Kết luận
Với những tiềm năng phong phú sẵn có, trong
bối cảnh hội nhập trong thời đại cách mạng
công nghiệp 4.0, cùng với chính sách khuyến
khích phát triển của địa phương, các doanh
nghiệp có nhiều cơ hội để phát triển. Trong
những năm qua, các doanh nghiệp trên địa
bàn tỉnh Thái Nguyên đã có sự phát triển
nhanh chóng, đặc biệt là các doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài trong ngành công
nghiệp. Sự tăng nhanh về số lượng, quy mô
vốn đầu tư, các doanh nghiệp công nghiệp đã
tạo ra hiệu quả về kinh tế khi góp phần làm
tăng giá trị sản xuất công nghiệp, tăng doanh
thu, lợi nhuận, đóng góp vào nguồn ngân sách
địa phương. Bên cạnh đó là hiệu quả về mặt
xã hội khi giải quyết việc làm cho người lao
động, tăng thu nhập, giúp cải thiện và nâng
cao chất lượng cuộc sống của người lao động.
Tuy nhiên, phần lớn các doanh nghiệp hiện
nay là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, nguồn
vốn đầu tư hạn chế, khả năng cạnh tranh chưa
cao, chịu tác động và ảnh hưởng nhiều của
các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Những vấn đề này đặt ra trong thời gian tới
cần có những giải pháp đồng bộ, kịp thời và
hiệu quả để nâng cao hiệu quả phát triển
doanh nghiệp, tiếp tục phát huy thế mạnh và
khắc phục những hạn chế tồn tại nhằm cải
thiện chất lượng của các doanh nghiệp.
8 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 18/01/2022 | Lượt xem: 227 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Thực trạng phát triển doanh nghiệp công nghiệp trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ISSN: 1859-2171
e-ISSN: 2615-9562
TNU Journal of Science and Technology 225(07): 229 - 236
Email: jst@tnu.edu.vn 229
THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP CÔNG NGHIỆP
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH THÁI NGUYÊN
Nghiêm Văn Long1*, Nguyễn Xuân Trường2
1Trường Đại học Sư phạm - ĐH Thái Nguyên, 2Đại học Thái Nguyên
TÓM TẮT
Trong những năm gần đây, doanh nghiệp là một hình thức tổ chức sản xuất có vai trò quan trọng
đối với sự phát triển của ngành công nghiệp nói riêng và nền kinh tế xã hội tỉnh Thái Nguyên nói
chung. Nội dung nghiên cứu của bài báo hướng tới mục tiêu phân tích thực trạng phát triển doanh
nghiệp công nghiệp trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên; đánh giá các nhân tố ảnh hưởng và chỉ ra
những vấn đề còn tồn tại trong quá trình phát triển của các doanh nghiệp công nghiệp; từ đó đề
xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh sản xuất của các doanh nghiệp. Bằng
việc sử dụng những phương pháp nghiên cứu đặc trưng: phương pháp thu thập, xử lý tài liệu; phân
tích, so sánh; thống kê; khảo sát thực tế; quan sát thực địa, bài báo đã phân tích rõ thực trạng phát
triển các doanh nghiệp công nghiệp trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên theo các tiêu chí; đánh giá được
những thuận lợi cũng như khó khăn trong quá trình phát triển; chỉ ra những vấn đề còn tồn tại đối
với doanh nghiệp và đề xuất một số giải pháp phát triển doanh nghiệp trong thời gian tới. Đó là
việc cần thực hiện đồng bộ các nhóm giải pháp về nguồn nguyên liệu, lao động, vốn, cơ sở hạ
tầng, thị trường và chính sách phát triển.
Từ khóa: Doanh nghiệp; công nghiệp; đầu tư; kinh tế - xã hội; Thái Nguyên.
Ngày nhận bài: 25/3/2020; Ngày hoàn thiện: 26/5/2020; Ngày đăng: 28/5/2020
THE DEVELOPMENT STATUS OF INDUSTRIAL ENTERPRISE
IN THAI NGUYEN PROVINCE
Nghiem Van Long
1*
, Nguyen Xuan Truong
2
1TNU - University of Education, 2Thai Nguyen University
ABSTRACT
In recent years, enterprises are a form of production organization that plays an important role in
the development of industry in particular and the socio-economic of Thai Nguyen province in
general. The research content of the article aims to analyze the development status of industrial
enterprise in Thai Nguyen province; assessing influencing factors and pointing out outstanding
issues in the development process of industrial enterprises; From there, propose some solutions to
improve production and business efficiency of enterprises. By using specific research methods:
methods of collecting, processing documents; analysis, comparison; statistical; field survey;
observing the field, the article clearly analyzed the developing status of industrial enterprises in
Thai Nguyen province according to the criteria; assess the advantages and disadvantages in the
development process; point out the outstanding issues for the enterprises and propose some
solutions for enterprises development in the future. That is the need to synchronously implement
solution group on raw materials, labor, capital, infrastructure, markets and development policies.
Keywords: Enterprise; industry; investment; socio-economic; Thai Nguyen.
Received: 25/3/2020; Revised: 26/5/2020; Published: 28/5/2020
* Corresponding author. Email: nghiemvanlong@dhsptn.edu.vn
Nghiêm Văn Long và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 225(07): 229 - 236
Email: jst@tnu.edu.vn 230
1. Đặt vấn đề
Tỉnh Thái Nguyên là trung tâm chính trị, kinh
tế của vùng Trung du và miền núi Bắc Bộ. Do
tiếp giáp với vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ,
liền kề với thủ đô Hà Nội, nền kinh tế có
những sự phát triển “đột biến” trong những
năm vừa qua, vì vậy Chính phủ đã đưa tỉnh
Thái Nguyên vào Quy hoạch Vùng thủ đô Hà
Nội đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2050.
Thái Nguyên đang có cơ hội phát triển nhanh
và mạnh trên con đường công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, hướng tới mục tiêu trở thành
một tỉnh công nghiệp theo hướng hiện đại vào
thời gian tới. Để đạt được mục tiêu đó, công
nghiệp là ngành kinh tế giữ vai trò rất quan
trọng. Trong những năm qua, nhằm phát huy
tối đa mọi nguồn lực cho sự phát triển của địa
phương, nắm bắt những cơ hội do bối cảnh
hội nhập mang lại, chính quyền địa phương
đã có nhiều cải cách, chính sách tích cực
trong việc thu hút đầu tư trong và ngoài nước,
từ nhiều thành phần kinh tế khác nhau vào
các ngành và các khu công nghiệp, cụm công
nghiệp. Hiện nay, các doanh nghiệp công
nghiệp đang phát huy hiệu quả trong sản xuất
kinh doanh và có đóng góp lớn cho sự phát
triển của ngành công nghiệp nói riêng, nền
kinh tế của tỉnh nói chung. Trong giai đoạn
tới, vấn đề đặt ra là cần có hướng đi, giải
pháp phù hợp nhằm nâng cao hiệu quả của
các doanh nghiệp, đảm bảo sự phát triển bền
vững trong tương lai, hướng tới mục tiêu
chung trong phát triển kinh tế xã hội tỉnh
Thái Nguyên.
2. Dữ liệu và phương pháp nghiên cứu
2.1. Dữ liệu nghiên cứu
Dữ liệu được sử dụng trong bài báo được thu
thập, tổng hợp và xử lý từ những nguồn tài
liệu thứ cấp bao gồm: niên giám thống kê,
báo cáo tình hình phát triển doanh nghiệp,
tổng điều tra kinh tế... của các cơ quan, sở ban
ngành có liên quan của tỉnh Thái Nguyên
như: Cục Thống kê, Sở Kế hoạch và Đầu tư,
Ủy ban nhân dân tỉnh Thái Nguyên; từ công
trình nghiên cứu của một số tác giả về vấn đề
được đề cập trong bài báo, cụ thể là bài báo:
Hiện trạng phát triển của doanh nghiệp nhỏ
và vừa trên địa bàn thành phố Thái Nguyên
của nhóm tác giả Vũ Bạch Diệp, Ngô Thị
Hồng Hạnh trên tạp chí tài chính; thông tin
thu thập từ khảo sát thực tế địa bàn nghiên
cứu. Trên cơ sở nguồn dữ liệu đó, tác giả đã
sử dụng nhiều phương pháp để xử lý dữ liệu,
khái quát phục vụ nội dung nghiên cứu.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
Tác giả vận dụng kết hợp nhiều phương pháp
nghiên cứu, đó là phương pháp thu thập, xử lý
tài liệu; phương pháp phân tích, so sánh;
phương pháp thống kê; phương pháp khảo sát
thực tế; phương pháp quan sát thực địa. Từ
những phương pháp nghiên cứu này, tác giả
đã thu thập những tài liệu có liên quan tới
thực trạng phát triển doanh nghiệp nói chung,
doanh nghiệp công nghiệp nói riêng ở tỉnh
Thái Nguyên trong thời gian qua, tổng hợp và
phân tích những số liệu đặc trưng nhất, để có
những nhận xét, đánh giá khách quan, khoa
học về thực trạng phát triển doanh nghiệp
công nghiệp.
3. Kết quả nghiên cứu và thảo luận
3.1. Thành tựu phát triển các doanh nghiệp
công nghiệp trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên
Với chủ trương đa dạng hóa, khuyến khích
các thành phần kinh tế tham gia vào các
ngành kinh tế nhằm tranh thủ và phát huy tối
đa mọi nguồn lực phát triển của đất nước;
thúc đẩy tinh thần "quốc gia khởi nghiệp"
trong bối cảnh hội nhập có nhiều thời cơ,
thuận lợi cho sự phát triển; trong những năm
qua, Chính phủ và chính quyền các địa
phương đã có nhiều chính sách, thực hiện
nhiều giải pháp cải thiện môi trường đầu tư,
kinh doanh, hoàn thiện khung pháp lý, tạo
động lực cho doanh nghiệp phát triển mạnh
mẽ. Sự phát triển của các doanh nghiệp đã tạo
ra một luồng gió mới cho sự phát triển của
nền kinh tế xã hội cả nước nói chung và các
địa phương nói riêng.
Sự phát triển, chất lượng và hiệu quả của
doanh nghiệp, vai trò của doanh nghiệp đối
với sự phát triển kinh tế-xã hội của tỉnh được
đánh giá qua các tiêu chí, cụ thể:
- Số lượng doanh nghiệp.
- Số lượng lao động đang làm việc trong các
doanh nghiệp.
Nghiêm Văn Long và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 225(07): 229 - 236
Email: jst@tnu.edu.vn 231
- Vốn sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp.
- Doanh thu thuần sản xuất kinh doanh và lợi
nhuận trước thuế của doanh nghiệp.
- Tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu.
- Tổng thu nhập và thu nhập bình quân một
tháng của người lao động.
