Đảng đoàn Quốc hội chịu trách nhiệm
trước Bộ Chính trị lãnh đạo trực tiếp mọi
hoạt động của Quốc hội nói chung, trong
việc thực hiện các nhiệm vụ, trách nhiệm
của Quốc hội trong PCTN nói riêng. Sự
lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của Đảng đoàn
là điều kiện quan trọng để các cơ quan của
Quốc hội, các ĐBQH quán triệt sâu sắc các
quan điểm đường lối của Đảng về PCTN
trong hoạt động lập pháp, quyết định các
vấn đề quan trọng và giám sát tối cao. Các
ủy viên của Đảng đoàn, đồng thời là các Ủy
viên UBTVQH đã tạo được sự lãnh đạo, chỉ
đạo thống nhất, hiệu quả của Đảng đoàn,
UBTVQH đối với các hoạt động của Quốc
hội, đảm bảo sự phối hợp với quy chế hoạt
động của Đảng đoàn và quyền hạn, trách
nhiệm của UBTVQH theo quy định của
Luật Tổ chức Quốc hội. Sự thảo luận tại các
hội nghị của Đảng đoàn, các phiên họp của
UBTVQH về các dự thảo luật đảm bảo cho
các dự thảo luôn bám sát các quan điểm, chủ
trương, giải pháp Đảng xác định trong các
nghị quyết, kết luận của Đảng, kết luận về
các vấn đề xin ý kiến của các cơ quan thẩm
tra các dự án luật, nghị quyết là căn cứ để hoàn
thiện dự thảo trình Quốc hội.
Các tổ đảng trực thuộc Đảng đoàn
Quốc hội được thành lập tại Thường trực
Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội
từ khóa XIII nhằm thực hiện sự lãnh đạo của
Đảng tại Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban,
tập trung chủ yếu vào nhiệm vụ quán triệt
các quan điểm, chủ trương của Đảng trong
hoạt động của Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban
trong các hoạt động thẩm tra các dự án luật,
giám sát việc thực hiện chính sách pháp luật
trong lĩnh vực phụ trách và công tác cán bộ.
Hoạt động của các Tổ đảng tại các cơ quan
của Quốc hội trong lĩnh vực PCTN luôn gắn
liền với các hoạt động thẩm tra, khảo sát,
giám sát và kiến nghị về các nội dung thuộc
phạm vi, thẩm quyền luật định, góp phần
đảm bảo cho các quan điểm, chủ trương
PCTN luôn được quan tâm quán triệt trong
các dự thảo luật được giao phụ trách.
Trong cơ cấu ĐBQH Việt Nam, đại
đa số ĐBQH là đảng viên Đảng Cộng sản
Việt Nam (90 - 92%). Trong số các ĐBQH
là đảng viên, có nhiều đại biểu là lãnh đạo
Đảng, Nhà nước, lãnh đạo cấp ủy và chính
quyền địa phương. Do vậy, sự lãnh đạo của
Đảng đối với Quốc hội là vô cùng thuận lợi.
Thông qua các ĐBQH là đảng viên, đường
lối chính sách của Đảng được quán triệt trực
tiếp ngay trong mọi hoạt động của Quốc
hội. Các phát biểu, thảo luận của các ĐBQH
đang giữ các cương vị lãnh đạo Đảng, lãnh
đạo Quốc hội, lãnh đạo Chính phủ, các bộ
ngành, lãnh đạo các địa phương đã góp phần
làm rõ thêm các quan điểm đường lối của
Đảng cần được thể chế hóa, thuyết phục các
đại biểu, định hướng thảo luận nhằm tạo
đồng thuận cao khi quyết định các vấn đề
thuộc phạm vi, thẩm quyền của Quốc hội.
Sự gương mẫu, nghiêm túc của các ĐBQH
là đảng viên trong việc chấp hành đường
lối của Đảng đã và đang làm cho sự lãnh
đạo của Đảng, thấm sâu vào từng hoạt động
của Quốc hội, góp phần quan trọng nâng
cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của
Quốc hội
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 19/01/2022 | Lượt xem: 305 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Thực trạng nội dung và phương thức lãnh đạo của đảng đối với quốc hội trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
THỰC TRẠNG NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG THỨC LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG
ĐỐI VỚI QUỐC HỘI TRONG ĐẤU TRANH PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG1
1 Sản phẩm của Đề tài độc lập cấp quốc gia "Đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng đối với công tác kiểm
tra, giám sát trong đấu tranh PCTN ở Việt Nam" do TS. Trần Cẩm Tú, Bí thư Trung ương Đảng, Chủ nhiệm Ủy ban
Kiểm tra Trung ương làm Chủ nhiệm đề tài.
