Các bậc phụ huynh bên cạnh việc tạo điều
kiện để các em sử dụng Internet vào mục đích
học tập, thư giãn, đồng thời cũng cần hoạch định
thời gian sử dụng để các em tránh sa đà vào
Internet. Thêm vào đó, các em học sinh của
trường cũng cần được trang bị kiến thức về các
tác hại của việc sử dụng Internet kéo dài, có thể
khiến các em bị lệ thuộc vào nó.
Cần có những nghiên cứu chuyên sâu hơn,
kéo dài hơn và có thang đo cụ thể hơn để có
thể kết luận mối quan hệ nhân quả giữa việc
sử dụng Internet từ 20 giờ/tuần trở lên với các
yếu tố liên quan. Việc so sánh và lấy mẫu ở
quần thể lớn hơn hoặc nhiều nhóm học sinh
hơn (có thể có cả trường công lập và trường tư
thục) cũng sẽ giúp vẽ bức tranh hoàn chỉnh về
thực trạng sử dụng Internet hiện nay ở đối
tượng học sinh tại TP.HCM .
Lời cảm ơn: Nhóm nghiên cứu xin chân thành cám ơn sự hỗ
trợ của Ban giám hiệu và Đoàn thanh niên trường THPT
chuyên Trần Đại Nghĩa đã giúp cho nghiên cứu được thành
công.Bên cạnh đó, nhóm nghiên cứu cũng gửi lời cám ơn đến
Ths.Bs.Võ Hữu Thuận (Viện Y tế công cộng TP.HCM) đã góp
ý để bài báo được hoàn thiện
7 trang |
Chia sẻ: huongthu9 | Lượt xem: 753 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Thực trạng sử dụng internet của học sinh cấp 3, trường chuyên Trần Đại Nghĩa,TP. Hồ Chí Minh, năm 2012, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 755
THỰC TRẠNG SỬ DỤNG INTERNET CỦA HỌC SINH CẤP 3,
TRƯỜNG CHUYÊN TRẦN ĐẠI NGHĨA, TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2012
Vũ Anh Kiệt*, Huỳnh Giao**, Nguyễn Thành Luân**
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Nghiên cứu được thực hiện nhằm khảo sát thực trạng sử dụng Internet ở một trường chuyên
TP.HCM, nơi khuyến khích học sinh ứng dụng các tiện ích Internet vào học tập.
Mục tiêu nghiên cứu: Xác định tỷ lệ và mục đích sử dụng Internet của học sinh trường THPT chuyên
Trần Đại Nghĩa, và tìm mối liên quan giữa việc sử dụng từ 20 giờ/tuần trở lên với các vấn đề về sức khỏe thể
chất và tinh thần.
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang toàn bộ trên 829 học sinh, sử dụng bộ câu hỏi tự điền kết
hợp với thời gian đo là giờ/tuần. Các kết quả được thống kê và tìm các mối liên quan thông qua phép kiểm định
chi bình phương.
Kết quả nghiên cứu: 94,5 % các em sử dụng Internet, và có gần 50% sử dụng từ 20 giờ/tuần trở lên. Mục
đích các em sử dụng khá đa dạng, và có đến gần 60% các em có các vấn đề về sức khỏe trong thời gian sử dụng.
Ngoài ra, nghiên cứu cũng tìm thấy mối liên quan với các vấn đề sức khỏe thể chất và tinh thần.
Kết luận: Các bậc phụ huynh cần quan tâm, giám sát việc sử dụng của con mình hơn để giúp các em tránh
sa đà Internet, và nhà trường cần có chương trình về tác hại của việc lạm dụng Internet để cảnh báo học sinh
tránh sa đà vào Internet.
Từ khóa: Internet
ABSTRACT
SITUATION OF INTERNET USE OF STUDENTS IN TRAN DAI NGHIA HIGH SCHOOL
FOR THE GIFTED, HO CHI MINH CITY, 2012
Vu Anh Kiet, Huynh Giao, Nguyen Thanh Luan
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 6 ‐ 2014: 755 ‐ 761
Background: The study was carried out to explore the actual Internet use at a specialized school in HCMC,
which encourages students to apply Internet for studying.
