Theo quy định của BLTTHS, VKS
giữ vai trò rất lớn, quyết định trong hoạt
động THQCT và kiểm sát các hoạt động
tư pháp ở giai đoạn điều tra. Trước các
yêu cầu của cải cách tư pháp, vai trò và
trách nhiệm của VKS tăng lên rất nhiều.
Ví dụ, theo yêu cầu của VKSNDTC, để
bảo đảm thi hành tốt các quy định của
BLTTHS, VKS phải tham gia kiểm sát
việc khám nghiệm hiện trường, tăng
cường phối hợp với Toà án tổ chức các
phiên toà xét xử lưu động, tăng cường
kiểm sát trực tiếp tại các nơi tạm giữ,
tạm giam, trại tạm giam, trại giam. Để
thực hiện tốt các hoạt động này, việc
tăng cường trang bị phương tiện giao
thông, liên lạc cho VKS các cấp ở địa
phương là cần thiết. Trước tình hình như
vậy, việc tăng cường đầu tư các phương
tiện đi lại, trang thiết bị khoa học, công
nghệ cao là hết sức cần thiết, bảo đảm
cho hoạt động THQCT và kiểm sát các
hoạt động tư pháp ở giai đoạn điều tra
đạt chất lượng hiệu quả cao hơn.
VKSND các thành phố trực thuộc
Trung ương có thể nghiên cứu, đề nghị
Nhà nước phân bổ kinh phí cho ngành
Kiểm sát theo định mức riêng đối với
đơn vị ngành dọc. Lý do vì ngành Kiểm
sát có nhiều hoạt động đặc thù so với cơ
quan hành chính sự nghiệp nói chung
và các cơ quan tư pháp nói riêng nhưng
chưa cụ thể hoá được thành chế độ chi.
Do tiền lương, phụ cấp cho các KSV
chiếm tỷ lệ lớn trong định mức phân bổ
cho ngành Kiểm sát nên đề nghị Nhà
nước phân bổ cho ngành Kiểm sát theo
định mức riêng; phối hợp với Bộ Tài
chính và các cơ quan có liên quan để xây
dựng các thông tư liên tịch về chế độ
chi cho công tác điều tra một số tội xâm
phạm hoạt động tư pháp thuộc chức
năng của VKSND, cho công tác kiểm
sát khám nghiệm hiện trường, cho nhân
chứng và chi cho việc mời luật sư tham
gia bào chữa đối với các trường hợp bắt
buộc. Một số hoạt động đặc thù khác
đã có chế độ chi, ngành Kiểm sát cần
nghiên cứu để đề xuất với các cơ quan
và cấp có thẩm quyền để thay đổi mức
chi theo hướng tăng cho phù hợp với
tình hình thực tế hiện nay (khối lượng,
chất lượng công việc, biến động của giá
cả thị trường.).
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 21/01/2022 | Lượt xem: 236 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Thực trạng thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra vụ án chống người thi hành công vụ trên địa bàn các thành phố trực thuộc trung ương và một số giải pháp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
25 Khoa học Kiểm sát Số 03 - 2020
1. thực trạng thực hành quyền công
tố và kiểm sát điều tra vụ án chống người
thi hành công vụ trên địa bàn các thành
phố trực thuộc trung ương
Theo thống kê của Viện kiểm sát nhân
dân tối cao (VKSNDTC), tại các thành phố
trực thuộc Trung ương, từ năm 2010 đến
hết năm 2019 đã xảy ra 1.911 vụ phạm tội
chống người thi hành công vụ, với 2.508
bị can. Tình hình tội phạm chống người
thi hành công vụ tại các thành phố này có
xu hướng tăng trong giai đoạn 2010 đến
2012. Năm 2010 xảy ra 247 vụ/356 đối
tượng; năm 2011 là 270 vụ, 339 đối tượng.
Năm 2012 là năm có số vụ chống người
thi hành công vụ cao nhất với 306 vụ với
sự tham gia của 394 đối tượng. Từ năm
2012 đến hết năm 2019, số vụ phạm tội,
số đối tượng chống người thi hành công
vụ trên địa bàn các thành phố trực thuộc
Trung ương giảm dần qua các năm. Tuy
nhiên, tình hình vi phạm pháp luật và tội
phạm vẫn có nhiều diễn biến phức tạp,
trong đó các hành vi chống người thi hành
công vụ gia tăng cả về tính chất, phạm vi
ảnh hưởng với các phương thức, thủ đoạn
ngày càng tinh vi, manh động hơn.1
Trong những năm vừa qua, VKSND
các thành phố trực thuộc Trung ương
đã thực hiện có hiệu quả hoạt động
THQCT và kiểm sát chặt chẽ việc tuân
theo pháp luật của Cơ quan điều tra
(CQĐT) trong quá trình khởi tố, điều tra
* Thạc sĩ, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát nhân dân
tối cao
THỰC TRẠNG THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VÀ KIỂM SÁT ĐIỀU TRA...