Trong những năm qua, các doanh nghiệp nói
chung, doanh nghiệp công nghiệp nói riêng đã
khẳng định được vai trò của mình trong quá
trình phát triển của tỉnh Thái Nguyên, điều này
được phản ánh rõ nét qua tiêu chí phát triển.
Các doanh nghiệp kinh doanh sản xuất trên
địa bàn tỉnh Thái Nguyên ngày càng có xu
hướng tăng lên nhanh chóng. Năm 2010, toàn
tỉnh có 1.771 doanh nghiệp, năm 2015 tăng
lên 2.052 doanh nghiệp và có 3.448 doanh
nghiệp vào năm 2018. Trong đó, có 768
doanh nghiệp hoạt động trong ngành công
nghiệp, chiếm 22,3% tổng số doanh nghiệp,
tăng gấp 1,6 lần so với năm 2010. Phân theo
nhóm ngành, công nghiệp chế biến chế tạo là
nhóm ngành có số lượng doanh nghiệp nhiều
nhất với 669 doanh nghiệp vào năm 2018,
chiếm 87,1% số doanh nghiệp trong toàn
ngành công nghiệp và có xu hướng tăng tỷ
trọng, bởi đây là nhóm có cơ cấu ngành rất đa
dạng, có sự tham gia của nhiều thành phần
kinh tế và đóng góp phần lớn vào giá trị sản
xuất công nghiệp; đứng thứ hai là nhóm
ngành khai thác với 50 doanh nghiệp, chiếm
6,5%; còn lại nhóm ngành sản xuất, phân phối
điện, khí, nước chỉ có 49 doanh nghiệp, chiếm
6,4%. Số doanh nghiệp trong các nhóm ngành
này đều có xu hướng giảm tỷ trọng. Điều
đáng chú ý là so với giai đoạn trước năm
2010, có sự xuất hiện các ngành nghề kinh
doanh mới ở các doanh nghiệp, nhất là nhóm
ngành công nghiệp chế biến chế tạo như: sản
xuất than cốc; sản xuất thuốc, hóa dược và
dược liệu; sản xuất các sản phẩm từ cao su và
plastic; sửa chữa và bảo dưỡng, lắp đặt máy;
sản xuất thiết bị điện; đặc biệt là ngành sản
xuất các sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản
phẩm quang học (bảng 1). Đây là điều kiện
quan trọng, để đẩy mạnh sự chuyển dịch cơ
cấu kinh tế, đa dạng hóa các sản phẩm công
nghiệp, nâng cao năng suất, chất lượng và
hiệu quả sản xuất kinh doanh [1], [2].
Sự hình thành và phát triển các doanh nghiệp
trên địa bàn tỉnh đã tạo ra sức hút đối với
người lao động, dẫn đến lực lượng lao động
trong các doanh nghiệp cũng có xu hướng
ngày càng tăng lên. Năm 2010, có 67.180 lao
động hoạt động trong các doanh nghiệp, đến
năm 2018 đã tăng lên 217.200 người, gấp 3,2
lần so với 2010, trung bình mỗi năm có thêm
18.000 lao động mới trong các doanh nghiệp.
Trong các ngành kinh tế, công nghiệp là
ngành có số lượng lao động nhiều nhất liên
quan đến cơ cấu ngành, tính chất công việc và
thu nhập trong lĩnh vực này với 162.068 lao
động vào năm 2018, chiếm tới 74,6% tổng số
lao động trong doanh nghiệp. Trong ngành
công nghiệp, với số lượng doanh nghiệp hoạt
động nhiều nhất, nhóm ngành công nghiệp
chế biến chế tạo cũng là ngành thu hút nhiều
lao động nhất với 155.413 lao động, chiếm tới
95,9% lao động trong doanh nghiệp công
nghiệp và 71,6% lao động trong tổng số các
doanh nghiệp và ngày càng có xu hướng tăng
lên về tỉ trọng [1], [2].
Bảng 1. Số lượng doanh nghiệp công nghiệp phân theo nhóm ngành công nghiệp giai đoạn 2010 - 2018
(Đơn vị: doanh nghiệp)
STT Tiêu chí 2010 2015 2018
1 Tổng số doanh nghiệp các ngành kinh tế 1.771 2.052 3.448
2 Trong đó, số doanh nghiệp công nghiệp 474 479 768
2.1 Công nghiệp khai thác 46 38 50
2.2 Công nghiệp chế biến, chế tạo 349 399 669
2.3 Sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước 72 29 27
2.4 Cung cấp nước, hoạt động quản lí và xử lí rác thải, nước thải 7 13 22
3 Tỷ lệ % doanh nghiệp công nghiệp so với tổng số doanh nghiệp 26,8 23,3 22,3
(Nguồn: Xử lý số liệu từ [1])
Nghiêm Văn Long và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 225(07): 229 - 236
Email: jst@tnu.edu.vn 232
Trong bối cảnh hội nhập, dòng vốn đầu tư
nước ngoài tham gia đầu tư vào các ngành
kinh tế với nhiều dự án, đặc biệt là lĩnh vực
công nghiệp đã tạo ra bước phát triển mới cho
tỉnh Thái Nguyên, làm tăng nhanh số lượng
doanh nghiệp trong khu vực này. Năm 2018,
toàn tỉnh có 108 doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài, tăng hơn 10 lần so với năm 2010.