Objectives: Determine purposes and rate of using Internet of Tran Dai Nghia high school students, and
examine the relations between the use Internet of 20 hours and more per week with the physical and mental
health.
Method: A cross‐sectional study on 829 students, using questionnaire combined with the time scale hour
per week. The data were statistic and examined the correlations by chi‐squared test.
Results: 94.5% of students used Internet, and approximately 50% of them accessed Internet 20 hours and
more per week. Activities, which they joined, are varied. There were nearly 60% of Internet users who have health
problems during using Internet. In addition, the survey found the associations between Internet use and physical
and mental health among school students.
Conclusion: Parents need caring and monitoring the Internet use of their children to help them avoid
abusing Internet, and the school should have a program to introduce to harm of abusing Internet in order to warn
* Viện Y tế Công cộng thành phố Hồ Chí Minh ** Đại học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh
Tác giả liên lạc: CN. Vũ Anh Kiệt ĐT: 0962762479 Email: vukiet1990@yahoo.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 756
students of misusing Internet.
Keywords: Internet
ĐẶT VẤN ĐỀ
Internet đã và đang trở thành một công cụ
hữu hiệu nhất để tiếp cận nguồn tri thức của
nhân loại. Tuy nhiên, việc lạm dụng Internet có
thể dẫn đến tình trạng nghiện Internet. Young
(1996) là người đầu tiên đề xuất các khái niệm về
nghiện Internet(4): sử dụng Intetnet trên 40
giờ/tuần. Với sự phát triển nhanh chóng của
máy vi tính, điện thoại thông minh và cả
Internet, một nghiên cứu trên đối tượng học sinh
cấp 3 tại Đài Loan cho rằng ngưỡng nghiện
Internet là từ 20 giờ/tuần trở lên.
Tại Việt Nam, chưa có một nghiên cứu nào
về vấn đề nghiện Internet và thời lượng sử dụng
Internet. Tuy nhiên, bệnh viện tâm thần trung
ương 2 đã ghi nhận có các trường hợp rối loạn
tâm thần và hành vi liên quan đến sử dụng
Internet(1). Theo Trung tâm Internet Việt Nam
(VNNIC), tỷ lệ dân số sử dụng Internet lên tới
35,29% tính đến tháng 3 năm 2012(2). Theo điều
tra quốc gia năm 2010 trên 10.000 thanh thiếu
niên Việt Nam (từ 14 đến 25) cho thấy có đến
trên 61% có sử dụng Internet, và trung bình sử
dụng hơn 1 tiếng mỗi ngày. Tuy nhiên do cuộc
khảo sát ở nhiều vùng miền khác nhau nên thời
gian sử dụng Internet trung bình 1 tiếng mỗi
ngày chưa phản ánh đúng tình hình sử dụng
Internet ở thanh thiếu niên thành thị, nơi có
nhiều điều kiện tiếp cận Internet hơn.
Việc ứng dụng Internet vào học tập luôn
được ngành giáo dục thành phố Hồ Chí Minh
khuyến khích, đặc biệt đối vớihọc sinh cấp 3 tại
những trường chuyên. Tuy nhiên, việc sử dụng
Internet ngoài mục đích học tập và thiếu kiểm
soát có thể ảnh hưởng đến thời gian học tập, sức
khỏe cả về thể chất và tâm thần. Do đó, chúng
tôi thực hiện một cuộc điều tra trên đối tượng
học sinh cấp 3 trường chuyên Trần Đại Nghĩa
nhằm xác định tỷ lệ học sinh sử dụng Internet và
xác định mối liên quan giữa việc sử dụng
Internet từ 20 giờ/tuần trở lên (ngưỡng gây
nghiện) với một số yếu tố liên quan đến sức
khỏe thể chất và tinh thần.
