Thực trạng pháp luật và một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về chế tài phạt vi phạm, bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng thương mại và mối quan hệ giữa hai chế tài
Ba là, hoàn thiện pháp luật về mối quan hệ
giữa chế tài phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại:
Như đã phân tích ở mục 1.3 bài viết,
giữa khoản 3 Điều 418 BLDS năm 2015
và khoản 2 Điều 307 LTM năm 2005
quy định trái ngược nhau về cách thức
áp dụng chế tài phạt vi phạm và chế tài
bồi thường. Đối với vấn đề này, có nhà
nghiên cứu đánh giá: “quy định trong
Luật thương mại phù hợp hơn, vì chế tài bồi
thường thiệt hại được áp dụng dựa trên thiệt
hại thực tế xảy ra. Do đó, nếu chỉ áp dụng
chế tài phạt vi phạm thì trong nhiều trường
hợp, mức phạt vi phạm sẽ không đủ khắc
phục thiệt hại xảy ra cho người bị vi phạm.
Chỉ trong trường hợp các bên không có thoả
thuận về phạt vi phạm mà có thiệt hại do vi
phạm hợp đồng xảy ra, bên bị vi phạm mới
đương nhiên được quyền yêu cầu bồi thường
thiệt hại. Điều này khiến cho quy định của Bộ
luật dân sự về bồi thường thiệt hại trong các
trường hợp không có sự thống nhất. Tức là
có trường hợp chế tài bồi thường thiệt hại chỉ
được áp dụng nếu có thoả thuận, nhưng lại
có trường hợp đương nhiên được áp dụng khi
có thiệt hại xảy ra”421. Đồng tình với quan
điểm này, theo đó, tác giả kiến nghị cần
sửa đổi BLDS theo hướng ghi nhận điều
kiện áp dụng chế tài bồi thường thiệt hại
do vi phạm hợp đồng dựa trên thiệt hại
thực tế thay vì sự thoả thuận. Điều này
phù hợp với căn cứ áp dụng chế tài bồi
thường và tạo sự thống nhất giữa BLDS
và LTM.
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 21/01/2022 | Lượt xem: 239 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Thực trạng pháp luật và một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về chế tài phạt vi phạm, bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng thương mại và mối quan hệ giữa hai chế tài, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
50 Khoa học Kiểm sát Số 03 - 2020
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN...
PHÁP LUẬT VỀ CHẾ TÀI PHẠT VI PHẠM, BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI
DO VI PHẠM HỢP ĐỒNG THƯƠNG MẠI VÀ MỐI QUAN HỆ
GIỮA HAI CHẾ TÀI
điNH VĂN CườNg*
Điều 292 Luật Thương mại (LTM) năm 2005 quy định về các loại chế tài do vi
phạm hợp đồng thương mại; trong đó, chế tài phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại
là những chế tài phổ biến, được áp dụng thường xuyên khi các bên trong hợp đồng
thương mại vi phạm nghĩa vụ. Bài viết tập trung phân tích thực trạng pháp luật và
mối quan hệ giữa hai chế tài này, qua đó đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện pháp
luật về vấn đề này.
Từ khóa: Phạt vi phạm, bồi thường thiệt hại, vi phạm hợp đồng thương mại, chế
tài do vi phạm hợp đồng thương mại.
Ngày nhận bài: 07/6/2020; Ngày biên tập xong: 09/6/2020; Ngày duyệt đăng:
09/6/2020.
article 292 of the 2005 Commercial Law prescribes sanctions against commercial
contract violations; in which, sanctions for fines for breaches and compensation
for damages are common ones that are regularly applied in cases the parties in
the commercial contract violate their obligations. the paper focuses on analyzing
the legal status and relationship between these two sanctions, thereby proposes
some recommendations to improve the law about this matter.
keywords: Fines for breaches, compensation for damages, commercial contract
violations, sanctions against commercial contract violations.
