Thực trạng và hiệu quả hoạt động môi giới chứng khoán tại công ty trách nhiệm hữu hạn chứng khoán ngân hàng công thương Việt Nam

Bên cạnh đó, chương 2 cung cấp phần quan trọng nhất của khoá luận đó là thực trạng hoạt động MG tại công ty trong hơn hai năm hoạt động ở cả chi nhánh và trụ sở chính qua đó đánh giá những kết quả đạt được – nguyên nhân, những mặt còn tồn tại của công ty và nguyên nhân từ đó làm cơ sở cho việc đưa ra các giải pháp và một số kiến nghị nhằm thúc đẩy nghiệp vụ MGCK của công ty hoạt động hiệu quả và phát triển.

doc40 trang | Chia sẻ: ndson | Lượt xem: 1268 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Thực trạng và hiệu quả hoạt động môi giới chứng khoán tại công ty trách nhiệm hữu hạn chứng khoán ngân hàng công thương Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nhân viên dầy dạn kinh nghiệm và tinh thông nghiệp vụ. Đội ngũ nhân viên của CTCK cần phải được đảm bảo vừa là sản phẩm của một nền đào tạo chính quy, có bề dầy năm tháng đồng thời là sản phẩm của một môi trường tài chính phát triển đến một độ chín muồi nhất định mới đảm bảo cho việc điều hành quản lý và thực hiện nghiệp vụ của công ty có kết quả như mong muốn. Tuy nhiên, trong thời gian vừa qua CTCK Công thương còn thiếu một đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý và cán bộ nghiệp vụ có kinh nghiệm kinh doanh thương trường. Một số nghiệp vụ của công ty còn thiếu cán bộ chủ chốt như nghiệp vụ tư vấn, phân tích, tự doanh, quản lý danh mục đầu tư. Vì vậy, trong thời gian tới vấn đề đào tạo kinh nghiệm chuyên môn cũng như kỹ năng nghiệp vụ cho đội ngũ nhân viên vừa là một việc làm tất yếu vừa là một thách thức lớn lao đối với công ty. Doanh thu không đủ bù đắp chi phí. Nhìn lại quá trình hoạt động trong hơn hai năm qua, các phiên giao dịch hầu như chỉ vào khoảng 3 – 5 tỷ VND, trong giai đoạn hiện nay giá trị giao dịch của các phiên chỉ đạt xấp xỉ 2 tỷ đồng với mức phí dao động từ 0.4 – 0.5% thì doanh thu MG của toàn thị trường đạt khoảng 6 – 10 triệu đồng/phiên. Giả sử chia đều cho các công ty thì mỗi công ty thu khoảng 1 triệu/phiên trong khi mỗi phiên giao dịch công ty phải chi ít nhất là 1 triệu tiền điện thoại, thêm vào đó là các chi phí khác như tiền lương, tiền thuê sàn, tiền mua sắm tài sản cố định… Như vậy, thực tế thời gian đầu, các CTCK đều bị lỗ, cho đến quý2, quý 3 năm 2001 khối lượng giao dịch có tăng, các công ty mới hoà hoặc có thu chút ít. Đến giai đoạn hiện nay giá trị giao dịch mỗi phiên lại rất thấp, các công ty tiếp tục rơi vào tình trạng khó khăn bởi vì nguồn thu chủ yếu của công ty là dựa vào nghiệp vụ MGCK. 2.2.2.2. Những thuận lợi cơ bản. Bên cạnh những khó khăn vừa nêu, CTCK Công thương cũng có những thuận lợi quan trọng cho quá trình phát triển hoạt động kinh doanh của công ty, đó là: - Nhìn chung, trong hai năm vừa qua tình hình kinh tế – xã hội đất nước là thuận lợi cho sự phát triển của TTCK. Nhịp độ tăng trưởng GDP của nền kinh tế vẫn được duy trì tương đối ổn định, năm sau cao hơn năm trước (2001 đạt 6,8%; 2002 đạt 7,04%) và được xếp vào nhóm ba nước có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất thế giới đó là Hàn Quốc – 7% và Trung Quốc – 8%. Các chỉ số kinh tế vĩ mô như lạm phát, tỷ giá hối đoái, cán cân thanh toán, bội chi ngân sách, tỷ trọng đầu tư/GDP, mức thu hút vốn đầu tư nước ngoài… tiếp tục đạt như dự kiến. Khi GDP tăng trưởng ổn định, chỉ số TTCK cũng tăng trưởng ổn định theo. Điều này sẽ tạo ra môi trường đầu tư hấp dẫn cho các cá nhân trong nước cũng như nước ngoài. Hơn nữa, triển vọng tăng trưởng GDP trong những năm tới là chắc chắn do Việt Nam là nước sống hoà bình, có dầu lửa xuất khẩu và có lương thực thực phẩm. - Quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước được diễn ra mạnh mẽ trong các năm vừa qua. Tính đến nay đã có khoảng 965 doanh nghiệp được cổ phần hoá. Hầu hết các doanh nghiệp sau khi cổ phần hoá đều có tình hình sản xuất kinh doanh tương đối khả quan, thu nhập của người lao động gia tăng, việc làm được bảo đảm, lợi nhuận cao. Tiến trình cổ phần hoá vẫn tiếp tục được quan tâm thúc đẩy từ trung ương đến các địa phương và ở các bộ ngành. Việc các công ty cổ phần hoá hoạt động kinh doanh hiệu quả có ý nghĩa rất quan trọng đối với các CTCK cũng như TTCK vì đây là các chủ thể quan trọng cung cấp hàng hoá cho thị trường. Tuy nhiên, để thu hút, khuyến khích được các doanh nghiệp này tham gia niêm yết trên TTCK là công việc mà các CTCK hiện nay đang hết sức quan tâm. - TTCK non trẻ đã tạo ra những bước tập dượt ban đầu cho các CTCK. Nhận thức của công chúng đầu tư đối với TTCK đang dần có sự thay đổi. Những cải thiện quan trọng trong khuôn khổ pháp lý trong nước và trong quan hệ đối ngoại đã tạo điều kiện cho môi trường kinh doanh có thêm xung lực mới đặc biệt là khu vực tư nhân. - TTCK Việt Nam ra đời khi TTCK trên thế giới đủ phát triển mạnh, đặc biệt là TTCK của một số nước như Mỹ, Anh, Nhật, Hồng Kông, Thái Lan, Hàn Quốc, Singapo. Với một bước đi trước của các nước về sự ra đời và phát triển TTCK đã tạo thuận lợi cho nước ta. Chúng ta có thể học hỏi được kinh nghiệm, phát huy được những tiến bộ khoa học kỹ thuật trong lĩnh vực CK phù hợp với điều kiện kinh tế của đất nước. - CTCK Công thương còn có một thế mạnh khác, tạo ưu thế cho mình khi bắt đầu tham gia hoạt động. Đó là công ty được đầu tư 100% vốn từ Ngân hàng Công thương Việt Nam. CTCK Công thương ra đời cũng được thừa hưởng bề dầy của ngân hàng mẹ với mạng lưới các chi nhánh rộng khắp trên các tỉnh, thành phố lớn trong cả nước, có quan hệ đại lý với các ngân hàng, các tổ chức tài chính và đang tài trợ cho nhiều dự án lớn. Thực trạng, hiệu quả hoạt động môi giới chứng khoán tại công ty chứng khoán Ngân hàng Công thương Sự cần thiết hình thành và phát triển nghiệp vụ môi giới chứng khoán. Cũng giống như tất cả các CTCK khác, CTCK Công thương ra đời nhằm mục đích hoạt động kinh doanh thu lợi nhuận thông qua các nghiệp vụ mà công ty thực hiện theo quy định của UBCKNN bao gồm: môi giới, tư vấn, tự doanh, quản lý danh mục đầu tư, bảo lãnh, thanh toán bù trừ và lưu ký CK trong đó hoạt động MG luôn được công ty chú trọng ngay từ khi công ty mới đi vào hoạt động cho đến ngày nay. Sở dĩ nghiệp vụ này được công ty đánh giá cao là vì nó ít rủi ro, vốn pháp định không cao, hoạt động lại có hiệu quả. Trong các nghiệp vụ kinh doanh của công ty thì nghiệp vụ MGCK luôn đem lại cho công ty nguồn thu nhập lớn nhất. Vì vậy, hình thành và phát triển nghiệp vụ MGCK là điều rất cần thiết đối với công ty. Hơn nữa, bản chất của TTCK là hoạt động theo nguyên tắc trung gian trong đó nhà MGCK là những người thường xuyên xuất hiện trên Sàn. Họ là người trực tiếp giao dịch với khách hàng, làm cho cung và cầu gặp nhau và quá trình mua bán được diễn ra nhanh chóng, thuận lợi và tiết