VỤ ÁN CHỐNG NGƯỜI THI HÀNH CÔNG VỤ
TRÊN ĐỊA BÀN CÁC THÀNH PHỐ TRỰC THUỘC TRUNG ƯƠNG
VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP
NgUyỄN tOàN tHẮNg*
Tội phạm chống người thi hành công vụ ở nước ta trong thời gian qua có chiều
hướng phức tạp, khó lường, gây ra nhiều hậu quả nghiêm trọng. Trong bài viết
này, tác giả đề cập đến thực trạng thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra
(THQCT&KSĐT) vụ án chống người thi hành công vụ trên địa bàn các thành phố
trực thuộc Trung ương và một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động này.
Từ khóa: THQCT&KSĐT, tội phạm chống người thi hành công vụ, Bộ luật hình
sự năm 2015.
Ngày nhận bài: 22/6/2020; Ngày biên tập xong: 24/6/2020; Ngày duyệt đăng:
24/6/2020.
recently, crimes of resisting law enforcement officers in performance of
their official duties in Vietnam has been complicated and unpredictable that
caused serious consequences. in this article, the author provides the situation of
exercising the prosecution rights and supervising over the investigation of that
crime in municipalities and solutions as well.
keywords: Exercising the prosecution rights and supervising over the
investigation, crimes of resisting law enforcement officers in performance of
their official duties, the 2015 Penal Code.
tHỰC trạNg tHỰC HàNH qUyỀN CôNg tố Và kiểM Sát điỀU tra...
26 Khoa học Kiểm sát Số 03 - 2020
các vụ án hình sự, đảm bảo các hành vi
phạm tội nói chung và tội phạm chống
người thi hành công vụ nói riêng đều
được phát hiện kịp thời và xử lý nghiêm
minh, góp phần đảm bảo an ninh chính
trị, trật tự an toàn xã hội. Tuy nhiên, bên
cạnh những kết quả đã đạt được, hoạt
động THQCT&KSĐT cũng còn những
tồn tại, hạn chế như: Một số Kiểm sát
viên (KSV) chưa thực hiện đầy đủ chức
trách, nhiệm vụ được giao trong quá
trình THQCT&KSĐT vụ án, không nắm
chắc diễn biến quá trình điều tra để
đề ra yêu cầu điều tra phù hợp, đồng
thời chưa kịp thời phối hợp chặt chẽ
với Điều tra viên (ĐTV) để giải quyết
những vấn đề phát sinh trong quá trình
điều tra. Việc xét phê chuẩn các quyết
định tố tụng trong nhiều vụ án còn kéo
dài, cá biệt có trường hợp còn sai phạm
dẫn đến ảnh hưởng đến tiến độ và chất
lượng điều tra. Việc chủ động phát hiện
vi phạm của CQĐT chưa được thường
xuyên, kịp thời.
Những tồn tại, hạn chế nêu trên
xuất phát nhiều từ nguyên nhân, cụ thể:
Một là, sự hướng dẫn của liên ngành
Trung ương thực hiện các quy định của
Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS), Bộ
luật hình sự (BLHS) có lúc chưa kịp thời,
còn nhiều vướng mắc khó khăn trong áp
dụng. Hiện nay, hệ thống văn bản pháp
luật về phòng, chống tội phạm nói chung,
tội phạm chống người thi hành công vụ
nói riêng được ban hành dưới nhiều cấp
độ khác nhau như luật, văn bản dưới
luật. Đây là cơ sở pháp lý để các cơ quan
tư pháp và các lực lượng khác có liên
quan áp dụng, thực thi nhằm chủ động
phòng ngừa, ngăn chặn, điều tra, xử lý
tội phạm, vi phạm pháp luật. Tuy nhiên,
giữa các văn bản pháp luật còn nhiều
điểm chưa thống nhất, rõ ràng.