Nhiều doanh nghiệp trong thành phần kinh tế
này có xu hướng tăng lên rất nhanh chóng từ
chỗ hầu như rất ít hoặc không có doanh nghiệp
kinh doanh ngành nghề này trong giai đoạn từ
2010 trở về trước như doanh nghiệp sản xuất
hóa chất, sản xuất hàng tiêu dùng và nhất là
công nghiệp điện tử - tin học liên quan đến dự
án đầu tư lớn của Tập đoàn Samsung với Tổ
hợp công nghệ cao Samsung tại Khu công
nghiệp Yên Bình. Hiện nay, có 47 doanh
nghiệp sản xuất sản phẩm điện tử tin học có
vốn đầu tư cả trong và ngoài nước chủ yếu sản
xuất linh kiện điện tử, phụ kiện điện thoại, máy
tính bảng... Không chỉ có vậy, khu vực có vốn
đầu tư nước ngoài cũng ngày càng thu hút số
lượng lớn lao động trong các doanh nghiệp
thuộc thành phần kinh tế này. Nếu như năm
2010, số lao động trong doanh nghiệp FDI là
2003 người, chiếm 3,0% số lao động trong
doanh nghiệp, thì đến năm 2018, chứng kiến
sự thay đổi rất lớn với các con số tương ứng là
114.569 người, chiếm 52,8%. Như vậy, có thể
thấy rõ rằng, khu vực có vốn đầu tư nước
ngoài có tác động mạnh tới cơ cấu ngành nghề
kinh doanh, cơ cấu lao động của các doanh
nghiệp của tỉnh Thái Nguyên [1], [3].
Không chỉ tăng nhanh về số lượng, các doanh
nghiệp còn cho thấy hiệu quả sản xuất kinh
doanh ngày càng cao, tạo ra động lực quan
trọng thúc đẩy sự phát triển kinh tế của tỉnh
với tốc độ cao. Năm 2018, tổng vốn sản xuất
kinh doanh của các doanh nghiệp đạt
398.630,5 tỉ đồng, tăng gấp 14,7 lần so với
năm 2010 (27.084,0 tỉ đồng), trung bình mỗi
năm tăng thêm 46.443,3 tỉ đồng. Tốc độ tăng
vốn sản xuất kinh doanh tăng nhanh hơn tốc
độ tăng số lượng doanh nghiệp nên quy mô
doanh nghiệp trung bình đang có xu hướng
tăng lên nhanh chóng. Hiện nay, các doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chiếm tỷ lệ
lớn nhất trong tổng số vốn sản xuất kinh
doanh. Năm 2018, khu vực này chiếm 66,6%
tổng số vốn tương ứng với 265.396,1 tỷ đồng,
và ngày càng có xu hướng tăng nhanh về tỷ
trọng khi năm 2010, khu vực này chỉ chiếm
gần 3,0%. Đứng thứ hai là các doanh nghiệp
ngoài Nhà nước với 110.377,7 tỷ đồng, chiếm
27,7%; và thấp nhất là các doanh nghiệp Nhà
nước tương ứng là 22.856,7 tỷ đồng chiếm
5,7%. Nguồn vốn bình quân 1 doanh nghiệp
năm 2018 là 115,6 tỷ đồng tăng 7,6 lần so với
năm 2010 (15,3 tỷ đồng). Trong đó, nguồn
vốn sản xuất kinh doanh bình quân của khu
vực doanh nghiệp Nhà nước là 788,2 tỷ
đồng/doanh nghiệp, doanh nghiệp ngoài Nhà
nước là 33,3 tỷ đồng/doanh nghiệp, doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là 2457,4 tỷ
đồng/doanh nghiệp [1], [4].
Công nghiệp là ngành kinh tế có vốn sản xuất
kinh doanh lớn nhất, tập trung chủ yếu là nhóm
ngành công nghiệp chế biến chế tạo. Năm
2018, vốn sản xuất của ngành công nghiệp đạt
341.329,3 tỷ đồng, chiếm 85,6% tổng vốn sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp, trong đó
công nghiệp chế biến chế tạo là 323.234,6 tỷ
đồng, chiếm 81,1% tổng số vốn của doanh
nghiệp là chiếm tới 94,7% tổng số vốn của
doanh nghiệp công nghiệp. Vốn sản xuất kinh
doanh của nhóm ngành này có sự đóng góp rất
lớn của ngành công nghiệp điện tử tin học với
251.160,2 tỷ đồng từ chỗ chỉ đạt 3,6 tỷ đồng
vào năm 2010 liên quan tới các dự án lớn của
nước ngoài đầu tư vào sản xuất mà trực tiếp là
tập đoàn Samsung [1].
Hiệu quả sản xuất của các doanh nghiệp được
phản ánh qua doanh thu và lợi nhuận kinh
doanh. Là một ngành giữ vai trò rất quan
trọng đối với sự phát triển kinh tế xã hội tỉnh
Thái Nguyên, thu hút phần lớn lao động trong
các doanh nghiệp của các ngành kinh tế và
cũng là ngành có vốn sản xuất kinh doanh
chiếm tỷ lệ lớn nhất, ngành công luôn chứng
minh được vai trò và hiệu quả kinh doanh sản
xuất của mình trong khối doanh nghiệp đối
với sự phát triển của địa phương. Doanh thu
thuần kinh doanh của các doanh nghiệp ngày
càng có xu hướng tăng nhanh từ 23.439,2 tỷ
đồng năm 2010, tăng mạnh lên 438.974,2 tỷ
đồng năm 2015 và đạt 688.034,5 tỷ đồng vào
năm 2018, trung bình mỗi năm doanh thu
tăng thêm 83.074,4 tỷ đồng. Số liệu chi tiết
được thể hiện ở bảng 2.