Mục tiêu
Xác định tỷ lệ sử dụng Internet, mục đích sử
dụng và các mối liên quan giữa việc sử dụng
Internet từ 20 giờ/tuần trở lên với các yếu tố sức
khỏe thể chất và tinh thần ở học sinh cấp 3
trường chuyên Trần Đại Nghĩa.
ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu cắt ngang mô tả trên toàn bộ học
sinh cấp 3 trường THPT chuyên Trần Đại Nghĩa
được tiến thành vào tháng 5 năm 2012, thời điểm
mà các em đã xong kỳ thi học kỳ và đang chuẩn
bị nghỉ hè để gia tăng tỷ lệ tham gia nghiên cứu.
Thông tin được thu thập bao gồm các thông
tin về tuổi, lớp, mục đích sử dụng, thời gian sử
dụng Internet (tính theo giờ/tuần), các ảnh
hưởng về thể chất và tinh thần xảy ra trong thời
gian sử dụng Internet. Học sinh được xác định
sử dụng Internet thông qua việc đánh dấu vào ô
“có sử dụng Internet” đồng thời có ghi thời gian
sử dụng vào các hoạt động trên Internet tương
ứng (nếu có sử dụng). Các vấn đề về sức khỏe
thể chất và tinh thần được xác định dựa trên các
tài liệu tham khảo và trải nghiệm thực tế của
nhóm nghiên cứu. Tuy nhiên, nghiên cứu chỉ
đơn thuần định nghĩa các biến này định tính mà
chưa có 1 thang đo lường chuyên biệt. Riêng với
thời gian sử dụng Internet, nghiên cứu đưa ra
các hoạt động và đối tượng tham gia tự điền thời
gian sử dụng Internet trung bình vào các hoạt
động này, sau đó đối tượng tham gia tự ghi lại
tổng thời gian trung bình sử dụng Internet trong
một tuần. Các phiếu khảo sát không hợp lệ sẽ là
phiếu có tổng thời gian sử dụng lớn hơn 100
giờ/tuần hoặc có thời gian cho một hoạt động
trên Internet lớn hơn tổng thời gian sử dụng.
Chúng tôi sử dụng bộ câu hỏi tự điền có
nhiều lựa chọn để thu thập thông tin. Các điều
tra viên đã qua tập huấn sẽ đến từng lớp trao đổi
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 757
về mục đích nghiên cứu và cách sử dụng bộ câu
hỏi. Các thông tin sẽ được lọc và mã hóa lại,
nhập liệu bằng phần mềm Epidata 3.1, xử lý số
liệu bằng R (package epicalc). Số liệu được thống
kê mô tả bằng tần số, tỉ lệ phần trăm; xác định
mối liên quan bằng phép kiểm định chi bình
phương và mối tương quan bằng tỷ lệ nguy cơ
hiện hành (PR). Các thông tin nhận dạng cá
nhân được bảo mật và điều này đã được thông
báo đến đối tượng tham gia trước khi thu thập
số liệu.
KẾT QUẢ
Bảng 1. Các đặc tính của mẫu theo giới, khối lớp, học
lực (n=829)
Đặc tính Tần số (%)
Giới Nữ 516 (62,2)
Nam 313 (37,8)
Khối lớp Lớp 10 335 (40,4)
Lớp 11 272 (32,8)
Lớp 12 222 (26,8)
Học lực Giỏi 678 (81,8)
Khá 140 (16,9)
Kết quả nghiên cứu thu được 974 phiếu (đủ
100% học sinh toàn trường theo số liệu phòng
đào tạo), sau khi sàng lọc chỉ còn 829 phiếu hợp
lệ (đạt 85,1%) trong đó tỷ lệ số học sinh nam và
nữ, học sinh ở các khối lớp đảm bảo đúng tỷ lệ
học sinh hiện có của trường trong năm học này.
