 - -
Công đoạn sản xuất
Khác 0,3 0,1 - 0,6 < 0,05
Giá trị “p” của kiểm định Omnibus test < 0,05
Giá trị “p” của kiểm định Hosmer và Lemeshow test > 0,05
Sau khi đã kiểm soát các yếu tố nhiễu bằng mô hình hồi quy logistic, kết quả cho
thấy chỉ có tuổi nghề và vị trí làm việc trong lĩnh vực tái chế nhôm ảnh hưởng đến nguy
cơ nhiễm độc chì. Những người có tuổi nghề 6 - 10 năm, nguy cơ nhiễm độc chì cao
hơn nhóm người có tuổi nghề ≤ 5 năm 7,9 lần; người có tuổi nghề ≥ 11 năm, nguy cơ
nhiễm độc chì cao hơn người có tuổi nghề từ 6 - 10 năm 3,2 lần. NLĐ làm việc ở các
công đoạn khác (đúc nhôm, cán nhôm và tạo hình) có nguy cơ nhiễm độc chì chỉ bằng
30% so với nguy cơ nhiễm độc chì của người làm ở công đoạn cô nhôm.
BÀN LUẬN
1. Thực trạng nhiễm độc kim loại chì.
Chì có tác dụng không tốt về sinh lý
đối với cơ thể, nồng độ chì máu toàn phần
phần bình thường ≤ 10 µg/dl, nồng độ lý
tưởng 0 µg/dl. Tuy nhiên, kết quả nghiên
cứu tại làng Bình Yên cho thấy 53,7% NLĐ
tại đây có hàm lượng chì máu > 10 µg/dl
(mức bắt đầu có thể gây hại cho cơ thể).
Trong đó, tỷ lệ NLĐ được xác định bị
nhiễm độc mạn tính chiếm 11,4% (hàm
lượng chì máu > 40 µg/dl), thậm chí đã
xuất hiện NLĐ bị nhiễm độc chì cấp tính
(hàm lượng chì máu > 80 µg/dl).
Đặt trong mối tương quan với các
nghiên cứu khác nhận thấy, thực trạng
nhiễm độc chì ở NLĐ tại làng Bình Yên
cao hơn nhiều so với làng Văn Môn, tỉnh
Bắc Ninh (tỷ lệ NLĐ bị nhiễm độc chì 0%)
[5], nhưng không nghiêm trọng như ở NLĐ
tại một số làng nghề đúc đồng khu vực
miền Trung (hàm lượng chì máu toàn phần
trung bình 185,2 ± 83,6 µg/dl) [2] và tình
trạng nhiễm độc chì ở NLĐ tại làng nghề
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 6-2018
57
tái chế ắc quy Đông Mai, tỉnh Hưng Yên
[6]. Sự khác biệt này có thể được lý giải
như sau:
- Thứ nhất, do sự khác biệt về phương
pháp xác định nồng độ chì. Nghiên cứu
tại Bình Yên cũng như làng Đông Mai tỉnh
Hưng Yên và một số làng nghề đúc đồng
ở khu vực miền Trung xác định nồng độ
chì trong máu (xác định tình trạng nhiễm
độc chì vô cơ) bằng phương pháp phổ
hấp thu nguyên tử bằng lò grafit. Mặc dù
đây là phương pháp xâm lấn, nhưng thực
hiện đơn giản, có độ tin cậy và chính xác
cao. Trong khi đó nghiên cứu tại Văn Môn
lại xác định nồng độ chì trong nước tiểu
(xác định tình trạng nhiễm độc chì hữu
cơ) bằng phương pháp hấp thụ qua cột
nhựa trao đổi ion. Để thực hiện được
phương pháp này cần lấy nước tiểu trong
vòng 24 giờ. Phương pháp này có thể
dẫn đến nhiều sai số, vì rất khó thu được
toàn bộ lượng nước tiểu của 1 người
trong vòng 24 giờ (đặc biệt những người
từ nơi khác đến).
- Thứ hai, do sự khác biệt về loại hình
sản xuất. Mặc dù cùng là TCKL, tuy nhiên
quá trình tái chế nhôm không cần nguyên
liệu là chì (chì chỉ phát sinh từ quá trình
cô nhôm). Trong khi đó quá trình sản xuất
tái chế, chế tác đồng lại cần nguyên liệu
đầu vào là chì. Để chống cháy và chống
dính cho khuôn đúc cần thực hiện công
đoạn sơn khuôn bằng bột than hay bột chì.
Bên cạnh đó chì cũng có thể đúc kèm với
đồng để tạo ra hợp kim đồng - chì. Làng
Đông Mai tỉnh Hưng Yên thực hiện tái chì
từ ắc quy bằng phương pháp thủ công.
Theo thiết kế, trong một bình ắc quy chì,
vật liệu chứa chì chiếm khoảng 70% trọng
lượng ắc quy. Do đó, hàm lượng hơi chì
trong không khí vùng làm việc của các
làng nghề trên rất cao.