Nghiêm Văn Long và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 225(07): 229 - 236
Email: jst@tnu.edu.vn 233
Bảng 2. Doanh thu thuần sản xuất kinh doanh và lợi nhuận trước thuế của các doanh nghiệp công nghiệp
đang hoạt động phân theo nhóm ngành công nghiệp trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên
(Đơn vị: tỷ đồng)
TT Tiêu chí
2010 2018
Doanh
thu
Lợi
nhuận
Doanh
thu
Lợi
nhuận
1 Tổng số doanh nghiệp 63.076,2 898,3 774.850,4 65.947,0
2 Doanh nghiệp công nghiệp 23.439,2 680,7 688.034,5 65.446,2
2.1 Công nghiệp khai thác 840,2 56,5 3.171,7 -105,0
2.2 Công nghiệp chế biến, chế tạo 20.680,4 610,3 674.020,7 65.272
2.3 Sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước 1.759,6 -2,6 9.602,2 96,9
2.4 Cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lí rác thải, nước thải 159,0 16,5 1.239,9 182,3
3 Tỷ lệ % doanh nghiệp công nghiệp so với tổng số doanh nghiệp 37,2 75,8 88,8 99,2
(Nguồn: Xử lý, tính toán từ [1])
Sự hình thành và phát triển của Tổ hợp công
nghệ cao Samsung trong sản xuất các linh
kiện điện tử, điện thoại, máy tính bảng liên
quan đến công nghiệp điện tử tin học là một
bước ngoặt lớn trong thu hút đầu tư nước
ngoài, trong sự phát triển công nghiệp của
Thái Nguyên. Công ty TNHH Samsung
Electronics Thái Nguyên bắt đầu đi vào hoạt
động ổn định và cho sản phẩm từ năm 2014
đã làm tăng đột biến doanh thu và giá trị sản
xuất của ngành công nghiệp. Có thể nhận thấy
rằng, dự án Samsung có tác động rất lớn đến
ngành công nghiệp của tỉnh, ảnh hưởng lớn
đến cơ cấu ngành, cơ cấu lao động, cơ cấu giá
trị sản xuất, hiệu quả sản xuất của ngành nói
riêng và nền kinh tế Thái Nguyên nói chung
trong thời gian vừa qua [1].
Cùng với doanh thu, lợi nhuận trước thuế của
các doanh nghiệp công nghiệp cũng không
ngừng tăng lên, một lần nữa khẳng định sự
phát triển của các doanh nghiệp. Năm 2018,
lợi nhuận của các doanh nghiệp sản xuất công
nghiệp đạt 65.446,2 tỷ đồng, chiếm tới 99,2%
lợi nhuận của các doanh nghiệp trên địa bàn
tỉnh. Trong đó, nhóm ngành công nghiệp chế
biến chế tạo một lần nữa khẳng định được ưu
thế tuyệt đối của mình với 65.272 tỷ đồng,
chiếm 99,7% lợi nhuận của ngành công
nghiệp. Tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu đạt
9,7%, trong khi nhóm ngành công nghiệp
khai thác -3,3%, nhóm ngành sản xuất và
phân phối điện, khí, nước chỉ đạt 2,6% [1].
Bên cạnh những hiệu quả về kinh tế, sự phát
triển các doanh nghiệp còn tạo ra hiệu quả về
mặt xã hội khi tạo ra khối lượng việc làm cho
người lao động với nguồn thu nhập tương đối
ổn định giúp người lao động có thể cải thiện
và nâng cao chất lượng cuộc sống. Trong các
giai đoạn trước của sự phát triển, các doanh
nghiệp ngoài Nhà nước với sự phong phú về
nguồn lực và loại hình sản xuất chiếm tỷ lệ
lớn trong tổng thu nhập, năm 2010, tổng thu
nhập của khối doanh nghiệp ngoài Nhà nước
đạt 1.545,2 tỷ đồng, chiếm 55,1% thu nhập
của doanh nghiệp, thu nhập bình quân đầu
người trên 2,7 triệu đồng/người/tháng. Lao
động trong các doanh nghiệp Nhà nước có
đặc điểm tương đối ổn định, thu nhập bình
quân trong khu vực này đạt 5,6 triệu
đồng/người/tháng. Tuy nhiên, với sự xuất
hiện của các doanh nghiệp nước ngoài trong
những năm gần đây, mức thu nhập đã có sự
chênh lệch tương đối lớn giữa các thành phần
kinh tế. Năm 2017, các doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài có tổng thu nhập 13.343,6
tỷ đồng, chiếm 61,8% tổng thu nhập của
doanh nghiệp, thu nhập bình quân đạt 10,3
triệu đồng/người/tháng; các doanh nghiệp
ngoài Nhà nước các con số tương ứng là
6.373,4 tỷ đồng, 6,4 triệu đồng/người/tháng;
doanh nghiệp Nhà nước là 1.865,4 tỷ đồng,
9,7 triệu đồng/người/tháng.
Ngành công nghiệp với vai trò rất quan trọng
của nhóm ngành công nghiệp chế biến chế tạo
Nghiêm Văn Long và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 225(07): 229 - 236
Email: jst@tnu.edu.vn 234
vẫn chứng minh được hiệu quả và sức hút lớn
với người lao động khi có thu nhập tương đối
cao. Năm 2018, tổng thu nhập của các doanh
nghiệp công nghiệp là 17.708,2 tỷ đồng, chiếm
82,0% thu nhập của doanh nghiệp, thu nhập
bình quân gần 8,2 triệu đồng/người/tháng.