kiệm. Một trong những thành công của CTCK là thu hút ngày càng nhiều khách hàng, tạo niềm tin trong họ cũng như gây dựng được hình ảnh tốt đẹp của công ty trong lòng công chúng đầu tư vì đây được coi là đối tượng quan trọng có tiềm năng to lớn về vốn đầu tư và được coi là nguồn cung cấp vốn chủ yếu cho TTCK. Muốn thu hút được lực lượng này tham gia vào thị trường cần phải nâng cao hiểu biết cho họ, quan trọng hơn là phải tạo lòng tin của họ vào thị trường. Để làm được điều đó, không ai khác mà chính là nhờ vào một phần rất lớn công sức của các nhà MGCK. Trong điều kiện TTCK còn rất non trẻ như hiện nay thì lòng tin của công chúng đầu tư là yếu tố rất quan trọng, quyết định đến sự thành bại của TTCK. Một khi lòng tin của công chúng đầu tư bị đổ vỡ thì việc kéo họ trở lại với thị trường là hết sức khó khăn. Vì thế, ngay từ đầu, CTCK với chức năng MG phải có kỷ cương nghiêm minh, nhân viên của công ty, đặc biệt là các đại diện MG, phải được trang bị đầy đủ về tri thức, kỹ năng hành nghề và đạo đức nghề nghiệp. Nếu không kiên định với việc xây dựng những tiêu chí này thì sẽ không thể xoá bỏ được ấn tượng xấu về cái gọi là “nghề chỉ trỏ” đã từng hằn sâu trong xã hội, không thể tạo dựng một khuôn mặt của một người MG tài chính trung thực, giỏi nghề và tận tuỵ với khách hang và vì thế không thể xây dựng thành công TTCK. Trong tương lai không xa, khi TTCK đã bước qua thời kỳ sơ khai và đi vào giai đoạn phát triển, sản phẩm dịch vụ dồi dào về số lượng, đa dạng, phong phú về chủng loại, tinh tế và nhạy cảm trong vận hành chức năng thì đòi hỏi việc cung cấp cho nhà đầu tư những thông tin cần thiết, những ý tưởng đầu tư, những lời khuyên mang tính thời điểm hay mang tính chiến lược và giúp cho nhà đầu tư thực hiện các giao dịch theo cách có lợi nhất là mục đích hoạt động của công ty. Để thực hiện điều đó, việc thúc đảy hoạt động MGCK phát triển mang tính chuyên nghiệp cao là rất cần thiết đối với công ty ngay cả trong thời điểm hiện nay. Với những lý do trên đây, có thể thấy MGCK là hoạt động rất quan trọng đối với một CTCK. Đây không chỉ là một khâu bắt buộc phải có trong quá trình giao dịch mà còn là một nguồn chỉ dẫn, tư vấn, chăm sóc rất hữu ích đối với người đầu tư. Nhận thức được tầm quan trọng như vậy nên tất cả các CTCK Việt Nam ngay từ khi thành lập đều thực hiện nghiệp vụ này và coi đây là nghiệp vụ chủ lực trong cạnh tranh giữa các CTCK. Vì vậy việc hình thành và phát triển nghiệp vụ MGCK tại các CTCK là rất cần thiết trong đó CTCK Công thương không phải là trường hợp ngoại lệ. Cơ sở pháp lý điều chỉnh hoạt động môi giới chứng khoán. Cho đến nay, UBCKNN cũng chưa đưa ra một văn bản pháp lý nào điều chỉnh riêng hoạt động MGCK. Do hệ thống pháp lý về CK và TTCK Việt Nam còn nhiều bất cập, chưa có một bộ luật cụ thể về CK và TTCK mà chỉ đang nằm quá trình điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung theo từng giai đoạn hoạt động của thị trường. Vấn đề này cũng gây ra rất nhiều khó khăn đối với các CTCK đặc biệt đối với những nghiệp vụ dễ gây ra những tranh chấp và xung đột về lợi ích như nghiệp vụ MGCK. Dù chưa có quy chế riêng về hoạt động MGCK nhưng các CTCK thực hiện nghiệp vụ này cũng chịu sự điều chỉnh chung theo các quy định, quy chế, nghị định mà UBCKNN đã ban hành như: Nghị định 48/1998/NĐ- CP ngày 11/07/1998 của Chính phủ về CK và TTCK. Quy chế về tổ chức và hoạt động của CTCK (ban