Hai là, một số KSV chưa tuân thủ đúng
các quy định của pháp luật tố tụng hình sự
(TTHS) và pháp luật chuyên ngành khác
khi tiến hành tố tụng; khả năng tổng hợp,
phân tích, đánh giá, so sánh chứng cứ còn
hạn chế; thiếu tinh thần trách nhiệm và sự
chủ động trong THQCT&KSĐT, không
bám sát quá trình điều tra, hoạt động điều
tra của CQĐT, ĐTV. Do đó, KSV không
nắm được đầy đủ, tỉ mỉ các tình tiết buộc
tội và gỡ tội, còn lúng túng trong việc
thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được giao.
Ba là, việc tăng cường trách nhiệm
công tố trong hoạt động giải quyết tố
giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi
tố chưa được chú trọng và đề cao đúng
mức. Trong nhiều trường hợp, khi có tố
giác, tin báo về tội phạm chống người
thi hành công vụ, KSV chưa chủ động
tiếp cận tài liệu mà CQĐT thu thập được
để qua đó phân tích, đánh giá chứng cứ
và bàn với ĐTV hướng giải quyết.
Bốn là, tổ chức biên chế KSV bố trí
cho từng đơn vị chưa tương xứng với số
lượng, yêu cầu của công việc. Trong khi
đó, yêu cầu cải cách tư pháp, quy định
TTHS hiện hành đòi hỏi nâng cao trách
nhiệm của từng KSV trong từng vụ việc,
vụ án từ giai đoạn tin báo đến giai đoạn
xử lý xong vụ án. Vì vậy, thực tiễn đã
tạo áp lực rất lớn đối với KSV để thực
hiện tốt vai trò, trách nhiệm của mình,
trong khi các công cụ, phương tiện phục
vụ công tác chuyên môn còn thiếu. Tình
trạng tương tự cũng diễn ra với CQĐT:
Với số lượng nguồn tin về tội phạm và số
vụ án khởi tố hàng năm lớn, trung bình
01 năm, mỗi ĐTV của cơ quan Cảnh sát
điều tra cấp quận, huyện ở các thành phố
trực thuộc Trung ương thụ lý, giải quyết
07 vụ án và 10 tố giác, tin báo về tội phạm.
Đáng chú ý, ở các quận thuộc Thành phố
Hà Nội, mỗi ĐTV trong năm thụ lý, giải
quyết từ 25 đến 30 vụ án và hàng chục tố
giác, tin báo về tội phạm. Ví dụ: Nam Từ
Liêm: 39 tin, 13 vụ án; Đống Đa: 36 tin, 30
vụ án; Cầu Giấy: 28 tin, 11 vụ án; Hoàn
Kiếm: 24 tin, 12 vụ án.
NGUYỄN TOÀN THẮNG
27Số 03 - 2020 Khoa học Kiểm sát
Năm là, công tác phối hợp giữa các
VKSND và CQĐT còn bất cập, thiếu
tính liên kết làm giảm hiệu quả phòng,
chống tội phạm chống người thi hành
công vụ. Theo quy định của pháp luật
TTHS, CQĐT có trách nhiệm thực hiện
yêu cầu và quyết định của VKS. Tuy
nhiên trên thực tế, nhiều yêu cầu của
Kiểm sát viên trong tiếp nhận, giải quyết
nguồn tin tội phạm; yêu cầu điều tra đã
không được thực hiện nhưng chưa có
cơ chế ràng buộc trách nhiệm đối với
CQĐT. Bên cạnh đó, cơ sở vật chất, kinh
phí của ngành tuy đã được tăng cường
nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu.
Các tài liệu nghiên cứu chuyên ngành
như sách, báo, tạp chí..., nhất là tài liệu
liên quan trực tiếp đến THQCT của KSV
trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự
còn thiếu thốn và chưa đáp ứng được
nhu cầu nghiên cứu của KSV. Chế độ
đãi ngộ cũng như chính sách đối với cán
bộ, KSV chưa phù hợp với trách nhiệm
và tính chất công việc nên một số KSV
thiếu bản lĩnh bị kẻ xấu lợi dụng, mua
chuộc đã tha hoá, biến chất dẫn đến tình
trạng hoạt động THQCT thiếu khách
quan, chính xác và trái pháp luật.