Tóm tắt:
Trong lĩnh vực đấu tranh phòng, chống tham nhũng, sự lãnh đạo,
phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Quốc hội đã đảm bảo các
chủ trương, giải pháp chống tham nhũng được xác định trong các
văn kiện của Đảng được thể chế hóa kịp thời, đầy đủ thành các quy
định của pháp luật. Đặc biệt Luật Phòng, chống tham nhũng 2018
vừa được Quốc hội khóa XIV thông qua cùng với các đạo luật khác
trong hệ thống pháp luật đã tạo dựng được các cơ sở pháp lý khá
đồng bộ và phù hợp để triển khai mạnh mẽ cuộc đấu tranh phòng,
chống tham nhũng trong mọi lĩnh vực.
Lê Minh Thông*
* PGS. TS. Trợ lý Chủ tịch Quốc hội.
Abstract
In aspect of anti-corruption, the leadership and the leadership method
of the Communist Party to the National Assembly is to ensure that
the anti-corruption guidelines, solutions identified Party’s documents
shall be timely and fully in institutionalized into the legal provisions.
Especially, the Anti-Corruption Law of 2018 has been approved by
the XIV National Assembly with other laws in the legal system, which
has provided a synchronous and appropriate legal ground to strongly
proceed the anti- corruption campaign in all areas.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: phương thức lãnh đạo của
Đảng; Quốc hội; phòng, chống tham
nhũng
Lịch sử bài viết:
Nhận bài : 05/06/2019
Biên tập : 18/06/2019
Duyệt bài : 17/06/2019
Article Infomation:
Keywords: leadership method of the
Communist Party; National Assembly;
anti- corruption
Article History:
Received : 05 Jun 2019
Edited : 18 Jun 2019
Approved : 17 Jun 2019
Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng (PCTN) là một tất
yếu trong điều kiện là một Đảng duy nhất
cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Một
khi tham nhũng đã trở thành một “quốc nạn”
đang đe dọa sự tồn vong của Đảng, của chế
độ, xói mòn lòng tin của nhân dân đối với
Đảng, Nhà nước, thì trách nhiệm lãnh đạo
cuộc đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi vấn nạn
tham nhũng càng trở nên nặng nề hơn bao
giờ hết. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, cả hệ
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
13Số 11(387) T6/2019
thống chính trị đã và đang tích cực vào cuộc
đấu tranh với các hành vi tham nhũng và
đang đem lại nhiều kết quả, được dư luận
và nhân dân đánh giá cao. Đảng lãnh đạo hệ
thống chính trị trong cuộc đấu tranh PCTN
một cách linh hoạt, không rập khuôn máy
móc. Căn cứ vào vị trí, vai trò, tính chất, tổ
chức và hoạt động của mỗi một thiết chế
trong hệ thống chính trị, Đảng có nội dung,
phương thức lãnh đạo phù hợp để vừa đảm
bảo sự lãnh đạo của mình, vừa tôn trọng,
phát huy tính chủ động, sáng tạo của mỗi tổ
chức trong hệ thống chính trị trong việc thực
hiện hiệu quả trách nhiệm trong cuộc đấu
tranh phức tạp và cam go này. Do vậy, vấn
đề đặt ra là cần xác định rõ, đúng nội dung
lãnh đạo, phương thức lãnh đạo của Đảng
đối với từng cơ quan, tổ chức thuộc hệ thống
chính trị để phát huy cao nhất hiệu quả đấu
tranh PCTN của từng cơ quan, tổ chức.
Theo quy định của Điều 69 Hiến pháp
năm 2013: “Quốc hội là cơ quan đại biểu cao
nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực cao
nhất của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam”.
Quy định này xác định bản chất của Quốc hội
được được thể hiện trên hai phương diện sau:
- Là cơ quan đại biểu cao nhất của
Nhân dân, do Nhân dân cả nước bầu ra theo
quy định của Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội
(ĐBQH); đại diện cho ý chí, nguyện vọng
và lợi ích của Nhân dân cả nước, chịu trách
nhiệm trước Nhân dân cả nước về việc thực
hiện quyền lực do Nhân dân ủy quyền.
- Là cơ quan quyền lực nhà nước cao
nhất của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam,
Quốc hội là một thiết chế quyền lực trung
tâm của bộ máy nhà nước, được Nhân dân
giao phó những thẩm quyền trọng yếu: lập
hiến và lập pháp; quyết định các vấn đề
trọng đại của đất nước và quyền giám sát
tối cao.