2. Một số yếu tố liên quan đến tình
trạng nhiễm độc kim loại chì.
Đánh giá tình trạng nhiễm độc chì theo
một số đặc điểm cá nhân của NLĐ nhận
thấy mặc dù không có mối liên quan giữa
giới tính, thời gian làm việc trong ngày
và tuổi đời với tình trạng nhiễm độc,
nhưng tuổi nghề và công đoạn sản xuất
có liên quan đến tình trạng nhiễm độc chì.
Những người có tuổi nghề càng cao,
nguy cơ nhiễm độc chì càng cao, NLĐ làm
việc tại công đoạn cô nhôm (công đoạn
duy nhất phát sinh ra chì trong quy trình
tái chế nhôm) có nguy cơ nhiễm độc chì
cao hơn nguy cơ nhiễm độc chì của những
người làm việc ở các công đoạn khác.
Tuổi nghề và công đoạn cô nhôm là các
yếu tố liên quan trực tiếp đến liều tiếp xúc
và hiệu quả tiếp xúc với hơi chì trong
MTLĐ. Tuổi nghề càng cao, thời gian
phơi nhiễm với hơi chì càng dài, làm việc
ở công đoạn có phát sinh hơi chì thì
lượng tiếp xúc với hơi chì càng nhiều, từ
đó dẫn đến nguy cơ nhiễm độc chì càng
cao. Kết quả cuối cùng của dây chuyền
này là làm gia tăng nguy cơ nhiễm độc
chì ở NLĐ.
Tuổi nghề là một trong những yếu tố
dự đoán nguy cơ nhiễm độc chì đã được
chứng minh trong nhiều nghiên cứu
trước đây. Sử dụng mô hình hồi quy logistic
đa biến để dự đoán nguy cơ nhiễm độc
chì của NLĐ tại nhà máy luyện kim ở
Vele - Macedonia, Stoleski. S và CS nhận
thấy hệ số hồi quy của tuổi nghề trong
mô hình là 0,42 với p < 0,05. Với kết quả
thu được, các tác giả kết luận tuổi nghề
làm việc là một yếu tố dự đoán rất tốt
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 6-2018
58
cho nguy cơ nhiễm độc chì của NLĐ [10].
Một báo cáo khác tại Addis Ababa (Ethiopia)
cũng cho thấy hàm lượng chì trong nước
tiểu của NLĐ gia tăng theo tuổi nghề.
Cụ thể: hàm lượng chì trong nước tiểu
(δ-ALA (μg/ml)) của người có tuổi nghề
≤ 10 năm, từ 11 - 20 năm; 21 - 25 năm và
> 25 năm lần lượt là 5,4 μg/ml; 14,5 μg/ml;
19,0 μg/ml và 23,4 μg/ml. Sự khác biệt
này có ý nghĩa thống kê với p < 0,05 [8].
Bên cạnh tuổi nghề, công đoạn sản
xuất cũng được xác định là một trong
những yếu tố dự đoán nguy cơ nhiễm độc
chì. Theo kết quả phân tích, tỷ lệ nhiễm
độc chì ở NLĐ tại công đoạn cô nhôm là
25,4%, cao hơn công đoạn còn lại. Kết quả
này tương đồng với nghiên cứu tại làng
Văn Môn, tỉnh Bắc Ninh. Do đó, tình trạng
nhiễm độc kim loại nặng ở NLĐ tại công
đoạn nấu kim loại cao hơn có ý nghĩa
thống kê so với NLĐ tại các công đoạn
còn lại [5]. Nguyên nhân dẫn đến tình
trạng này là do công đoạn nấu kim loại
(cô nhôm) là nguồn gây phát sinh ra chì
duy nhất trong quy trình tái chế. Nguyên
liệu đầu vào của các làng nghề tái chế
kim loại rất đa dạng, khó kiểm soát,
không rõ nguồn gốc. Quy trình công nghệ
tái chế thủ công, hệ thống lò nung thiết kế
không theo tiêu chuẩn đã làm phát tán
hơi chì ra ngoài môi trường. Kết hợp
với điều kiện vi khí hậu không đảm bảo
(tốc độ chuyển động không khí thấp, độ
ẩm không khí cao) đã làm hơi chì tồn lưu
lâu hơn trong MTLĐ. Từ đó có thể thâm
nhiễm vào cơ thể NLĐ thông qua đường
hô hấp, tiêu hóa, da và niêm mạc.
Mặc dù tuổi nghề và công đoạn sản
xuất là hai yếu tố có thể tiên lượng cho
nguy cơ nhiễm độc chì của NLĐ tại Bình
Yên, tuy nhiên một điều chắc chắn rằng
ngoài hai yếu tố trên vẫn còn có những
yếu tố khác ảnh hưởng đến nguy cơ
nhiễm độc chì. Nhận định này đã được
chứng mình từ kết quả phân tích mô hình
hồi quy. Tỷ lệ dự đoán đúng biến thiên
nguy cơ nhiễm độc chì theo tuổi nghề
và công đoạn sản xuất là 88,6%. Mặc dù
xác suất dự đoán đúng của mô hình cao,
vẫn có 11,4% biến thiên còn lại mà mô
hình chưa giải thích được. Chì có thể
xâm nhập vào cơ thể bằng tiêu hóa [9],
do đó thói quen ăn uống, thực phẩm và
nguồn nước sử dụng có thể ảnh hưởng
đến hàm lượng chì trong cơ thể. Để có
mô hình dự đoán nguy cơ nhiễm độc chì
toàn diện, nghiên cứu tiếp theo nên đề cập
đến biến phơi nhiễm và biến gây nhiễu hơn.