Trong đó nhóm ngành chế biến chế tạo tổng thu
nhập là 17.028,5 tỷ đồng, thu nhập bình quân
9,6 triệu đồng/người/tháng, cao hơn trung bình
toàn ngành [1], [4].
3.2. Các nhân tố ảnh hưởng tới sự phát triển
của doanh nghiệp công nghiệp
Cũng giống như các hình thức tổ chức sản
xuất công nghiệp khác, sự phát triển và phân
bố các doanh nghiệp cũng chịu ảnh hưởng
của vị trí địa lí, nhóm nhân tố tự nhiên và
nhóm nhân tố kinh tế xã hội trong mối quan
hệ tác động qua lại giữa các nhân tố đó.
Thái Nguyên là một trung tâm kinh tế, chính
trị, văn hóa, xã hội của vùng Trung du và
miền núi phía Bắc, có nhiều điều kiện thuận
lợi cho sự phát triển của doanh nghiệp công
nghiệp. Vị trí địa lí thuận lợi, khả năng kết
nối với các địa phương trong vùng, với vùng
đồng bằng sông Hồng, vùng kinh tế trọng
điểm phía Bắc và đặc biệt là thủ đô Hà Nội dễ
dàng. Tài nguyên thiên nhiên khá phong phú,
đảm bảo các yếu tố đầu vào cung cấp cho các
ngành công nghiệp phát triển đặc biệt là
khoáng sản; quỹ đất dành cho phát triển công
nghiệp có khả năng mở rộng, giá thuê đất là
một lợi thế cạnh tranh so với nhiều địa
phương có thế mạnh khác. Về điều kiện kinh
tế - xã hội, Thái Nguyên là địa phương có
nguồn lao động dồi dào, chất lượng lao động
ngày càng được nâng cao với ưu thế là một
trung tâm giáo dục - đào tạo lớn của vùng; cơ
sở hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật ngày càng
được hoàn thiện, hiện đại, đặc biệt là hạ tầng
giao thông và khả năng cung cấp điện, nước
phục vụ sản xuất; tỉnh đã và đang thực hiện
những chính sách khuyến khích, hỗ trợ các
doanh nghiệp phát triển. Đây là những yếu tố
quan trọng góp phần thúc đẩy sự phát triển
của các doanh nghiệp công nghiệp.
Tuy nhiên, sự phát triển các doanh nghiệp
công nghiệp trên địa bàn tỉnh còn gặp những
khó khăn nhất định. Nguồn tài nguyên thiên
nhiên đang bị khai thác ở mức độ cao, có thể
dẫn tới nguy cơ cạn kiệt trong tương lai, ảnh
hưởng đến khả năng cung cấp nguyên nhiên
liệu cho các hoạt động sản xuất công nghiệp.
Thiếu nhiều lao động có trình độ chuyên môn
kỹ thuật, chất lượng cao và có sự phân hóa
giữa các địa phương. Mạng lưới cơ sở hạ tầng,
cơ sở vật chất kỹ thuật chưa đáp ứng được nhu
cầu của sự phát triển ở nhiều địa phương. Bên
cạnh đó là sự cạnh tranh về vốn, lao động, thị
trường của những địa phương có thế mạnh
trong phát triển công nghiệp, đặc biệt là các
tỉnh thuộc đồng bằng sông Hồng [5].
3.3. Một số tồn tại, hạn chế
Trong quá trình hình thành và phát triển, các
doanh nghiệp công nghiệp của tỉnh còn bộc lộ
nhiều hạn chế và bất cập:
- Khung pháp lý về quản lý doanh nghiệp sau
đăng ký thành lập chưa được hoàn thiện. Sự
phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong
công tác quản lý nhà nước đối với doanh
nghiệp chưa thực sự hiệu quả; ý thức tuân thủ
và chấp hành quy định pháp luật của một bộ
phận doanh nghiệp tham gia vào thị trường
còn kém. Cùng với sự tăng trưởng nhanh về
số lượng doanh nghiệp qua từng năm thì các
hành vi vi phạm pháp luật của doanh nghiệp
cũng tăng lên, cả về số lượng và mức độ vi
phạm. Điều này khiến cho việc phối hợp và
xử lý vi phạm của các cơ quan quản lý nhà
nước gặp nhiều khó khăn.
- Mặc dù số lượng doanh nghiệp có xu hướng
tăng nhanh nhưng phần lớn các doanh nghiệp
trên địa bàn tỉnh có quy mô nhỏ và rất nhỏ.
Theo tiêu chí phân loại doanh nghiệp được
quy định tại Nghị định 56/2009/NĐ-CP của
Chính phủ ngày 30/6/2009, toàn tỉnh chỉ có
107 doanh nghiệp lớn, chiếm 3,1%, 3341
doanh nghiệp vừa và nhỏ, chiếm 96,9%
(trong đó doanh nghiệp vừa chiếm 2,3%,
doanh nghiệp nhỏ chiếm 36%, còn lại là
doanh nghiệp rất nhỏ chiếm 58,6%). Theo
quy mô lao động, có tới 57,3% doanh nghiệp
có quy mô dưới 10 người tương ứng với 1975
doanh nghiệp và chỉ có 2,0% số doanh nghiệp
có quy mô trên 300 người. Theo quy mô
Nghiêm Văn Long và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 225(07): 229 - 236
Email: jst@tnu.edu.vn 235
nguồn vốn, có 50,1% doanh nghiệp có quy
mô vốn dưới 5 tỷ đồng và chỉ có 9,5% doanh
nghiệp có quy mô trên 50 tỷ đồng. Điều đó
cho thấy, doanh nghiệp của tỉnh Thái Nguyên
có quy mô rất nhỏ bé, chủ yếu là các doanh
nghiệp ngoài Nhà nước nên sức cạnh tranh
tương đối yếu, việc huy động vốn kinh doanh
gặp nhiều khó khăn nên thiếu vốn để đầu tư,
mở rộng sản xuất kinh doanh.