2. Một số giải pháp nâng cao hiệu
quả hoạt động thực hành quyền công tố
và kiểm sát điều tra vụ án chống người
thi hành công vụ trên địa bàn các thành
phố trực thuộc trung ương
Thứ nhất, trong điều kiện hiện nay,
các quy định của pháp luật về xử lý
tội phạm nói chung và tội phạm chống
người thi hành công vụ nói riêng cũng
như quy định về quyền hạn, nhiệm vụ
của VKSND trong giai đoạn điều tra các
vụ án hình sự, mặc dù mới sửa đổi, bổ
sung nhưng qua thực tiễn của công tác
đấu tranh phòng chống tội phạm chống
người thi hành công vụ nói chung và
công tác KSĐT của VKS nói riêng đã
bộc lộ nhiều bất cập, chưa đáp ứng
được công tác phòng chống tội phạm
trong tình hình mới, cần thiết phải được
nghiên cứu xem xét, sửa đổi cho phù
hợp. Cụ thể như:
Một số quy định của BLTTHS cũng
chưa có những hướng dẫn kịp thời,
thống nhất nên còn có những cách hiểu
khác nhau. Ví dụ, về căn cứ trả hồ sơ điều
tra bổ sung giữa các cơ quan tiến hành
tố tụng, việc hiểu thế nào là chứng cứ
quan trọng, thế nào là vi phạm nghiêm
trọng thủ tục tố tụng giữa các ngành còn
nhiều cách hiểu khác nhau dẫn đến đùn
đẩy án.
BLTTHS quy định trong trường hợp
cơ quan tiến hành tố tụng không đồng
ý với kết quả giám định thì phải nêu rõ
lý do, nếu kết luận giám định chưa rõ
hoặc chưa đầy đủ thì quyết định giám
định bổ sung hoặc giám định lại theo
thủ tục chung. Trên thực tế, có một số
vụ án chống người thi hành công vụ
mà cả người bị hại và người thực hiện
hành vi đều yêu cầu giám định thương
tật lại, nhưng pháp luật TTHS chưa quy
định rõ trường hợp nào được trưng cầu
giám định lại, việc giám định lại được
thực hiện bao nhiêu lần, kết quả giám
định có mâu thuẫn thì kết quả giám
định nào là khách quan. Chính điều này
đã dẫn đến sự tùy tiện trong việc trưng
cầu giám định lại của các cơ quan tiến
hành tố tụng và các kết quả giám định
có mâu thuẫn, thậm chí có trường hợp
kết quả giám định có mâu thuẫn rất cơ
bản và cách biệt nhau. Điều này khiến
cho CQĐT và VKSND không biết căn cứ
vào kết quả giám định nào để áp dụng
biện pháp TTHS tiếp theo.
Điều 42 BLTTHS năm 2015 là điều
luật quy định mang tính khái quát chung
nhất về quyền hạn, nhiệm vụ của KSV
trong TTHS. Vì vậy, cần quy định cụ thể
hơn KSV có những quyền hạn, nhiệm vụ
gì khi là người đại diện cho VKS thực
hành quyền công tố, chẳng hạn như quy
tHỰC trạNg tHỰC HàNH qUyỀN CôNg tố Và kiểM Sát điỀU tra...
28 Khoa học Kiểm sát Số 03 - 2020
định KSV có quyền ký quyết định khởi
tố vụ án, quyết định không khởi tố vụ
án, quyết định khởi tố bị can; ký quyết
định phê chuẩn, không phê chuẩn quyết
định khởi tố vụ án, khởi tố bị can, lệnh
bắt tạm giam; yêu cầu Cơ quan điều tra,
cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành
một số hoạt động điều tra tiếp nhận, giải
quyết nguồn tin về tội phạm, khởi tố
hoặc thay đổi, bổ sung quyết định khởi
tố vụ án, khởi tố bị can.
Việc bổ sung thêm quyền năng này
không ảnh hưởng gì đến sự lãnh đạo
thống nhất của Viện trưởng VKS vì đối
với những quyết định khởi tố vụ án,
khởi tố bị can các vụ án phức tạp sẽ do
Viện trưởng VKSND quyết định. Như
vậy, khi phân tích quyền hạn của KSV,
chúng ta không phải đề cập thêm những
quy định khác của BLTTHS về quyền
năng của VKS do KSV đóng vai trò là
người tiến hành tố tụng, đại diện trực
tiếp. Đồng thời, quy định như vậy cũng
sẽ nâng cao ý thức trách nhiệm của KSV
đối với những quyết định của mình.
Thứ hai, Kiểm sát viên cần tuân thủ
chặt chẽ căn cứ, thủ tục và thẩm quyền
tiến hành hoạt động thực hành quyền
công tố và kiểm sát điều tra theo quy
định của pháp luật.