Quốc hội trong vị thế là cơ quan lập
hiến và lập pháp được tổ chức và hoạt động
theo quy định của Hiến pháp và Luật Tổ
chức Quốc hội đòi hỏi sự lãnh đạo của Đảng
đối với Quốc hội có nhiều đặc thù hơn so với
sự lãnh đạo của Đảng đối với cơ quan hành
pháp và cơ quan tư pháp trong mối quan hệ
cấu trúc bộ máy nhà nước.
Một mặt, sự lãnh đạo của Đảng đối
với Quốc hội tuân theo quy luật chung của
sự lãnh đạo đối với Nhà nước nói chung với
3 thẩm quyền cơ bản:
Một là: xây dựng và quyết định đường
lối chính trị cho sự phát triển của đất nước;
quyết định những vấn đề liên quan đến vận
mệnh quốc gia.
Hai là: Đảng giới thiệu các đảng viên
ưu tú đủ tiêu chuẩn để Nhân dân lựa chọn bầu
vào các cơ quan đại diện và quyền lực nhà
nước; giới thiệu để các cơ quan nhà nước bầu
hoặc bổ nhiệm vào các vị trí lãnh đạo.
Ba là: thực hiện việc kiểm tra, giám
sát cán bộ, đảng viên và các cơ quan nhà
nước, các đoàn thể quần chúng trong việc
thực hiện đường lối chính sách của Đảng.
Mặt khác, sự lãnh đạo của Đảng đối
với Quốc hội được thực hiện phù hợp với
ba lĩnh vực hoạt động chủ yếu của Quốc hội
là hoạt động lập hiến, lập pháp; hoạt động
quyết định các vấn đề quan trọng của đất
nước và hoạt động giám sát.
Trong hoạt động lập hiến, lập pháp, sự
lãnh đạo của Đảng tập trung vào nhiệm vụ
lãnh đạo Quốc hội thể chế hóa kịp thời và
đúng đắn các đường lối, chủ trương, chính
sách và quan điểm, định hướng phát triển
đất nước trong các lĩnh vực của đời sống đất
nước thành các quy định của luật, pháp lệnh,
nghị quyết. Trong lĩnh vực này, đời sống,
chính sách, quan điểm của Đảng là những
định hướng chính trị để Quốc hội quyết định
chính sách, pháp luật, xác định nội dung cụ
thể của các đạo luật, pháp lệnh và nghị quyết.
Để đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng đối
với hoạt động lập hiến, lập pháp của Quốc
hội, các cơ quan của Quốc hội phải thường
xuyên, chủ động xin ý kiến chỉ đạo của các
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
14 Số 11(387) T6/2019
cơ quan lãnh đạo của Đảng như Ban Chấp
hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư
về các chủ trương lập pháp, chương trình, kế
hoạch xây dựng pháp luật toàn khóa và từng
năm trong nhiệm kỳ Quốc hội; về các vấn
đề còn có ý kiến khác nhau xung quanh các
nội dung của dự thảo luật, những vấn đề nảy
sinh trong thực tiễn đất nước cần được pháp
luật điều chỉnh Các cơ quan lãnh đạo của
Đảng căn cứ vào tính chất, phạm vi và nội
dung của từng vấn đề mà có những ý kiến,
kết luận cụ thể làm căn cứ để Quốc hội thảo
luận và quyết định nội dung các dự án luật
và thông qua các đạo luật theo thẩm quyền
và thủ tục luật định.
- Trong hoạt động quyết định các vấn
đề quan trọng của đất nước, sự lãnh đạo của
Đảng đối với Quốc hội được thực hiện theo
phương thức Đảng ra chủ trương - Quốc hội
thảo luận và quyết định theo thẩm quyền.
Để đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng và thẩm
quyền quyết định của Quốc hội đối với các
vấn đề quan trọng của đất nước, thực tiễn
luôn đòi hỏi phải khắc phục nguy cơ của hai
khuynh hướng:
- Khuynh hướng Quốc hội chỉ thảo
luận lại, quyết định lại các vấn đề Đảng đã
quyết. Với khuynh hướng này, việc quyết
định của Quốc hội chỉ mang tính hình thức
như một cách thức hợp pháp hóa quyết định
của Đảng.
- Khuynh hướng thứ hai là nguy
cơ Quốc hội quyết định các vấn đề có thể
không phù hợp với chủ trương, chính sách
của Đảng.
Để tránh nguy cơ của cả hai khuynh
hướng trên, một mặt, Đảng không quyết định
thay công việc của Quốc hội, không quyết
định các vấn đề cụ thể mà chỉ quyết định các
định hướng lớn có tính chính trị cho mỗi một
chủ trương, tạo khuôn khổ chính trị để Quốc
hội thảo luận và quyết định cụ thể từng vấn
đề. Mặt khác, các tổ chức đảng trong Quốc
hội, Đảng đoàn Quốc hội, các tổ đảng trong
các Đoàn ĐBQH, các ĐBQH là các Ủy viên
Bộ Chính trị, Ủy viên Trung ương Đảng, các
Bí thư, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Thành ủy phải
chủ động thuyết phục, giải thích, tranh luận
tại các kỳ họp của Quốc hội, thuyết phục
các ĐBQH nhằm tạo sự đồng thuận trong
Quốc hội khi thảo luận, quyết định các vấn
đề quan trọng mà Đảng đã có chủ trương.