Bảng 2. Các đặc tính của mẫu theo thời gian sử dụng
Internet (n=829)
Đặc tính Tần số (%)
Sử dụng Internet 783 (94,5)
Thời gian sử dụng < 10 giờ 234 (28,3)
10 - 19 giờ 232 (28,0)
20 – 29 giờ 132 (16,0)
30 – 39 giờ 97 (11,7)
40 – 49 giờ 50 (6,0)
>=50 - < 100 giờ 83 (10,0)
Tỷ lệ học sinh sử dụng Internet là 94,5%,
trong đó có đến hơn 40% học sinh sử dụng ở
mức từ 20 giờ trở lên trong một tuần, và 16% sử
dụng từ 40 giờ/tuần trở lên.
Biểu đồ 1.Mục đích sử dụng Internet (n=783).
Đối tượng tham gia sử dụng Internet vào
mục đích học tập chiếm tỷ lệ cao nhất (87,6%), kế
đến là các hoạt động giải trí như nghe nhạc, xem
phim, trò chuyện trên mạng, mạng xã hội (từ
79,7% – 87%). Các hoạt động giải trí khác như trò
chơi trực tuyến, đọc truyện chiếm tỷ lệ cũng khá
cao (lần lượt 48,5% và 45,2%).
0
10
20
30
40
50
60
70
80
90
100
Tìm
thông
tin học
tập
Nghe
nhạc
Đọc
tin tức
Xem
phim,
video
Chat,
trò
chuyện
Mạng
xã hội
Chơi
game
Đọc
truyện
Diễn
đàn
Khác
87,6 87 86,8 82,6 81,6 79,7
48,5 45,2
28,1
4,1
%
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 758
Biểu đồ 2. Thời gian trung bình dành cho các hoạt động trên Internet (n=783).
Nếu mục đích học tập, đọc tin chiếm tỷ lệ
cao nhất thì thời gian dành cho các hoạt động
này lại khá thấp (lần lượt 4,3 và 3,6 giờ/tuần)
trong khi thời gian giành cho các hoạt động giải
trí như mạng xã hội, nghe nhạc lại cao gần gấp
đôi (lần lượt 7,8 và 7,1 giờ/tuần).
Biểu đồ 3. Những vấn đề sức khoẻ thể chất trong khi sử dụng Internet (n=783)
Tỷ lệ học sinh có vấn đề về sức khỏe trong
khi sử dụng Internet chiếm đến gần 59,9%. Tỷ lệ
học sinh bị ảnh hưởng về mắt chiếm tỷ lệ cao
nhất (38,3%), ảnh hưởng đến lưng, vùng cột
sống cao thứ hai (33,2%).
0
1
2
3
4
5
6
7
8
Mạng xã
hội
Nghe
nhạc
Chat, trò
chuyện
Chơi
game
Đọc
truyện
Xem
phim,
video
Đọc tin
tức
Diễn đàn Tìm
thông tin
học tập
7,8
7,1
6
5,6
5,1 4,6
4,3 3,8 3,6
giờ / tuần
0
10
20
30
40
50
Không bị gì Mỏi mắt,
mờ mắt
Đau lưng,
mỏi vai
Mệt mỏi, uể
oải
Nhức đầu,
chóng mặt
Đau bụng,
đau dạ dày
Khác
40,1
16,3
33,2
38,3
3,6
26,2
6,4
%
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 759
Biểu đồ 4. Những tác động lên sức khỏe tinh thần của việc sử dụng Internet (n=783)
Đa số học sinh nhận xét Internet giúp thư
giãn (97,1%), giúp học tập (86,7%). Tuy nhiên có
một số lượng không nhỏ các em học sinh cảm
thấy không thể sống thiếu Internet (34,6%), bị la
rầy do sử dụng Internet (18,3%).
Bảng 3. Mối liên quan giữa việc sử dụng Internet từ 20 giờ/tuần trở lên với một số thông tin nền và các vấn đề
sức khỏe, tinh thần (n=783).