1. thực trạng pháp luật về chế tài
phạt vi phạm, bồi thường thiệt hại do
vi phạm hợp đồng thương mại và mối
quan hệ giữa hai chế tài
1.1. Phạt vi phạm
Theo quy định tại Điều 300 LTM năm
2005: “Phạt vi phạm là việc bên bị vi phạm yêu
cầu bên vi phạm trả một khoản tiền phạt do vi
phạm hợp đồng nếu trong hợp đồng có thoả
thuận, trừ các trường hợp miễn trách nhiệm
quy định tại Điều 294 của Luật này”. Theo
quy định trên, phạt vi phạm là chế tài do
bên bị vi phạm yêu cầu bên vi phạm phải
thực hiện. Như vậy, chế tài phạt vi phạm
chỉ được đặt ra khi xuất hiện sự vi phạm
hợp đồng của một bên chủ thể trong hợp
đồng thương mại. Trong LTM năm 2005
không có quy định riêng về vi phạm nghĩa
vụ; trong khi đó, khoản 1 Điều 351 Bộ luật
dân sự (BLDS) năm 2015 quy định:1 “Vi
phạm nghĩa vụ là việc bên có nghĩa vụ không
thực hiện nghĩa vụ đúng thời hạn, thực hiện
không đầy đủ nghĩa vụ hoặc thực hiện không
đúng nội dung của nghĩa vụ”. Các hành vi
vi phạm nghĩa vụ trong hợp đồng thương
mại rất đa dạng, phong phú thuộc các
trường hợp chính như: không thực hiện
* Thạc sĩ, Công ty Trách nhiệm hữu hạn Bảo Long
ĐINH VĂN CƯỜNG
51Số 03 - 2020 Khoa học Kiểm sát
nghĩa vụ; thực hiện không đúng nghĩa vụ
và thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ. Hành
vi vi phạm nghĩa vụ của một bên chủ thể
trong hợp đồng thương mại không chỉ được
hiểu hạn hẹp là vi phạm thỏa thuận của các
bên trong hợp đồng mà còn bao gồm cả việc
vi phạm các quy định của pháp luật.
Phạt vi phạm không phải là điều khoản
bắt buộc của hợp đồng nên các bên có thể
ghi nhận vấn đề này trong hợp đồng hoặc
không. Tuy nhiên, để bên bị vi phạm yêu
cầu bên vi phạm phải trả tiền phạt thì điều
kiện bắt buộc là các bên phải thỏa thuận về
nội dung này trong hợp đồng. Điều khoản
phạt vi phạm có thể được thỏa thuận và
ghi nhận ngay từ khi các bên giao kết hợp
đồng hoặc cũng có thể được ghi nhận khi
các bên tiến hành sửa đổi, bổ sung, lập phụ
lục của hợp đồng. Thông thường, điều
khoản phạt vi phạm được thỏa thuận trước
khi một trong các bên có hành vi vi phạm
hợp đồng, còn nếu đã xuất hiện hành vi vi
phạm của một bên thì bên vi phạm sẽ hiếm
khi chấp nhận yêu cầu phạt do bên bị vi
phạm đưa ra.
Đối với mức tiền phạt, khoản 2 Điều
418 BLDS năm 2015 quy định: “Mức phạt
vi phạm do các bên thoả thuận, trừ trường
hợp luật liên quan có quy định khác”. Theo
đó, BLDS không giới hạn mức phạt mà để
cho các bên trong hợp đồng quyết định,
trừ trường hợp luật liên quan có quy định
khác. Theo LTM năm 2005, mức phạt đối
với vi phạm nghĩa vụ hợp đồng mua bán
hàng hóa hoặc tổng mức phạt đối với nhiều
vi phạm do các bên thỏa thuận trong hợp
đồng nhưng không quá 8% giá trị phần
nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm. Đối với
hợp đồng dịch vụ giám định, mức phạt vi
phạm do các bên thoả thuận có thể lên đến
10 lần thù lao dịch vụ giám định, tức là có
thể gấp 10 lần giá trị hợp đồng. Liên quan
đến mức phạt vi phạm, hiện nay còn tồn
tại hai vướng mắc như sau:
Một là, việc LTM năm 2005 khống chế
mức phạt vi phạm không quá 8% giá trị
phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm có
làm hạn chế quyền tự do hợp đồng của
các chủ thể không? Theo quan điểm của
tác giả, việc LTM năm 2005 đặt ra giới hạn
với mức phạt vi phạm cũng không bị coi là
xâm phạm đến quyền tự do hợp đồng của
các chủ thể, bởi sự tự do hợp đồng cũng
đặt trong khuôn khổ và giới hạn luật cho
phép. Hơn thế nữa, việc đặt ra một mức
giới hạn phạt cũng là cần thiết để tránh sự
áp đặt thái quá của bên chiếm ưu thế trong
hợp đồng đối với bên yếu thế. Tuy nhiên,
trải qua gần 15 năm nên mức phạt này bị
đánh giá không còn tương thích với thực
tiễn hiện nay.