Điều cần được quán triệt là các cấp lãnh đạo
của Đảng phải thật sự lắng nghe ý kiến các
ĐBQH, chủ động đối thoại với Quốc hội và
tôn trọng ý kiến, quan điểm của ĐBQH và
kịp thời điều chỉnh chủ trương cho phù hợp
với ý chí, nguyện vọng và lợi ích của các cử
tri mà các ĐBQH là người đại diện.
Trong hoạt động giám sát của Quốc
hội, sự lãnh đạo của Đảng được thể hiện qua
các chủ trương tăng cường, nâng cao hiệu
quả giám sát của Quốc hội. Các quan điểm
và chủ trương của Đảng được xác định trong
các Nghị quyết của các đại hội từ Đại hội
VI đến Đại hội XII và các Nghị quyết tương
ứng của mỗi khóa, các Nghị quyết của Bộ
Chính trị, Chỉ thị của Ban Bí thư luôn là các
căn cứ chính trị quan trọng đối với xây dựng
và thực hiện Chương trình, kế hoạch giám
sát của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội
toàn khóa và từng năm. Các hoạt động giám
sát đều được thực hiện bám sát các nhiệm
vụ chính trị đã được Đảng xác định trong
các văn kiện của Đảng. Kết quả giám sát đều
được báo cáo các cơ quan có thẩm quyền
của Đảng. Việc xử lý các vấn đề nảy sinh
trong thực tiễn hoạt động giám sát của Quốc
hội cũng là các cơ sở quan trọng để Đảng
hoàn thiện, điều chỉnh các chủ trương, chính
sách phù hợp với các yêu cầu phát triển của
thực tế đổi mới đất nước.
Những nội dung cơ bản về sự lãnh đạo
của Đảng đối với Quốc hội được thể hiện qua
từng lĩnh vực hoạt động cụ thể của Quốc hội.
Trong phạm vi thực hiện các nhiệm
vụ, trách nhiệm đấu tranh PCTN của Quốc
hội, sự lãnh đạo của Đảng được thể hiện trên
các phương diện sau:
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
15Số 11(387) T6/2019
1. Lãnh đạo việc thể chế các quan điểm,
chủ trương của Đảng về phòng, chống
tham nhũng thông qua các hoạt động xây
dựng pháp luật của Quốc hội, các cơ quan
Quốc hội
Nhận thức rõ nguy cơ và hậu quả
nghiêm trọng của quốc nạn tham nhũng,
Đảng ta đã ban hành nhiều chủ trương, nghị
quyết, chỉ thị để lãnh đạo cuộc đấu tranh
PCTN. Các quan điểm, chủ trương của Đảng
về PCTN luôn được khẳng định nhất quán
trong các văn kiện đại hội Đảng, đặc biệt từ
Đại hội VII đến nay và được cụ thể hóa trong
nhiều nghị quyết, chỉ thị của Đảng2. Những
quan điểm, chủ trương, giải pháp về PCTN
được xác định trong các văn kiện của Đảng
đã được Quốc hội các khóa thể chế hóa kịp
thời trong các đạo luật cụ thể. Nghiên cứu
thực tiễn lập pháp của Quốc hội trong nhiều
khóa, đặc biệt các khóa Quốc hội gần đây có
thể thấy rằng: phòng và chống tham nhũng
đã trở thành một nguyên tắc lập pháp nhất
quán, xuyên suốt trong tất cả các đạo luật
thuộc hệ thống pháp luật Việt Nam. Những
yêu cầu, đòi hỏi và một khuôn khổ pháp lý
về PCTN không chỉ được quy định khá cụ
thể trong các đạo luật trực tiếp điều chỉnh
việc PCTN mà còn được quy định - dù dưới
các hình thức, mức độ và hình thức thể hiện
khác nhau - trong hầu hết các đạo luật của hệ
thống pháp luật Việt Nam thời kỳ đổi mới.
Luật PCTN năm 2005, Luật sửa đổi,
bổ sung một số điều của Luật PCTN năm
2012; Luật PCTN năm 2018 là những văn
bản trực tiếp thể chế hóa các quan điểm,
chủ trương lớn của Đảng về PCTN, tạo lập
khuôn khổ pháp lý chung cho cuộc đấu tranh
PCTN ở Việt Nam.