Nội dung Sử dụng từ 20 giờ/tuần χ2 PR (KTC 95%) Có (%) Không (%)
Thông tin nền
Giới Nam (n=290) 144 (49,7) 146 (50,3)
7,2 1,26 (1,06 - 1,49) Nữ (n=493) 195 (39,6) 298 (60,4)
Lớp
10 (n=324) 149 (46,0) 175 (54,0)
22,8
1
11 (n=263) 133 (50,6) 130 (49,4) 1,10 (0,92-1,32)
12 (n=196) 57 (29,1) 139 (70,9) 0,76 (0,61–0,95)
Sức khỏe thể chất
Mệt mỏi, uể oải
Có (n=205) 101 (29,8) 104 (23,4)
3,7 1,27 (1,00 – 1,62)
Không (n=578) 238 (70,2) 340 (76,6)
Sức khỏe tinh thần
Khiến bị la rầy
Có (n=143) 75 (22,1) 68 (15,3)
5,5 1,44 (1,06 – 1,95)
Không (n=640) 264(77,9) 376 (84,7)
Giúp chứng tỏ bản thân
Có (n=76) 45 (13,3) 31 (7,0)
8,0 1,90 (1,22 – 2,97)
Không (n=707) 294(86,7) 413 (93,0)
Cảm thấy không thể sống thiếu Internet
Có (n=271) 161(47,5) 110 (24,8)
42,8 1,92 (1,58 – 2,33)
Không (n=512) 178(52,5) 334 (75,2)
* Các mối liên được trình bày đều có ý nghĩa thống kê
0
10
20
30
40
50
60
70
80
90
100
Thư giãn Học tập Không thể
sống thiếu
Internet
Bị la rầy Chứng tỏ bản
thân
Ngại giao tiếp
trực tiếp
86,7
97,1
18,3
9,7 4,6
34,6
%
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 760
Nghiên cứu không tìm thấy mối liên quan
giữa việc sử dụng Internet từ 20 giờ/tuần trở lên
với các biến học lực, mỏi mắt – mờ mắt, đau
lưng – mỏi vai, nhức đầu – chóng mặt, đau bụng
– đau dạ dày, giúp học tập, giúp thư giãn, ngại
giao tiếp.
Học sinh nam có khuynh hướng sử dụng
Internet nhiều hơn nữ (gấp 1,26 lần) và học sinh
lớp 12 thì thời gian sử dụng Internet càng ít hơn
lớp dưới. Thêm vào đó, việc tìm thấy mối liên
quan giữa mệt mỏi ‐ uể oải, trong đó người sử
dụng Internet từ 20 giờ/tuần trở lên thì mệt mỏi
cao gấp 1,27 lần so với người sử dụng thời gian
ít hơn. Ngoài ra, nghiên cứu cũng tìm thấy mối
liên quan giữa việc sử dụng Internet từ 20
giờ/tuần với các yếu tố không tốt cho sức khỏe
tinh thần như khiến các em bị la rầy và cảm thấy
không thể sống thiếu Internet (lần lượt gấp 1,44
và 1,92 lần).
BÀN LUẬN
Qua khảo sát với tỷ lệ sử dụng Internet ở học
sinh cấp ba trong trường phù hợp với khảo sát
gần đây của Yahoo! & Kantar media năm 2011 ở
các thành phố lớn cũng có tỷ lệ sử dụng là 91% ở
độ tuổi 15 đến 19. Tuy nhiên, việc hơn 40% các
em sử dụng Internet ở mức có thể gây nghiện (từ
20 giờ/tuần trở lên) là một vấn đề đáng quan tâm
vì trường THPT chuyên Trần Đại Nghĩa là
trường dạy 2 buổi, cả ngày thứ 7 và học sinh còn
có thể đi học thêm vào buổi chiều tối nên tỷ lệ sử
dụng Internet vào ngưỡng có thể gây nghiện
như vậy là khá cao. Về mục đích sử dụng, hoạt
động mà các em thường hay sử dụng đó là tìm
thông tin học tập, nghe nhạc, đọc tin tức, xem
phim, chat, trò chuyện và mạng xã hội tới hơn
80%. Kết quả cũng tương đương với khảo sát
của SAVY 2 khi tỷ lệ thanh niên sử dụng
Internet vào tìm kiếm thông tin, nghe nhạc
chiếm hơn 70%. Tuy nhiên SAVY chưa đưa
mạng xã hội vào khảo sát nên chưa đánh giá
được hoạt động này.