Hai là, LTM năm 2005 quy định mức
phạt không quá 8% giá trị phần nghĩa vụ
hợp đồng bị vi phạm. Tuy nhiên, quy định
này là chưa triệt để bởi các nhà lập pháp
chưa đưa ra cách thức giải quyết trong
trường hợp các bên thỏa thuận mức phạt
lớn hơn 8% giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng
bị vi phạm. Hiện nay đang tồn tại hai luồng
quan điểm liên quan đến vấn đề này như
sau: (i) Trường hợp các bên thỏa thuận mức
phạt vi phạm lớn hơn 8% giá trị phần nghĩa
vụ hợp đồng bị vi phạm thì phần vượt quá
không được tính. Điều này có nghĩa mức
phạt sẽ được xác định là 8% giá trị phần
nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm; (ii) Trường
hợp các bên thỏa thuận mức phạt vi phạm
lớn hơn 8% giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng
bị vi phạm thì điều khoản này bị xác định là
vô hiệu và không được áp dụng. Điều này
đồng nghĩa với việc bên bị vi phạm không
có căn cứ để phạt bên vi phạm.
1.2. Bồi thường thiệt hại do vi phạm
hợp đồng thương mại
Các trách nhiệm do vi phạm hợp đồng
thương mại đa dạng, phong phú, trong số đó
phải kể đến loại trách nhiệm bồi thường thiệt
hại. Đây là loại trách nhiệm được quy định
tHỰC trạNg PHáP LUẬt Và Một Số kiếN NgHị HOàN tHiỆN...
52 Khoa học Kiểm sát Số 03 - 2020
trong cả BLDS năm 2015 và LTM năm 2005
và được các chủ thể áp dụng thường xuyên
trên thực tế trong các hợp đồng thương mại.
Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi
thường thiệt hại (Điều 303 LTM năm 2005)
gồm: (i) Có hành vi vi phạm hợp đồng; (ii)
Có thiệt hại thực tế; (iii) Hành vi vi phạm
hợp đồng là nguyên nhân trực tiếp gây ra
thiệt hại. Đối với căn cứ phát sinh trách
nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp
đồng, tác giả có một vài trao đổi như sau:
Một là, liên quan đến điều kiện “có
hành vi vi phạm hợp đồng” – đây là điều kiện
tiên quyết để làm phát sinh trách nhiệm
bồi thường. Tuy nhiên, theo quan điểm tác
giả, điều kiện này cần được hiểu đúng và
theo nghĩa bao quát là vi phạm cả các quy
định của luật được coi là nội dung của hợp
đồng đó. Vì nội dung của hợp đồng không
chỉ bao gồm thỏa thuận giữa các bên trong
hợp đồng mà còn bao gồm cả quy định của
luật (đối với các điều khoản thông thường
mà các bên không thỏa thuận). Ví dụ: Trong
hợp đồng mua bán hàng hóa, nếu các bên
không thỏa thuận về địa điểm giao hàng
thì địa điểm được xác định theo khoản 2
Điều 35 LTM năm 20051.
Hai là, về điều kiện “Hành vi vi phạm
hợp đồng là nguyên nhân trực tiếp gây ra thiệt
1 “a) Trường hợp hàng hoá là vật gắn liền với đất đai thì
bên bán phải giao hàng tại nơi có hàng hoá đó;
b) Trường hợp trong hợp đồng có quy định về vận chuyển
hàng hoá thì bên bán có nghĩa vụ giao hàng cho người vận
chuyển đầu tiên;
c) Trường hợp trong hợp đồng không có quy định về
vận chuyển hàng hoá, nếu vào thời điểm giao kết hợp
đồng, các bên biết được địa điểm kho chứa hàng, địa
điểm xếp hàng hoặc nơi sản xuất, chế tạo hàng hoá thì
bên bán phải giao hàng tại địa điểm đó;
d) Trong các trường hợp khác, bên bán phải giao hàng tại
địa điểm kinh doanh của bên bán, nếu không có địa điểm
kinh doanh thì phải giao hàng tại nơi cư trú của bên bán
được xác định tại thời điểm giao kết hợp đồng mua bán”.
hại” cần được hiểu gắn liền với yếu tố chủ
thể thực hiện hành vi vi phạm. Chủ thể của
hợp đồng mới là người có nghĩa vụ thực
hiện hợp đồng. Do đó, hành vi vi phạm
hợp đồng trước hết phải được hiểu là hành
vi của chính các chủ thể giao kết hợp đồng.