Các quan điểm, chủ trương và giải
pháp PCTN được xác định trong các văn
2 Nghị quyết số 14-NQ/TW ngày 15/5/1996 của Bộ Chính trị khóa VII; Nghị quyết TW 3 khóa X về tăng cường sự lãnh
đạo của Đảng đối với công tác PCTN, lãng phí. Kết luận hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa XI về
tiếp tục thực hiện Nghị quyết TW 3 khóa X; Chỉ thị số 33 CT/TW ngày 03/01/2004 của Bộ Chính trị về tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng đối với kê khai, kiểm soát việc kê khai tài sản; Chỉ thị số 50-CT/TW ngày 07/12/2015 v.v..
kiện của Đảng, không chỉ được thể hiện
nhất quán trong Luật PCTN mà còn được
thể hiện trong hàng loạt các đạo luật quan
trọng khác thuộc các lĩnh vực điều chỉnh
khác nhau. Các đạo luật về tổ chức bộ máy
như Luật Tổ chức Quốc hội, Luật Tổ chức
Chính phủ; Luật Tổ chức Tòa án nhân dân,
Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, Luật
Tổ chức Chính quyền địa phương đều xác
định rõ trách nhiệm, nhiệm vụ PCTN trong
tổ chức và hoạt động của từng tổ chức, đặc
biệt là các quy định về công khai hóa, minh
bạch hóa các hoạt động. Các đạo luật về
kiểm toán nhà nước, Luật Công an nhân dân,
Luật Thanh tra, Luật Khiếu nại, tố cáo; Luật
Tiếp công dân, Luật Tiếp cận thông tin, Luật
Bầu cử ĐBQH, đại biểu Hội đồng nhân dân,
Luật Cán bộ, công chức, Luật Viên chức đã
bám sát các quan điểm của Đảng về PCTN,
thể chế hóa thành nhiều quy định cụ thể.
Đặc biệt, Bộ luật Hình sự sửa đổi, bổ sung
năm 2017, Bộ luật Tố tụng hình sự, Luật Tố
tụng hành chính được ban hành với nhiều
nội dung mới liên quan trực tiếp đến PCTN.
Các quy định của Bộ luật Hình sự về các tội
tham nhũng, chức vụ đã thể hiện rõ các quan
điểm, thái độ của Đảng, Nhà nước ta đối với
các hành vi tham nhũng, đảm bảo sự tương
thích với các quy định của Công ước Liên
hiệp quốc về chống tham nhũng, góp phần
đẩy mạnh cuộc đấu tranh PCTN ở nước ta.
Các đạo luật chuyên ngành cũng
luôn quán triệt, thể chế hóa các quan điểm,
định hướng của Đảng về PCTN với nhiều
nội dung cụ thể: Luật Doanh nghiệp, Luật
Đầu tư, Luật Đầu tư công; Luật Ngân sách
nhà nước, các đạo luật về thuế; Luật về các
Tổ chức tín dụng; Luật Quản lý và sử dụng
vốn nhà nước trong các doanh nghiệp; Luật
Đất đai; Luật Đấu thầu đã cơ bản tạo lập
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
16 Số 11(387) T6/2019
được các cơ sở pháp lý khá toàn diện để tăng
cường hiệu quả cuộc đấu tranh PCTN trong
hầu hết các lĩnh vực điều chỉnh pháp luật.
Trong quá trình thể chế hóa các quan
điểm, chủ trương, giải pháp lớn của Đảng
về PCTN thành các chế định pháp luật của
các đạo luật, sự lãnh đạo của Bộ Chính trị,
Ban Bí thư, của Đảng đoàn Quốc hội luôn
bám sát diễn biến thực tiễn, lắng nghe, tiếp
thu các ý kiến thảo luận của các ĐBQH đối
với từng dự thảo luật cụ thể, cho ý kiến kịp
thời về các vấn đề còn có ý kiến khác nhau
để vừa đảm bảo định hướng chính trị theo
quan điểm của Đảng vừa phát huy tính chủ
động, sáng tạo của các ĐBQH, tạo đồng
thuận trong các vấn đề được thảo luận để
hoàn thiện và nâng cao chất lượng các đạo
luật nội dung và các đạo luật liên quan trực
tiếp đến PCTN nói riêng được Quốc hội
thông qua trong các nhiệm kỳ trước đây và
hiện nay.