KẾT LUẬN
- Về thực trạng nhiễm độc chì: qua
nghiên cứu 410 NLĐ tái chế nhôm từ 18 -
60 tuổi tại làng nghề Bình Yên, tỉnh Nam
Định cho thấy tỷ lệ bị nhiễm độc chì 11,7%,
trong đó tỷ lệ nhiễm độc mạn tính 11,4%;
tỷ lệ nhiễm độc cấp tính 0,3%.
- Một số yếu tố liên quan đến tình trạng
nhiễm độc chì: nguy cơ nhiễm độc chì
tăng theo tuổi nghề, người có tuổi nghề
6 - 10 năm, nguy cơ nhiễm độc chì cao
hơn nhóm người có tuổi nghề ≤ 5 năm
7,9 lần; người có tuổi nghề ≥ 11 năm,
nguy cơ nhiễm độc chì cao hơn người có
tuổi nghề từ 6 - 10 năm 3,2 lần. NLĐ làm
việc ở công đoạn đúc nhôm, cán nhôm
và tạo hình có nguy cơ nhiễm độc chì chỉ
bằng 30% so với nguy cơ nhiễm độc chì
của người làm ở công đoạn cô nhôm.
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 6-2018
59
Với thực trạng trên, cần tiến hành điều
trị giải ngộ độc chì cho người bị nhiễm độc.
Về lâu dài, cần tiến hành các chương
trình can thiệp để giảm nồng độ kim loại
chì trong MTLĐ tại làng Bình Yên.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Thị Liên Hương. Nghiên cứu
điều kiện làm việc và sức khỏe người lao
động một số làng nghề. Tạp chí Y học Thực
hành. 2005, 10, tr.39-43.
2. Vê Văn Khoa, Hoàng Trọng Sĩ. Tình trạng
sức khỏe - bệnh tật của người lao động tại một
số làng nghề đúc đồng ở khu vực miền Trung.
Tạp chí Bảo hộ Lao động. 2015, 4, tr.15-20.
3. Trần Đắc Phu, Đặng Anh Ngọc. Kết quả
nghiên cứu đánh giá ô nhiễm môi trường tại
một số làng nghề tái chế kim loại màu tỉnh
Hưng Yên. Tạp chí Y học Thực hành. 2011,
787 (10), tr.49-53.
4. Đỗ Minh Sinh, Phạm Thị Kiều Anh,
Ngô Thị Nhu và CS. Thực trạng môi trường
lao động tại làng nghề tái chế nhôm Bình Yên
xã Nam Thanh - Nam Trực - Nam Định.
Tạp chí Y học Thực hành. 2017, 1 (1032),
tr.119-122.
5. Trần Văn Thiện, Nguyễn Thị Thùy Dương,
Trần Văn Hưởng và CS. Một số đặc điểm và
tình hình thâm nhiễm một số kim loại nặng ở
người lao động tại làng nghề tái chế kim loại
xã Văn Môn, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc
Ninh. Tạp chí Y học Việt Nam. 2016, 4 (1),
tr.109-114.
6. Lỗ Văn Tùng, Doãn Ngọc Hải, Nguyễn
Đức Sơn. Tình trạng nhiễm độc chì ở người
lao động tại làng nghề tái chế ắc quy Đông Mai,
Hưng Yên năm 2015. Tạp chí Y học dự phòng.
2016, 11 (184), tr.129-132.
7. Adaramodu A.A, Osuntogun A.O,
Ehi-Eromosele. Heavy metal concentration of
surface dust present in e-waste components:
The westminister electronic market, Lagos
case study. Resources and Environment. 2012,
2 (2), pp.9-13.
8. Kemal Ahmed, Gonfa Ayana, Ephrem
Engidawork. Lead exposure study among
workers in lead acid battery repair units of
transport service enterprises, Addis Ababa,
Ethiopia: a cross-sectional study. Journal of
Occupational Medicine and Toxicology. 2008,
3 (1), pp.1-8.
9. National Health and Medical Research
Council - Australian Government. Evidence on
the Effects of Lead on Human Health. 2015.
10. S. Stoleski, J.Karadzinska-Bislimovska,
E. Stikova et al. Adverse effects in workers
exposed to inorganic lead. Arh Hig Rada Toksikol.
2008, 59 (1), pp.19-29.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
thuc_trang_nhiem_doc_chi_cua_nguoi_lao_dong_lang_nghe_tai_ch.pdf