Tuy nhiên, không phải trong mọi trường
hợp, chủ thể giao kết hợp đồng là chủ thể
trực tiếp thực hiện hợp đồng mà họ có thể
ủy quyền việc thực hiện hợp đồng sang
cho chủ thể khác. Bởi vậy, chủ thể được các
bên trong hợp đồng ủy quyền thực hiện
hợp đồng mà có hành vi vi phạm thì cũng
được xác định chính là sự vi phạm của chủ
thể hợp đồng.
Xác định thiệt hại là một trong những
vấn đề được quan tâm hàng đầu khi giải
quyết bồi thường. Theo Điều 302 LTM năm
2005, bồi thường thiệt hại là việc bên vi
phạm bồi thường những tổn thất do hành
vi vi phạm hợp đồng gây ra cho bên bị vi
phạm. Giá trị bồi thường thiệt hại bao gồm
giá trị tổn thất thực tế, trực tiếp mà bên bị
vi phạm phải chịu do bên vi phạm gây ra
và khoản lợi trực tiếp mà bên bị vi phạm
đáng lẽ được hưởng nếu không có hành vi
vi phạm. Quy định này được đánh giá là
chung chung, thiếu rõ ràng, bởi lẽ:
(i) Hiểu như thế nào là thiệt hại thực tế,
thiệt hại trực tiếp. Đây là vấn đề tương đối
mơ hồ bởi các thiệt hại phát sinh vô cùng
đa dạng, phong phú. Do đó, việc không
hiểu thống nhất và cặn kẽ quy định của
luật dễ dẫn tới phát sinh tranh chấp trong
quá trình giải quyết bồi thường;
(ii) LTM năm 2005 không quy định rõ
vấn đề bồi thường thiệt hại về tinh thần cho
chủ thể bị vi phạm trong hợp đồng. Trong
khi đó, tại Điều 419 BLDS năm 2015 đã xác
định rõ vấn đề này: “Theo yêu cầu của người
có quyền, Tòa án có thể buộc người có nghĩa vụ
bồi thường thiệt hại về tinh thần cho người
có quyền. Mức bồi thường do Tòa án quyết
định căn cứ vào nội dung vụ việc”. Việc BLDS
ĐINH VĂN CƯỜNG
53Số 03 - 2020 Khoa học Kiểm sát
năm 2015 ghi nhận bồi thường về tinh thần
trong khi LTM năm 2005 không đề cập rõ
ràng xuất phát từ bối cảnh cũng như tiến
trình xây dựng luật. Do LTM năm 2005 ra
đời trước BLDS năm 2015 gần 10 năm nên
tại thời điểm đó, nhận thức về thiệt hại tinh
thần chưa được quan tâm thấu đáo như
giai đoạn hiện nay. Đây cũng là lần đầu
tiên BLDS năm 2015 ghi nhận trực tiếp về
vấn đề bồi thường tinh thần do vi phạm
hợp đồng nhưng quy định này chưa triệt
để bởi các tiêu chí xác định mức độ tổn thất
về tinh thần, đặc biệt khi chủ thể là pháp
nhân trong hợp đồng thương mại như thế
nào chưa có quy định cụ thể.