2. Lãnh đạo công tác giám sát của Quốc
hội đối với việc thực hiện chính sách, pháp
luật trong phòng, chống tham nhũng
Giám sát việc thực hiện chính sách,
pháp luật trong hoạt động của Chính phủ,
Tòa án nhân dân tối cao (TANDTC), Viện
Kiểm sát nhân dân tối cao (VKSNDTC)
là một nội dung quan trọng trong công tác
giám sát của Quốc hội. Hai năm tại kỳ họp
cuối năm các nhiệm kỳ Quốc hội, Chính
phủ luôn có báo cáo về kết quả PCTN, về
công tác phòng, chống tội phạm, TANDTC,
VKSNDTC có các báo cáo về hoạt động của
mình gửi đến Quốc hội. Đảng đoàn Quốc
hội, Tổ đảng các cơ quan Quốc hội, các đoàn
ĐBQH luôn có các hình thức linh hoạt lãnh
đạo, chỉ đạo việc thẩm tra các báo cáo của
Chính phủ, TANDTC, VKSNDTC các nội
dung liên quan đến kết quả cuộc đấu tranh
PCTN. Báo cáo thẩm tra của các cơ quan
Quốc hội luôn bám sát các quan điểm, chủ
trương của Đảng về PCTN, đánh giá khách
quan về các kết quả tích cực trong việc thực
hiện chính sách, pháp luật về PCTN; đồng
thời nghiêm khắc chỉ rõ những hạn chế, yếu
kém trong công tác này. Việc thảo luận của
các ĐBQH tại các phiên họp tổ, phiên họp
toàn thể tại hội trường (những phiên họp tại
các kỳ họp gần đây, khi thảo luận các báo
cáo của Chính phủ về kết quả PCTN, tình
hình phòng, chống tội phạm, việc điều tra,
xét xử các vụ án tham nhũng trong các báo
cáo của TANDTC, VKSNDTC được truyền
hình trực tiếp) đã và đang phát huy được các
hiệu ứng tích cực trong thực tiễn PCTN, góp
phần tạo niềm tin của Nhân dân và quyết tâm
ngăn chặn, đẩy lùi quốc nạn tham nhũng.
Các hoạt động giám sát chuyên đề
của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội
(UBTVQH), Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban
của Quốc hội về việc thực hiện chính sách,
pháp luật trong các mặt của đời sống kinh tế
- xã hội đất nước cũng luôn chú trọng đến
nội dung về thực hiện pháp luật PCTN. Kết
quả báo cáo của các đoàn giám sát chuyên đề
của Quốc hội, UBTVQH, các cơ quan Quốc
hội liên quan đến các vi phạm pháp luật được
phát hiện trong các lĩnh vực được giám sát
là những cảnh báo quan trọng về nguy cơ
tham nhũng và tạo tiền đề để các cơ quan có
trách nhiệm trực tiếp đấu tranh PCTN vào
cuộc tiến hành các hoạt động thanh tra, kiểm
toán, điều tra, truy tố, xét xử các hành vi tham
nhũng khi được phát hiện. Qua các giám sát
chuyên đề về việc thực hiện chính sách, pháp
luật trong từng lĩnh vực cụ thể, các đoàn giám
sát của Quốc hội, UBTVQH, các cơ quan của
Quốc hội không chỉ đánh giá việc thực hiện
chính sách, pháp luật, kiểm nghiệm sự đúng
đắn và hiệu quả của chính sách, pháp luật mà
còn phát hiện các bất cập của các chính sách,
pháp luật nói chung, các chính sách, pháp
luật trong PCTN nói riêng để có giải pháp sửa
đổi, bổ sung.