KSV được phân công THQCT&KSĐT
vụ án chống người thi hành công vụ
phải nghiên cứu kỹ hồ sơ, tài liệu để
kiểm sát chặt chẽ việc phê chuẩn và chủ
động đề ra yêu cầu điều tra. Phải bám sát
tiến độ điều tra, đề ra yêu cầu điều tra
nhằm khắc phục kịp thời những thiếu
sót về chứng cứ hoặc vi phạm tố tụng.
Trong giai đoạn điều tra, cần phối hợp
với CQĐT để tiến hành sơ kết việc điều
tra khi cần thiết. Trước khi kết thúc điều
tra vụ án chống người thi hành công vụ,
KSV phải phối hợp chặt chẽ với ĐTV
rà soát lại toàn bộ chứng cứ buộc tội,
chứng cứ gỡ tội và các thủ tục tố tụng
đối với vụ án, bị can; khi cần thiết có
thể trực tiếp cùng với ĐTV hỏi bản cung
tổng hợp để đánh giá đầy đủ tính chất;
mức độ phạm tội của từng bị can trong
vụ án; đồng thời khắc phục những thiếu
sót, sơ hở trong việc thu thập chứng cứ,
tài liệu để kết luận hành vi phạm tội của
các bị can. Sau khi kết thúc điều tra, KSV
tiếp tục nghiên cứu kỹ hồ sơ, phát hiện
kịp thời những mâu thuẫn trong vụ án;
thực hiện việc phúc cung tổng hợp đối
với từng bị can, nhất là đối với những
bị can phạm tội phức tạp, chối tội, phản
cung hoặc có mâu thuẫn giữa các chứng
cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án để từ đó
đề xuất đường lối xử lý vụ án, bị can có
căn cứ và thận trọng.
Đối với vụ án chống người thi hành
công vụ có đông người tham gia hoặc
liên quan, KSV cần thận trọng đánh giá
chứng cứ để cùng ĐTV xác định diện khởi
tố; cần thận trọng khi phê chuẩn khởi tố
bị can đối với các tội phạm có cấu thành
tội phạm có dấu hiệu như: Giết người,
cố ý gây thương tích với tội chống người
thi hành công vụ... nhằm hạn chế trường
hợp trả hồ sơ để khởi tố thêm người đồng
phạm, bổ sung thêm tội danh hoặc thay
đổi tội danh đã khởi tố.
Thứ ba, VKSND cần THQCT, KSĐT
ngay từ khi tiếp nhận, giải quyết tố giác,
tin báo về tội phạm.
VKSND các thành phố trực thuộc
Trung ương phải thực hiện quy trình khi
tiến hành các hoạt động THQCT, KSĐT
của CQĐT và các cơ quan khác trong
việc tiếp nhận, quản lý và giải quyết các
tố giác, tin báo về tội phạm chống người
thi hành công vụ một cách nghiêm túc,
chuyên nghiệp và đúng quy định của
pháp luật.
Dựa trên cơ sở nhiệm vụ, quyền hạn
được giao, VKSND các thành phố trực
thuộc Trung ương cần tổ chức tốt việc tiếp
nhận tố giác, tin báo về tội phạm, trong đó
NGUYỄN TOÀN THẮNG
29Số 03 - 2020 Khoa học Kiểm sát
có các tố giác, tin báo về tội phạm chống
người thi hành công vụ do quần chúng
nhân dân và các cơ quan thông tin đại
chúng cung cấp; cần nắm chắc, quản lý
một cách đầy đủ, kịp thời các tố giác, tin
báo về loại tội phạm này, kịp thời phân
loại, khẩn trương chuyển tố giác, tin báo
đó đến CQĐT có thẩm quyền để xác minh
làm rõ, xử lý theo pháp luật. VKSND phải
nắm chắc các tố giác, tin báo về tội phạm
đã chuyển cho CQĐT để yêu cầu CQĐT
xác minh, làm rõ và xử lý đúng theo quy
định của pháp luật.
Quá trình THQCT, KSĐT việc giải
quyết, xử lý tố giác, tin báo về tội phạm
chống người thi hành công vụ của
CQĐT, KSV được phân công thụ lý vụ
án phải báo cáo lãnh đạo VKSND có văn
bản yêu cầu CQĐT chuyển hồ sơ xác
minh tố giác để VKSND thực hiện việc
kiểm sát.