1.3. Quan hệ giữa chế tài phạt vi phạm
và bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp
đồng thương mại
Phạt vi phạm và buộc bồi thường thiệt
hại là hai chế tài cơ bản và quan trọng
trong thương mại khi có hành vi vi phạm
hợp đồng xảy ra. Mặc dù đây là hai chế tài
độc lập khác nhau nhưng trong thực tế,
nhiều chủ thể giao kết hợp đồng thương
mại còn có sự nhầm lẫn và áp dụng không
rạch ròi giữa hai hình thức này. Chế tài
phạt vi phạm và chế tài bồi thường thiệt
hại được phân biệt ở một số điểm chính
như: (i) Về điều kiện áp dụng: phạt vi
phạm được áp dụng khi có sự vi phạm
hợp đồng và các bên đã thỏa thuận về điều
khoản phạt trong hợp đồng. Ngược lại, các
bên không cần thỏa thuận về chế tài bồi
thường mà khi có thiệt hại xảy ra trong
hợp đồng do hành vi vi phạm hợp đồng
của một bên thì bên bị thiệt hại được quyền
yêu cầu bồi thường; (ii) Về mục đích: phạt
vi phạm được đặt ra để răn đe hai bên cố
gắng tuân thủ hợp đồng, còn bồi thường
thiệt hại nhằm bù đắp tổn thất mà bên bị vi
phạm phải chịu; (iii) Về mức phạt: mức bồi
thường do vi phạm hợp đồng thương mại
là không quá 8% giá trị phần nghĩa vụ bị vi
phạm trong hợp đồng. Trong khi đó, mức
bồi thường được xác định dựa trên thiệt
hại thực tế xảy ra.
Phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại
là hai chế tài có mối quan hệ mật thiết với
nhau trên thực tế; do đó, mối quan hệ trong
việc áp dụng hai chế tài này được ghi nhận
trong cả LTM và BLDS hiện hành.
Trước hết, theo quy định tại Điều 307
LTM năm 200521, chế tài phạt vi phạm và
chế tài bồi thường thiệt hại được áp dụng
như sau:
Với quy định này của LTM, nhà làm
luật nhấn mạnh chế tài phạt vi phạm chỉ
phát sinh khi có hành vi vi phạm hợp
đồng của bên vi phạm và các bên có thỏa
thuận về việc phạt vi phạm. Khác với chế
tài phạt vi phạm, trách nhiệm bồi thường
thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ thực hiện
hợp đồng phát sinh ngay cả trong trường
hợp các bên không có thỏa thuận về vấn
đề này. Cụ thể:
- Trường hợp 1: Các bên không có thỏa
thuận phạt vi phạm thì bên bị vi phạm chỉ
có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại.
- Trường hợp 2: Các bên có thỏa thuận
phạt vi phạm thì bên bị vi phạm có quyền
áp dụng cả chế tài phạt vi phạm và buộc
bồi thường thiệt hại.
Như vậy, để áp dụng đồng thời cả chế
tài phạt vi phạm và chế tài bồi thường thiệt
hại thì các bên trong hợp đồng thương
mại chỉ cần có thỏa thuận về phạt vi phạm
trong hợp đồng thương mại.
Trong khi đó, theo quy định tại khoản
3 Điều 418 BLDS năm 201532, mối quan hệ
2 “1. Trường hợp các bên không có thỏa thuận phạt vi
phạm thì bên bị vi phạm chỉ có quyền yêu cầu bồi thường
thiệt hại, trừ trường hợp Luật này có quy định khác.
2. Trường hợp các bên có thỏa thuận phạt vi phạm thì bên bị
vi phạm có quyền áp dụng cả chế tài phạt vi phạm và buộc bồi
thường thiệt hại, trừ trường hợp Luật này có quy định khác”.
3 “Các bên có thể thoả thuận về việc bên vi phạm nghĩa
vụ chỉ phải chịu phạt vi phạm mà không phải bồi thường
tHỰC trạNg PHáP LUẬt Và Một Số kiếN NgHị HOàN tHiỆN...
54 Khoa học Kiểm sát Số 03 - 2020
giữa phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại
được chia làm các trường hợp:
- Trường hợp 1: Nếu trong hợp đồng
chỉ thỏa thuận về phạt vi phạm nhưng thỏa
thuận không phải bồi thường thiệt hại thì
bên vi phạm chỉ bị phạt vi phạm.
- Trường hợp 2: Nếu trong hợp đồng
chỉ thỏa thuận về bồi thường thiệt hại mà
không thỏa thuận phạt vi phạm thì bên vi
phạm chỉ phải bồi thường thiệt hại.
- Trường hợp 3: Nếu trong hợp đồng
thỏa thuận cả phạt vi phạm và bồi thường
thiệt hại thì bên vi phạm phải chịu phạt vi
phạm và cả bồi thường thiệt hại.