- Nguồn vốn đầu tư có sự phân hóa lớn dẫn
đến sự phát triển không đồng đều giữa các
khu vực doanh nghiệp và các ngành kinh tế.
Các doanh nghiệp nước ngoài với những dự
án đầu tư quy mô lớn, khả năng cạnh tranh
cao, có nhiều ưu thế so với doanh nghiệp
trong nước, điều này dẫn tới sự phụ thuộc của
ngành công nghiệp địa phương vào khu vực
này, đòi hỏi phải có những giải pháp hiệu
quả, hợp lý nhằm đảm bảo cân bằng lợi ích
giữa các bên, tạo sự phát triển bền vững.
3.4. Giải pháp phát triển các doanh nghiệp
công nghiệp
Để phát huy được tối đa các nguồn lực cho sự
phát triển, nâng cao hiệu quả hoạt động của
các doanh nghiệp, khẳng định được vị trí và
vai trò của các doanh nghiệp đối với sự phát
triển kinh tế - xã hội của tỉnh, chính quyền địa
phương cũng như các doanh nghiệp cần thực
hiện đồng bộ và hiệu quả các giải pháp trong
thời gian tới.
- Khai thác tốt lợi thế về vị trí địa lí của địa
phương để tăng cường sự liên kết với các
doanh nghiệp ở những vùng kinh tế phát triển,
tạo cơ hội mở rộng thị trường, hợp tác kinh
doanh sản xuất và hỗ trợ phát triển từ nhiều
nguồn lực khác nhau.
- Tăng cường sự liên kết hợp tác phát triển
của các doanh nghiệp, hình thành các nhóm
doanh nghiệp cùng kinh doanh, hoạt động
cùng ngành nghề dưới các hình thức liên
doanh nhằm tăng cường các nguồn lực cho sự
phát triển, đồng thời phát huy được vai trò và
thế mạnh của mình.
- Chủ động và liên kết chặt chẽ với nguồn
nguyên, nhiên, vật liệu đầu vào phục vụ cho
các hoạt động sản xuất của doanh nghiệp.
- Đẩy mạnh liên kết với các cơ sở đào tạo với
nhiều loại hình khác nhau để đào tạo và nâng
cao trình độ cho nguồn lao động trong các
doanh nghiệp. Có chế độ thu hút và đãi ngộ
hợp lí với người lao động có chất lượng cao.
- Tập trung phát triển nguồn nhân lực cho các
doanh nghiệp, trong đó tập trung nâng cao
năng lực quản trị doanh nghiệp nhằm nâng
cao chất lượng và hiệu quả quản lý trong hoạt
động kinh doanh, sản xuất.
- Đầu tư hoàn thiện cơ sở hạ tầng, cơ sở vật
chất kỹ thuật phục vụ cho hoạt động kinh
doanh sản xuất của doanh nghiệp. Tăng
cường khả năng kết nối với cơ sở hạ tầng
chung của địa phương.
- Tận dụng tối đa những nguồn lực, phát huy
tốt những tiềm năng về vốn, nhân lực, thị
trường... để nâng cao năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp. Tăng cường thu hút đầu tư sản
xuất từ nhiều thành phần khác nhau.
- Chủ động hội nhập kinh tế trong và ngoài
nước, nắm bắt nhu cầu của thị trường, nắm
bắt những dự báo của tình hình phát triển kinh
tế xã hội của địa phương, trong nước và nước
ngoài, dựa vào tiềm năng của doanh nghiệp
để đưa ra chiến lược kinh doanh phù hợp
trong việc lựa chọn phân khúc thị trường, sản
phẩm kinh doanh.
- Tranh thủ khai thác có hiệu quả những nguồn
lực hỗ trợ, thúc đẩy cho sự phát triển như: các
giải pháp hỗ trợ từ nhà đầu tư trong và ngoài
nước; các chính sách hỗ trợ của Nhà nước,
chính quyền địa phương về vốn, tài chính,
khoa học công nghệ, quản trị, kinh doanh.
- Các doanh nghiệp cần minh bạch hoạt động
kinh doanh sản xuất của mình và báo cáo tài
chính theo đúng quy định [2], [6].
- Đối với chính quyền địa phương: cần thực
hiện các nhóm giải pháp nhằm tạo môi trường
kinh doanh thuận lợi cho các doanh nghiệp,
hỗ trợ các doanh nghiệp có điều kiện thuận
lợi để phát triển sản xuất, cụ thể:
+ Tiếp tục hoàn thiện thể chế, chính sách nhằm
tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp khi tham gia
kinh doanh sản xuất, tham gia vào thị trường
trong và ngoài nước. Hoàn thiện khung pháp lý
và phạm vi hỗ trợ doanh nghiệp phát triển. Thúc
đẩy sự phát triển kinh tế tư nhân, nâng cao năng
lực sản xuất của doanh nghiệp.