Có nhiều vấn đề sức khỏe đã được các em
đưa ra như vấn đề về mắt (đau mắt, mỏi mắt),
vấn đề về lưng (đau lưng, mỏi vai), vấn đề về
thần kinh (mệt mỏi, uể oải) trong thời gian sử
dụng Internet. Tuy nhiên nghiên cứu chỉ tìm
thấy mối liên quan giữa thời gian sử dụng từ 20
giờ/tuần trở lên với mệt mỏi uể oải. Điều này
cũng phù hợp với các nhận xét của Young khi
mô tả về các trường hợp nghiện Internet thì họ
thường xuyên bị mệt mỏi, các vấn đề sức khỏe
khác (như ảnh hưởng lên mắt, cột sống) cũng đã
được ghi nhận nhưng kết quả cũng không thật
sự rõ ràng. Do đó, các em học sinh cần được
trang bị những kiến thức về việc kiểm soát sử
dụng Internet để tránh bị các tác động đến sức
khỏe trong khi sử dụng Internet.
Về các tác động đến sức khỏe tinh thần, đa
số các em cho rằng Internet có tác động tích cực
như giúp học tập, giúp thư giãn; tuy nhiên, vẫn
có khá nhiều các em có tác động tiêu cực như:
cảm thấy không thể sống thiếu Internet, khiến bị
la rầy, và ngại giao tiếp trực tiếp. Các tác động
này tuy không thể đo lường cụ thể chính xác
nhưng việc các em xác nhận với tỉ lệ khá cao như
vậy cho thấy Internet cũng có thể gây ra các tác
động tiêu cực đến người dùng. Thêm vào đó,
nghiên cứu tìm thấy mối liên quan giữa việc sử
dụng Internet từ 20 giờ/tuần trở lên với các vấn
đề như cảm thấy không thể sống thiếu Internet,
khiến bị la rầy, giúp chứng tỏ bản thân càng
giúp xác định hơn nữa việc sử dụng Internet dài
có thể dẫn đến lạm dụng và gây nên mối quan
hệ không tốt với các bậc phụ huynh. Các mô tả
của Young cũng như một số nghiên cứu khác (3)
cho thấy trầm cảm thường là nguyên nhân dẫn
đến nghiện Internet; tuy cuộc điều tra của chúng
tôi không sử dụng thang đo để xác định mức độ
trầm cảm của các em nhưng qua kết quả thu
được thì nếu các em sa đà vào Internet hoàn toàn
có thể bị nghiện và có thể bị trầm cảm kèm theo
(do các em tự thu mình lại và chỉ thỏa mãn được
trên thế ảo).
Điểm mạnh của nghiên cứu là đã thực hiện
trên đối tượng học sinh trường THPT chuyên,
những học sinh luôn được cho rằng các em chỉ
có tập trung vào việc học nhưng kết quả đã phản
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 761
ánh việc các em cũng biết sử dụng Internet vào
nhiều mục đích khác nhau cũng như rất dễ sa đà
vào Internet. Thứ hai, nghiên cứu thực hiện lấy
mẫu toàn bộ (tỷ lệ mất mẫu chỉ khoảng 15%)
cũng như đã áp dụng biện pháp kiểm soát sai
lệch thông tin (cho điều tra viên đến từng lớp
hướng dẫn điền bộ câu hỏi cũng như giải đáp
thắc mắc trước khi điều tra) nên kết quả đảm
bảo tính khách quan.