- Trường hợp 4: Nếu trong hợp đồng
không có thỏa thuận gì về phạt vi phạm và
bồi thường thiệt hại thì khi có vi phạm xảy
ra gây thiệt hại, bên vi phạm chỉ phải chịu
bồi thường thiệt hại.
Rõ ràng, quy định về việc áp dụng
đồng thời phạt vi phạm và bồi thường
thiệt hại là có sự mâu thuẫn, trái ngược với
nhau giữa LTM và BLDS hiện hành. Nếu
như trong LTM năm 2005, chủ thể bị vi
phạm được áp dụng đồng thời cả chế tài
phạt vi phạm và chế tài bồi thường khi các
bên chủ thể chỉ cần có thỏa thuận về phạt
vi phạm mà không bắt buộc phải có thỏa
thuận rõ về việc áp dụng đồng thời cả hai;
thì ngược lại, trong BLDS năm 2015, chủ
thể bị vi phạm muốn áp dụng đồng thời cả
hai chế tài này cần có thỏa thuận cụ thể về
việc áp dụng đồng thời. Sự mâu thuẫn này
đã gây ra nhiều tranh cãi cũng như khó
khăn trong quá trình áp dụng pháp luật để
giải quyết các tranh chấp phát sinh trong
hợp đồng thương mại.
thiệt hại hoặc vừa phải chịu phạt vi phạm và vừa phải
bồi thường thiệt hại.
Trường hợp các bên có thoả thuận về phạt vi phạm
nhưng không thỏa thuận về việc vừa phải chịu phạt vi
phạm và vừa phải bồi thường thiệt hại thì bên vi phạm
nghĩa vụ chỉ phải chịu phạt vi phạm”.
2. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp
luật về chế tài phạt vi phạm, bồi thường
thiệt hại do vi phạm hợp đồng thương
mại và quan hệ giữa hai chế tài
Một là, hoàn thiện pháp luật về chế tài
phạt vi phạm:
Thứ nhất, mức phạt tối đa 8% trong
LTM năm 2005 là quá thấp, không còn phù
hợp với cơ chế thị trường ngày nay. Do đó,
khi sửa đổi LTM, các nhà làm luật nên bỏ
mức trần 8% này và thay bằng mức trần
cao hơn để tăng tính răn đe cho chế tài.
Thứ hai, cần quy định cách thức giải
quyết trong trường hợp các bên chủ thể
trong hợp đồng thương mại thỏa thuận
mức phạt lớn hơn 8% giá trị phần nghĩa
vụ hợp đồng bị vi phạm. Đối với vấn đề
này, có quan điểm dẫn chiếu đến khoản
1 Điều 468 BLDS năm 2015 liên quan đến
cách thức giải quyết lãi suất vượt quá mức
trần, cụ thể: “Trường hợp lãi suất theo thỏa
thuận vượt quá lãi suất giới hạn được quy định
tại khoản này thì mức lãi suất vượt quá không
có hiệu lực” để đưa ra kiến nghị tương tự
cho vấn đề này. Theo đó, nếu các bên thỏa
thuận mức phạt lớn hơn 8% giá trị phần
nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm thì phần
vượt quá không được tính. Điều này có
nghĩa mức phạt sẽ được xác định là 8% giá
trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm.
Tác giả không tán thành với cách thức
giải quyết này, bởi nếu các bên thỏa thuận
vượt quá mức phạt trần theo quy định của
luật mà khi xảy ra tranh chấp, mức phạt
vẫn được xác định là 8% thì điều này sẽ
thúc đẩy các bên thỏa thuận vượt trần.
Điều này có nghĩa kể cả khi đã thỏa thuận
không tuân theo mức giới hạn do luật định
thì các bên vẫn được tính theo mức phạt
cao nhất. Kéo theo đó, sự nghiêm minh của
pháp luật sẽ không được bảo đảm. Do vậy,
theo ý kiến tác giả, đối với các trường hợp
các bên thỏa thuận mức phạt lớn hơn 8%
giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm
ĐINH VĂN CƯỜNG
55Số 03 - 2020 Khoa học Kiểm sát
thì trong trường hợp này điều khoản phạt
không được công nhận.
Hai là, hoàn thiện pháp luật về chế tài bồi
thường thiệt hại:
Thứ nhất, cần bổ sung quy định về xác
định thiệt hại. Theo đó, cần phải quy định
rõ những loại thiệt hại được bồi thường.