Thứ tư, tiếp tục đổi mới công tác tổ
chức, nâng cao chất lượng cán bộ, đáp
ứng yêu cầu của công cuộc cải cách tư
pháp, tăng cư ờng cán bộ có năng lực cho
các đơn vị làm công tác thực hành quyền
công tố và kiểm sát điều tra.
VKS các cấp của các thành phố trực
thuộc Trung ương cần chú trọng đề bạt
số cán bộ có quan điểm chính trị vững
vàng, phẩm chất đạo đức tốt, đã được
đào tạo cơ bản và có kinh nghiệm trong
thực tiễn công tác đảm nhiệm các chức
vụ lãnh đạo. Thực hiện luân chuyển cán
bộ giữa các cấp và các địa phương, đồng
thời xây dựng chế độ, chính sách phù
hợp để thực hiện việc luân chuyển đó,
tiến hành thi tuyển KSV, kéo dài thời
hạn bổ nhiệm hoặc bổ nhiệm không thời
hạn đối với KSV. Rà soát lại đội ngũ cán
bộ để xây dựng đội ngũ KSV trong sạch,
vững mạnh. Xác định lại biên chế cho
phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ đáp ứng
với tình hình thực tế của đơn vị để đủ
sức hoàn thành nhiệm vụ được giao.
Thường xuyên chú trọng việc nâng cao
nhận thức về chuyên môn nghiệp vụ,
đạo đức nghề nghiệp.
Các thành phố trực thuộc Trung
ương có số lượng các vụ án hình sự cũng
như số vụ chống người thi hành công vụ
nhiều nhất cả nước. Nhiều địa bàn cấp
huyện ở các địa phương này có số vụ án
được thụ lý, giải quyết bằng với một số
tỉnh khác. Tuy nhiên, do biên chế phân
bổ có phần hạn chế, khối lượng công việc
nhiều nên công tác KSĐT thực hiện chưa
được tốt, đòi hỏi lãnh đạo VKSND các
thành phố phải quan tâm hơn nữa đến
công tác đào tạo, rà soát cán bộ, kịp thời
bổ sung, điều động cán bộ cho các đơn
vị thiếu nhân lực. Ngoài ra, cần thường
xuyên tổ chức tập huấn nghiệp vụ cho
đội ngũ cán bộ KSV làm công tác KSĐT
để kịp thời nắm bắt các kiến thức về điều
tra tội phạm chống người thi hành công
vụ, cũng như công tác KSĐT, từ đó thực
hiện hoạt động KSĐT tốt hơn.
Đối với một số địa bàn trọng điểm,
nơi xảy ra nhiều vụ án chống người thi
hành công vụ hoặc tình hình tội phạm
chống người thi hành công vụ tăng đột
biến, có diễn biến phức tạp, cần phân
công KSV chuyên trách làm công tác
KSĐT các vụ án chống người thi hành
công vụ, từ đó giúp công tác KSĐT tội
phạm này chuyên sâu và hiệu quả hơn.
Đồng thời, việc phân công này sẽ giúp
cho lãnh đạo VKS các cấp trong việc tổ
chức rút kinh nghiệm, xây dựng chuyên
đề về nâng cao hiệu quả hoạt động KSĐT
các vụ án chống người thi hành công vụ.
Thứ năm, xây dựng mối quan hệ
phối hợp chặt chẽ giữa các đơn vị trong
mỗi cấp kiểm sát, giữa các cấp kiểm sát
và giữa VKS với các cơ quan, đặc biệt là
Cơ quan điều tra; chú trọng đầu tư cơ sở
vật chất, phương tiện phục vụ công tác.
Thực tiễn hoạt động THQCT và
kiểm sát các hoạt động tư pháp ở giai
tHỰC trạNg tHỰC HàNH qUyỀN CôNg tố Và kiểM Sát điỀU tra...
30 Khoa học Kiểm sát Số 03 - 2020
đoạn điều tra cho thấy, nơi nào xây dựng
đư ợc mối quan hệ phối hợp tốt giữa các
bộ phận, đơn vị nghiệp vụ trong ngành
với nhau và giữa VKS với các cơ quan
hữu quan khác thì nơi đó có điều kiện
để thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ
của mình. Mối quan hệ phối hợp ở đây
phải đư ợc xác định bao gồm quan hệ
phối hợp trong công tác lãnh đạo, chỉ
đạo, điều hành và mối quan hệ phối hợp
trong hoạt động tác nghiệp để thực hành
nhiệm vụ chuyên môn.