Đảng lãnh đạo Quốc hội là một vấn
đề có tính nguyên tắc trong tổ chức và hoạt
động của bộ máy nhà nước ta. Trong các
hoạt động lập hiến, lập pháp, quyết định các
vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
17Số 11(387) T6/2019
tối cao nói chung và trong PCTN nói riêng
thuộc phạm vi, thẩm quyền và trách nhiệm
của Quốc hội; sự lãnh đạo của Đảng được
thể hiện bằng đường lối, chính sách, tạo định
hướng chính trị cho hoạt động của Quốc
hội. Sự lãnh đạo của Đảng đối với Quốc hội
trong việc thể chế hóa các quan điểm, đường
lối, chính sách thành các quy định trong các
đạo luật, Nghị quyết của Quốc hội dựa trên
nguyên tắc tôn trọng đề cao vai trò và thẩm
quyền, tính chủ động của Quốc hội, tạo dư
địa để Quốc hội quyết định chính sách pháp
luật theo quy định của Hiến pháp. Do vậy
đối với Quốc hội, việc thể chế hóa các quan
điểm, chủ trương của Đảng thành pháp luật
không có nghĩa là giải pháp kỹ thuật pháp
lý để chuyển hình thức từ Nghị quyết, quyết
định, chỉ thị hay kết luận của Đảng sang
hình thức văn bản pháp luật dưới dạng đạo
luật, bộ luật, từ ngôn ngữ chính trị sang ngôn
ngữ pháp lý mà thật sự là một quá trình sáng
tạo, dân chủ để một lần nữa các định hướng
chính trị được thảo luận để chuyển hóa thành
chính sách pháp luật. Quá trình thảo luận các
dự án luật là một quá trình khảo nghiệm về
sự tương phùng giữa ý Đảng lòng dân, về sự
tương thích giữa định hướng chính trị và nhu
cầu thực tiễn. Qua thảo luận dân chủ tại diễn
đàn Quốc hội, các đại biểu vừa quán triệt
các quan điểm; chủ trương của Đảng vừa thể
hiện ý chí, nguyện vọng và tiếng nói của cử
tri, của cuộc sống trước các vấn đề được đưa
ra thảo luận và quyết định. Thông qua thảo
luận, tranh luận dân chủ, các quan điểm, chủ
trương, giải pháp mà Đảng đã đề ra được
hóa thân thành các quy định pháp luật. Cũng
qua thảo luận dân chủ, những gì chưa thật
phù hợp với thực tiễn, những ý Đảng “chưa
thật hợp lòng dân” được Đảng lắng nghe,
tiếp thu để có những quyết định điều chỉnh,
sửa đổi, bổ sung phù hợp. Vì vậy, có thể thấy
rằng, hoạt động lập pháp của Quốc hội vừa
là một quá trình thể chế hóa các quan điểm
của Đảng thành pháp luật, vừa là kênh phản
hồi có trách nhiệm đối với Đảng về những
vấn đề chưa thật phù hợp với thực tiễn, với
lòng dân trong các chủ trương, giải pháp của
mình, qua đó Đảng không ngừng hoàn thiện
đường lối, chính sách của mình, tạo dựng
cơ sở chính trị vững chắc cho việc đổi mới
hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam qua
mỗi nhiệm kỳ Quốc hội.
Thực tiễn hoạt động Quốc hội cho
thấy, để bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng đối
với Quốc hội, thông thường, trước mỗi kỳ
họp Quốc hội, Đảng đoàn Quốc hội sẽ báo
cáo với Bộ Chính trị về chương trình, nội
dung của các kỳ họp; báo cáo về chương
trình xây dựng pháp luật, pháp lệnh hàng
năm và toàn khóa. Tùy thuộc vào các trường
hợp cụ thể, trong quá trình thảo luận các dự
luật, các vấn đề quan trọng của đất nước tại
các kỳ họp, Đảng đoàn Quốc hội có thể báo
cáo Bộ Chính trị, Ban Bí thư về những vấn
đề nảy sinh hoặc có nhiều ý kiến, phương án
đề xuất khác nhau để xin ý kiến chỉ đạo. Sự
chỉ đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư đối với
nội dung, các vấn đề Đảng đoàn Quốc hội
báo cáo xin ý kiến là cơ sở để Đảng đoàn
Quốc hội lãnh đạo quá trình thảo luận, tiếp
thu, giải trình các ý kiến ĐBQH, chỉnh lý,
hoàn thiện dự thảo văn bản để Quốc hội biểu
quyết thông qua.
Đảng lãnh đạo Quốc hội trong việc
thể chế hóa các quan điểm, chính sách, chủ
trương của Đảng thành pháp luật, trong
việc thực hiện chức năng giám sát thông
qua các tổ chức Đảng: Bộ Chính trị, Ban Bí
thư, Đảng đoàn Quốc hội; các tổ đảng tại
Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban và các Đoàn
ĐBQH và qua các đảng viên là ĐBQH.
Sự lãnh đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí
thư đối với Quốc hội trong đấu tranh phòng
chống tham nhũng được thực hiện thông
qua Đảng đoàn Quốc hội trong việc quán
triệt các quan điểm, giải pháp lớn về phòng
chống tham nhũng trong việc xem xét thông
qua các đạo luật liên quan đến các nội dung
phòng chống tham nhũng. Bộ Chính trị,
Ban Bí thư xem xét, thảo luận cho ý kiến
về chương trình xây dựng luật, pháp lệnh
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
18 Số 11(387) T6/2019
của Quốc hội, UBTVQH hàng năm trong
đó quán triệt các nhiệm vụ thể chế hóa chủ
trương, mục tiêu, giải pháp PCTN cần được
thể hiện trong các dự thảo luật thuộc các lĩnh
vực điều chỉnh khác nhau. Trong mỗi kỳ
họp của Quốc hội, Bộ Chính trị, Ban Bí thư
xem xét, cho ý kiến về các nội dung quan
trọng trong các dự thảo luật còn có nhiều
ý kiến khác nhau giữa cơ quan soạn thảo,
cơ quan thẩm tra và các ĐBQH, hoặc những
nội dung mới phát sinh, chưa được thể hiện
trong các quan điểm, chủ trương của Đảng
cần được xử lý theo tờ trình xin ý kiến của
Đảng đoàn Quốc hội. Ý kiến kết luận của
Bộ Chính trị, Ban Bí thư về các vấn đề Đảng
đoàn Quốc hội xin ý kiến là cơ sở để Quốc
hội hoàn thiện dự thảo luật trước khi được
biểu quyết thông qua.