Đồng thời, để phù hợp với BLDS năm 2015
cũng tương thích với thực tế, LTM cần bổ
sung thêm vấn đề “bồi thường tinh thần”.
Điều này hoàn toàn cần thiết và phù hợp
bởi khi hợp đồng bị vi phạm có thể gây ra
những tổn thất rất nghiêm trọng về mặt
tinh thần cho bên bị vi phạm. Bên cạnh đó,
LTM cần quy định về cách thức xác định
tổn thất tinh thần trong bồi thường thiệt
hại do vi phạm hợp đồng thương mại.
Thứ hai, LTM năm 2005 không đề cập
đến yếu tố lỗi là căn cứ để áp dụng chế tài
bồi thường thiệt hại. Tuy nhiên, tại Điều
238 quy định về giới hạn trách nhiệm của
thương nhân kinh doanh dịch vụ logistic,
Điều 266 quy định về trách nhiệm của
thương nhân kinh doanh dịch vụ giám
định lại đề cập đến yếu tố lỗi để làm căn
cứ áp dụng chế tài. Đây là việc quy định
không thống nhất giữa quy định chung
và quy định riêng trong từng hợp đồng
thương mại. Theo ý kiến tác giả, trong quy
định chung về bồi thường thiệt hại tại Điều
303 LTM năm 2005 cần có quy định riêng
về yếu tố lỗi: “trừ trường hợp luật có quy
định khác” để tạo sự tương thích giữa quy
định chung về chế tài bồi thường và quy
định riêng trong các hợp đồng thương mại
cụ thể.
Ba là, hoàn thiện pháp luật về mối quan hệ
giữa chế tài phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại:
Như đã phân tích ở mục 1.3 bài viết,
giữa khoản 3 Điều 418 BLDS năm 2015
và khoản 2 Điều 307 LTM năm 2005
quy định trái ngược nhau về cách thức
áp dụng chế tài phạt vi phạm và chế tài
bồi thường. Đối với vấn đề này, có nhà
nghiên cứu đánh giá: “quy định trong
Luật thương mại phù hợp hơn, vì chế tài bồi
thường thiệt hại được áp dụng dựa trên thiệt
hại thực tế xảy ra. Do đó, nếu chỉ áp dụng
chế tài phạt vi phạm thì trong nhiều trường
hợp, mức phạt vi phạm sẽ không đủ khắc
phục thiệt hại xảy ra cho người bị vi phạm.
Chỉ trong trường hợp các bên không có thoả
thuận về phạt vi phạm mà có thiệt hại do vi
phạm hợp đồng xảy ra, bên bị vi phạm mới
đương nhiên được quyền yêu cầu bồi thường
thiệt hại. Điều này khiến cho quy định của Bộ
luật dân sự về bồi thường thiệt hại trong các
trường hợp không có sự thống nhất. Tức là
có trường hợp chế tài bồi thường thiệt hại chỉ
được áp dụng nếu có thoả thuận, nhưng lại
có trường hợp đương nhiên được áp dụng khi
có thiệt hại xảy ra”421. Đồng tình với quan
điểm này, theo đó, tác giả kiến nghị cần
sửa đổi BLDS theo hướng ghi nhận điều
kiện áp dụng chế tài bồi thường thiệt hại
do vi phạm hợp đồng dựa trên thiệt hại
thực tế thay vì sự thoả thuận. Điều này
phù hợp với căn cứ áp dụng chế tài bồi
thường và tạo sự thống nhất giữa BLDS
và LTM./.
tài LiỆU tHaM kHẢO
1. Luật Thương mại năm 2005;
2. Bộ luật dân sự năm 2015;
3. TS. Nguyễn Văn Hợi, Trường Đại học
Luật Hà Nội: “Sự không thống nhất trong quy
định về hợp đồng giữa Luật Thương mại và
Bộ luật Dân sự”, đăng tải:
Pages/tintuc/tinchitiet.aspx?tintucid=210500.
4 TS. Nguyễn Văn Hợi, Trường Đại học Luật Hà
Nội: “Sự không thống nhất trong quy định về hợp
đồng giữa Luật Thương mại và Bộ luật Dân sự”, đăng
tải:
tintucid=210500, ngày truy cập: 28/5/2020.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- thuc_trang_phap_luat_va_mot_so_kien_nghi_hoan_thien_phap_lua.pdf