Quan hệ phối hợp tốt có tác dụng
hỗ trợ tích cực, giúp cho việc thống nhất
quan điểm trong quá trình giải quyết
những vụ án cụ thể, giúp cho hoạt động
THQCT&KSĐT vụ án chống người thi
hành công vụ đ ược tiến hành kịp thời,
đồng bộ, nhịp nhàng, phát huy trách
nhiệm và sức mạnh của từng bộ phận,
từng đơn vị, tạo ra sức mạnh tổng hợp
của cả một hệ thống cơ quan. Hiện nay,
đã có nhiều VKS địa phương đã ban
hành Quy chế phối hợp hoạt động giữa
các đơn vị làm công tác THQCT và kiểm
sát các hoạt động tư pháp, trong đó quy
định cụ thể, rõ ràng quyền hạn, trách
nhiệm của từng đơn vị trong quá trình
thực hiện chức năng, nhiệm vụ chung.
Tuy nhiên, để làm tốt công tác này,
VKSNDTC cần phối hợp với các ngành
Công an, Toà án để ban hành quy chế
phối hợp nhằm thực hiện thống nhất
giữa các ngành, các cấp, trong đó cần
đặc biệt nhấn mạnh quan hệ phối hợp
với CQĐT.
Đối với các vụ án chống người thi
hành công vụ trên địa bàn các thành phố
trực thuộc Trung ương, chiếm tỷ lệ lớn là
các tình huống xử lý vi phạm trật tự an
toàn giao thông, lực lượng bắt giữ, lấy
lời khai ban đầu là Cảnh sát giao thông,
Cảnh sát trật tự, Công an phường, xã
tiến hành. Đây là các lực lượng không
chuyên trách về hoạt động điều tra nên
lời khai ban đầu thông thường còn sơ
sài, một số trường hợp chưa đúng thủ
tục tố tụng nên việc khắc phục rất khó
khăn. Từ thực tế đó, cần phải có những
giải pháp có tính khả thi cao, phù hợp
điều kiện, tình hình thực tế.
VKS chủ trì phối hợp với CQĐT tổ
chức hội nghị rút kinh nghiệm những
vi phạm trong quá trình điều tra đối
với Công an các phường, xã, trạm và
các lực lượng khác như Cảnh sát giao
thông, Cảnh sát trật tự trong việc thông
tin báo cáo về tội phạm chống người thi
hành công vụ, bảo vệ hiện trường, lấy
lời khai ban đầu của đối tượng, người
làm chứng hoặc các thủ tục tố tụng khác
như: lập biên bản bắt người phạm tội
quả tang, thu giữ vật chứng... để bảo
đảm quá trình xử lý sau này đúng pháp
luật, không bỏ lọt tội phạm, không làm
oan người vô tội, hạn chế đến mức thấp
nhất các vi phạm do việc lập hồ sơ ban
đầu dẫn đến CQĐT mất nhiều công sức
để khắc phục. Khi nghiên cứu hồ sơ vụ
án chống người thi hành công vụ, KSV
được phân công làm công tác KSĐT
phải nghiên cứu thật kĩ các biên bản lấy
lời khai, các tài liệu có trong hồ sơ vụ án,
từ đó phát hiện kịp thời các vi phạm và
yêu cầu CQĐT khắc phục. CQĐT trong
quá trình điều tra vụ án, ngoài thu thập
các chứng cứ buộc tội, các tình tiết tăng
nặng còn phải điều tra, xác định các tình
tiết gỡ tội, các tình tiết giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự của bị can. Xây dựng quy
chế phối hợp giữa CQĐT và VKS về việc
tham gia bắt buộc của KSV trong khi
ĐTV tiến hành hỏi cung bị can, lấy lời
khi của người làm chứng.
Bên cạnh đó, VKS các địa phương
cần tăng cường đầu tư cơ sở vật chất,
kinh phí, phương tiện làm việc, đẩy
mạnh ứng dụng công nghệ thông tin.
NGUYỄN TOÀN THẮNG
31Số 03 - 2020 Khoa học Kiểm sát
Từng bước hiện đại hóa cho ngành
Kiểm sát, bảo đảm cho các VKSND có
đủ điều kiện để hoàn thành nhiệm vụ
và có chế độ, chính sách hợp lý đối với
cán bộ trực tiếp làm công tác THQCT và
KSĐT các vụ án chống người thi hành
công vụ. Nghiên cứu chính sách tiền
lương, phụ cấp và chính sách đãi ngộ
phù hợp cho cán bộ ngành Kiểm sát,
trong đó đặc biệt quan tâm tới các KSV
trực tiếp làm công tác THQCT và kiểm
sát việc tuân theo pháp luật trong giai
đoạn điều tra.