Đảng đoàn Quốc hội chịu trách nhiệm
trước Bộ Chính trị lãnh đạo trực tiếp mọi
hoạt động của Quốc hội nói chung, trong
việc thực hiện các nhiệm vụ, trách nhiệm
của Quốc hội trong PCTN nói riêng. Sự
lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của Đảng đoàn
là điều kiện quan trọng để các cơ quan của
Quốc hội, các ĐBQH quán triệt sâu sắc các
quan điểm đường lối của Đảng về PCTN
trong hoạt động lập pháp, quyết định các
vấn đề quan trọng và giám sát tối cao. Các
ủy viên của Đảng đoàn, đồng thời là các Ủy
viên UBTVQH đã tạo được sự lãnh đạo, chỉ
đạo thống nhất, hiệu quả của Đảng đoàn,
UBTVQH đối với các hoạt động của Quốc
hội, đảm bảo sự phối hợp với quy chế hoạt
động của Đảng đoàn và quyền hạn, trách
nhiệm của UBTVQH theo quy định của
Luật Tổ chức Quốc hội. Sự thảo luận tại các
hội nghị của Đảng đoàn, các phiên họp của
UBTVQH về các dự thảo luật đảm bảo cho
các dự thảo luôn bám sát các quan điểm, chủ
trương, giải pháp Đảng xác định trong các
nghị quyết, kết luận của Đảng, kết luận về
các vấn đề xin ý kiến của các cơ quan thẩm
tra các dự án luật, nghị quyết là căn cứ để hoàn
thiện dự thảo trình Quốc hội.
Các tổ đảng trực thuộc Đảng đoàn
Quốc hội được thành lập tại Thường trực
Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội
từ khóa XIII nhằm thực hiện sự lãnh đạo của
Đảng tại Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban,
tập trung chủ yếu vào nhiệm vụ quán triệt
các quan điểm, chủ trương của Đảng trong
hoạt động của Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban
trong các hoạt động thẩm tra các dự án luật,
giám sát việc thực hiện chính sách pháp luật
trong lĩnh vực phụ trách và công tác cán bộ.
Hoạt động của các Tổ đảng tại các cơ quan
của Quốc hội trong lĩnh vực PCTN luôn gắn
liền với các hoạt động thẩm tra, khảo sát,
giám sát và kiến nghị về các nội dung thuộc
phạm vi, thẩm quyền luật định, góp phần
đảm bảo cho các quan điểm, chủ trương
PCTN luôn được quan tâm quán triệt trong
các dự thảo luật được giao phụ trách.
Trong cơ cấu ĐBQH Việt Nam, đại
đa số ĐBQH là đảng viên Đảng Cộng sản
Việt Nam (90 - 92%). Trong số các ĐBQH
là đảng viên, có nhiều đại biểu là lãnh đạo
Đảng, Nhà nước, lãnh đạo cấp ủy và chính
quyền địa phương. Do vậy, sự lãnh đạo của
Đảng đối với Quốc hội là vô cùng thuận lợi.
Thông qua các ĐBQH là đảng viên, đường
lối chính sách của Đảng được quán triệt trực
tiếp ngay trong mọi hoạt động của Quốc
hội. Các phát biểu, thảo luận của các ĐBQH
đang giữ các cương vị lãnh đạo Đảng, lãnh
đạo Quốc hội, lãnh đạo Chính phủ, các bộ
ngành, lãnh đạo các địa phương đã góp phần
làm rõ thêm các quan điểm đường lối của
Đảng cần được thể chế hóa, thuyết phục các
đại biểu, định hướng thảo luận nhằm tạo
đồng thuận cao khi quyết định các vấn đề
thuộc phạm vi, thẩm quyền của Quốc hội.
Sự gương mẫu, nghiêm túc của các ĐBQH
là đảng viên trong việc chấp hành đường
lối của Đảng đã và đang làm cho sự lãnh
đạo của Đảng, thấm sâu vào từng hoạt động
của Quốc hội, góp phần quan trọng nâng
cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của
Quốc hội
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
19Số 11(387) T6/2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- thuc_trang_noi_dung_va_phuong_thuc_lanh_dao_cua_dang_doi_voi.pdf