Nghiêm Văn Long và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 225(07): 229 - 236
Email: jst@tnu.edu.vn 236
+ Hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận nguồn tài
chính, tín dụng. Tăng cường điều tra, khảo
sát, nắm bắt thông tin, phân tích đưa ra dự
báo tình hình phát triển kinh tế xã hội của địa
phương nhằm phục vụ cho công tác lập kế
hoạch vốn và phục vụ đầu tư tín dụng phát
triển doanh nghiệp. Tổ chức các hoạt động
nhằm thông tin, tuyên truyền, phổ biến tới
doanh nghiệp các cơ chế, chính sách liên quan
đến hoạt động của ngân hàng. Các tổ chức tín
dụng tiếp tục cải tiến phương thức cho vay
theo hướng đơn giản hóa các thủ tục phù hợp
quy định của pháp luật, điều kiện và khả năng
tiếp cận của doanh nghiệp. Triển khai kịp
thời, có hiệu quả các chính sách ưu đãi về
thuế cho doanh nghiệp.
+ Hỗ trợ khoa học kỹ thuật, công nghệ cho
các doanh nghiệp trong nước. Khuyến khích
các doanh nghiệp đầu tư nghiên cứu, ứng
dụng và chuyển giao công nghệ. Huy động
các nguồn vốn để triển khai thực hiện có hiệu
quả các cơ chế, chính sách khuyến khích
doanh nghiệp đầu tư nghiên cứu, ứng dụng
tiến bộ khoa học, đổi mới công nghệ vào sản
xuất kinh doanh. Tiếp cận và tạo điều kiện
cho doanh nghiệp tham gia các chương trình
hỗ trợ nghiên cứu, phát triển công nghệ sản
xuất, đăng ký và bảo hộ, chuyển giao quyền
sở hữu trí tuệ, áp dụng hệ thống quản lí chất
lượng, xây dựng và đăng ký thương hiệu sản
phẩm. Thành lập quỹ phát triển khoa học
công nghệ của tỉnh nhằm hỗ trợ, khuyến
khích các doanh nghiệp phát triển khoa học
công nghệ.
+ Cung cấp thông tin kịp thời hỗ trợ cho các
doanh nghiệp; đẩy mạnh hoạt động xúc tiến
thương mại, mở rộng thị trường, hội nhập
quốc tế [2], [6].
4. Kết luận
Với những tiềm năng phong phú sẵn có, trong
bối cảnh hội nhập trong thời đại cách mạng
công nghiệp 4.0, cùng với chính sách khuyến
khích phát triển của địa phương, các doanh
nghiệp có nhiều cơ hội để phát triển. Trong
những năm qua, các doanh nghiệp trên địa
bàn tỉnh Thái Nguyên đã có sự phát triển
nhanh chóng, đặc biệt là các doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài trong ngành công
nghiệp. Sự tăng nhanh về số lượng, quy mô
vốn đầu tư, các doanh nghiệp công nghiệp đã
tạo ra hiệu quả về kinh tế khi góp phần làm
tăng giá trị sản xuất công nghiệp, tăng doanh
thu, lợi nhuận, đóng góp vào nguồn ngân sách
địa phương. Bên cạnh đó là hiệu quả về mặt
xã hội khi giải quyết việc làm cho người lao
động, tăng thu nhập, giúp cải thiện và nâng
cao chất lượng cuộc sống của người lao động.
Tuy nhiên, phần lớn các doanh nghiệp hiện
nay là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, nguồn
vốn đầu tư hạn chế, khả năng cạnh tranh chưa
cao, chịu tác động và ảnh hưởng nhiều của
các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Những vấn đề này đặt ra trong thời gian tới
cần có những giải pháp đồng bộ, kịp thời và
hiệu quả để nâng cao hiệu quả phát triển
doanh nghiệp, tiếp tục phát huy thế mạnh và
khắc phục những hạn chế tồn tại nhằm cải
thiện chất lượng của các doanh nghiệp.
TÀI LIỆU THAM KHẢO/ REFERENCES
[1]. Thai Nguyen Statistical Office, Statistical
Yearbook of Thai Nguyên Province 2016,
2018, Statistical Publishing House, Thái
Nguyên, 2017, 2019.
[2]. Department of Planning and Investment of
Thai Nguyen Province, Development Report
of small and medium enterprise in Thai
Nguyen province to December 31, 2018, Thai
Nguyen, 2019.
[3]. T. H. Nguyen, “Foreign direct investment and
impacts on the economy of Thai Nguyen
province,” Finance Magazine, vol. 2, no.
715, pp. 100-104, October 2019.
[4]. B. D. Vu, and T. H. H. Ngo, "Development
status of small and medium enterprise in the
Thai Nguyen city," post on August 4, 2019.
[Online]. Available:
nghien-cuu-trao-doi/hien-trang-phat-trien-cua-
doanh-nghiep-nho-va-vua-tren-dia-ban-tp-thai-
nguyen-310823.html. [Accessed March 1, 2020].
[5]. T. D. Lam, "Foreign direct invesment in Viet
Nam: New thinking and some
recommendation," Finance Magazine, vol. 1,
no. 698, pp. 43-45, February 2019.
[6]. Thai Nguyen People's Committee, Results of
Economic Census in 2017 of Thai Nguyen
Province, Thai Nguyen, 2018.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- thuc_trang_phat_trien_doanh_nghiep_cong_nghiep_tren_dia_ban.pdf