Theo quy định của BLTTHS, VKS
giữ vai trò rất lớn, quyết định trong hoạt
động THQCT và kiểm sát các hoạt động
tư pháp ở giai đoạn điều tra. Trư ớc các
yêu cầu của cải cách tư pháp, vai trò và
trách nhiệm của VKS tăng lên rất nhiều.
Ví dụ, theo yêu cầu của VKSNDTC, để
bảo đảm thi hành tốt các quy định của
BLTTHS, VKS phải tham gia kiểm sát
việc khám nghiệm hiện trư ờng, tăng
cư ờng phối hợp với Toà án tổ chức các
phiên toà xét xử l ưu động, tăng cường
kiểm sát trực tiếp tại các nơi tạm giữ,
tạm giam, trại tạm giam, trại giam. Để
thực hiện tốt các hoạt động này, việc
tăng cường trang bị phư ơng tiện giao
thông, liên lạc cho VKS các cấp ở địa
phư ơng là cần thiết. Trư ớc tình hình như
vậy, việc tăng cư ờng đầu tư các phư ơng
tiện đi lại, trang thiết bị khoa học, công
nghệ cao là hết sức cần thiết, bảo đảm
cho hoạt động THQCT và kiểm sát các
hoạt động tư pháp ở giai đoạn điều tra
đạt chất lư ợng hiệu quả cao hơn.
VKSND các thành phố trực thuộc
Trung ương có thể nghiên cứu, đề nghị
Nhà nước phân bổ kinh phí cho ngành
Kiểm sát theo định mức riêng đối với
đơn vị ngành dọc. Lý do vì ngành Kiểm
sát có nhiều hoạt động đặc thù so với cơ
quan hành chính sự nghiệp nói chung
và các cơ quan tư pháp nói riêng nhưng
chưa cụ thể hoá được thành chế độ chi.
Do tiền lương, phụ cấp cho các KSV
chiếm tỷ lệ lớn trong định mức phân bổ
cho ngành Kiểm sát nên đề nghị Nhà
nước phân bổ cho ngành Kiểm sát theo
định mức riêng; phối hợp với Bộ Tài
chính và các cơ quan có liên quan để xây
dựng các thông tư liên tịch về chế độ
chi cho công tác điều tra một số tội xâm
phạm hoạt động tư pháp thuộc chức
năng của VKSND, cho công tác kiểm
sát khám nghiệm hiện trường, cho nhân
chứng và chi cho việc mời luật sư tham
gia bào chữa đối với các trường hợp bắt
buộc. Một số hoạt động đặc thù khác
đã có chế độ chi, ngành Kiểm sát cần
nghiên cứu để đề xuất với các cơ quan
và cấp có thẩm quyền để thay đổi mức
chi theo hướng tăng cho phù hợp với
tình hình thực tế hiện nay (khối lượng,
chất lượng công việc, biến động của giá
cả thị trường...).
Trong giai đoạn hiện nay, việc đầu
tư cơ sở vật chất, trang thiết bị làm việc
và phương tiện nghiệp vụ có vai trò
rất quan trọng trong việc hoàn thành
cũng như nâng cao chất lượng hoạt
động THQCT&KSĐT. Trong tiến trình
cải cách tư pháp hiện nay, vấn đề đầu
tư trụ sở làm việc, đầu tư trang thiết
bị, phương tiện cần phải được lãnh
đạo VKSNDTC, các cấp ủy Đảng, chính
quyền địa phương quan tâm để đầu tư
có trọng tâm, trọng điểm, tập trung vào
các VKS địa phương có khối lượng công
việc lớn.
Bên cạnh đó, việc nghiên cứu đổi mới
chế độ tiền lương, phụ cấp cho cán bộ
KSV; xây dựng chế độ định mức, giao chỉ
tiêu cụ thể cho KSV phải giải quyết bao
nhiêu vụ án/tháng là vô cùng quan trọng,
từ đó làm căn cứ xây dựng biên chế, xác
định chế độ cho cán bộ, KSV; nâng cao đời
sống cán bộ, KSV, giúp họ yên tâm công
tác, tập trung toàn bộ sức lực, trí tuệ thực
hiện tốt công việc được giao./.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- thuc_trang_thuc_hanh_quyen_cong_to_va_kiem_sat_dieu_tra_vu_a.pdf