Tuy nhiên, do hạn chế về các nguồn lực, nên
chúng tôi không thể đánh giá trực tiếp sức khỏe
thể chất và tinh thần. Bên cạnh đó, bản thân việc
sử dụng nghiên cứu cắt ngang cũng không đủ
bằng chứng để khẳng định bất cứ mối quan hệ
nhân quả nào mà chỉ đơn thuần mô tả tình hình
sử dụng Internet của mẫu nghiên cứu. Thêm vào
đó, cuộc điều tra cũng đã có thiếu sót khi không
khảo sát nơi các em thường sử dụng cũng như
phương tiện các em sử dụng để lên
Internet.Chúng tôi nhận thấy việc điều tra thời
lượng sử dụng nên tiến hành kéo dài liên tục
(khoảng 1 tháng) hoặc cho đối tượng viết nhật
ký để có thể đánh giá chính xác nhu cầu và thói
quen sử dụng. Việc nghiên cứu trên những đối
tượng học sinh khác như học sinh học một buổi,
học sinh trường tư thục và nghiên cứu định tính
tìm hiểu lý do các em sử dụng Internet sẽ góp
phần vẽ lên bức tranh hoàn chĩnh về vấn đề sử
dụng Internet ở lứa tuổi học sinh và đưa ra các
giải pháp phù hợp hơn. Nhóm nghiên cứu hi
vọng có thể giúp các nghiên cứu về sau cải tiến
phương pháp thu thập thông tin, dữ liệu về đề
tài sử dụng Internet, một chủ đề còn khá mới mẻ
ở nước ta.
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Qua kết quả nghiên cứu, tỷ lệ học sinh sử
dụng Internet của trường là khá cao (94,5%),
trong đó gần 50% các em sử dụng với ngưỡng có
thể gây nghiện. Bên cạnh đó, có các vấn đề về
sức khỏe thể chất và tinh thần trong thời gian các
em sử dụng Internet.
Các bậc phụ huynh bên cạnh việc tạo điều
kiện để các em sử dụng Internet vào mục đích
học tập, thư giãn, đồng thời cũng cần hoạch định
thời gian sử dụng để các em tránh sa đà vào
Internet. Thêm vào đó, các em học sinh của
trường cũng cần được trang bị kiến thức về các
tác hại của việc sử dụng Internet kéo dài, có thể
khiến các em bị lệ thuộc vào nó.
Cần có những nghiên cứu chuyên sâu hơn,
kéo dài hơn và có thang đo cụ thể hơn để có
thể kết luận mối quan hệ nhân quả giữa việc
sử dụng Internet từ 20 giờ/tuần trở lên với các
yếu tố liên quan. Việc so sánh và lấy mẫu ở
quần thể lớn hơn hoặc nhiều nhóm học sinh
hơn (có thể có cả trường công lập và trường tư
thục) cũng sẽ giúp vẽ bức tranh hoàn chỉnh về
thực trạng sử dụng Internet hiện nay ở đối
tượng học sinh tại TP.HCM .
Lời cảm ơn: Nhóm nghiên cứu xin chân thành cám ơn sự hỗ
trợ của Ban giám hiệu và Đoàn thanh niên trường THPT
chuyên Trần Đại Nghĩa đã giúp cho nghiên cứu được thành
công.Bên cạnh đó, nhóm nghiên cứu cũng gửi lời cám ơn đến
Ths.Bs.Võ Hữu Thuận (Viện Y tế công cộng TP.HCM) đã góp
ý để bài báo được hoàn thiện.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lê Minh Công (2011) Một số vấn đề lý luận và thực hành lâm
sàng về nghiện
internet..
truy cập 20‐2‐2012
2. Trung tâm thống kê Internet Việt Nam (VNNIC) (2012).,
Truy cập 2‐
2‐2012
3. Yen JY., Yen CF., Chen CC., Chen, SH, Ko CH. (2007) Family
factors of internet addiction and substance use experience in
Taiwanese adolescents. Cyberpsychol Behav., 10(3), 323‐329
4. Young KS. (1996) Internet addiction: The emergence of a new
clinical disorder. CyberPsychology and Behavior, 1(3), 237‐244.
Ngày nhận bài báo: 23/5/2014
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 11/6/2014
Ngày bài báo được đăng :
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- thuc_trang_su_dung_internet_cua_hoc_sinh_cap_3_truong_chuyen.pdf