hành kèm theo Quyết định số 04/1998/QĐ- UBCK3 ngày 13/10/1998 của Chủ tịch UBCKNN) Quy chế thành viên, niêm yết, công bố thông tin và giao dịch CK (ban hành kèm theo Quyết định sôư 04/1999/QĐ- UBCK1 ngày 27/03/1999 của Chủ tịch UBCKNN). Quyết định số 42/2000/QQĐ- UBCK1 ngày 12/06/2000 của Chủ tịch UBCKNN về việc sửa đổi, bổ sung một số điều trong Quy chế thành viên, niêm yết, công bố thông tin và giao dịch CK ban hành kèm theo Quyết định số 04/1999/QĐ- UBCK1 ngày 27/03/1999 của Chủ tịch UBCKNN. Thông tư số 01/2000/TT- UBCK1 ngày 17/04/2000 của UBCKNN hướng dẫn tạm thời chế độ thu phí đối với khách hàng của các tổ chức kinh doanh dịch vụ CK. Nguyên tắc hoạt động môi giới chứng khoán. Trong mỗi lĩnh vực công việc cụ thể, cán bộ nhân viên đều phải tuân thủ theo những nguyên tắc hoạt động nhất định. Qua đó, sẽ đánh giá được cả về trình độ chuyên môn cũng như đạo đức của một nhân viên hành nghề. Đối với lĩnh vực CK, dù còn hết sức mới mẻ tuy nhiên, để hoạt động kinh doanh của các CTCK đạt hiệu quả thì tất cả các nhân viên CK đều phải tuân thủ theo các nguyên tắc hoạt động nhất định. Mục đích của các nguyên tắc này là nhằm bảo vệ quyền lợi cho các nhà đầu tư và đảm bảo rằng nhân viên tiến hành giao dịch CK của mình theo cách thức hợp lý nhằm góp phần duy trì một thị trường công bằng và có trật tự. Các nguyên tắc hoạt động của nghiệp vụ MGCK bao gồm: Giao dịch trung thực và công bằng. Trong quá trình thực hiện giao dịch mua bán CK cho khách hàng cũng như việc thực hiện các hoạt động về CK thay mặt khách hàng, nhân viên MG cần phải đảm bảo tính độc lập, công khai và không thiên vị. Họ không được đòi hỏi, nhận, mời hay cho tặng bất kỳ một món quà biếu hay hối lộ nào từ phía khách hàng hoặc dành cho khách hàng nhất là các khách hàng tiềm năng nhằm mưu cầu một sự đối sử ưu đãi và thiên vị so với các đối tượng khác. Ngoài ra, khi tính các loại phí nhân viên MG không được tính vượt quá mức phí cho phép trong từng trường họp cụ thể ví dụ như mức phí dịch vụ MG tối đa không vượt quá 0,5% trị giá giao dịch cổ phiếu, chứng chỉ quỹ đầu tư và tối đa không quá 0,15% giá trị giao dịch trái phiếu (áp dụng từ ngày 29/11/2000). Kinh doanh có kỹ năng, tận tuỵ, có tinh thân ftrách nhiệm. Nhân viên MG tài năng không chỉ là ngươig hội tụ đầy đủ các phẩm chất đạo đức nghề nghiệp mà còn phải nắm vững thành thục các kỹ năng hành nghề cơ bản như kỹ năng tìm kiếm khách hàng, kỹ năng truyền đạt thông tin, kỹ năng khai thác thông tin, kỹ năng bán hàng. Sử dụng thành thạo các kỹ năng này sẽ giúp cho các nhà MG nâng cao trình độ nghiệp vụ, chia sẻ những kiến thức và hiểu biết của mình cho khách hàng từ đó thoả mãn tốt nhất lợi ích tài chính cho họ. Một nhà MG thành công còn là người có tinh thần trách nhiệm cao, tận tuỵ với khách hàng, coi lợi ích của khách hàng cũng chính là lợi ích của mình, cùng vui với niềm vui và cùng chia sẽ với những nỗi buồn của họ. Có đủ đội ngũ nhân viên MG có năng lực, đã qua đào tạo và tuyển chọn. Trước hết, nhân viên phải nắm vững và luôn tuân thủ các luật lệ, quy chế, quy định hiện hành liên quan đến giao dịch kinh doanh CK. Trong quá trình giao dịch với khách hàng họ phải thể hiện là nhân viên có đủ năng lực cần thiết bao gồm cả việc được đào tạo hoặc có kinh nghiệm chuyên môn phù hợp để có thể làm việc tốt ở vị trí được giao phó. Đơn vị quản lý luôn phải đảm bảo các nhân viên được chỉ định giao dịch với khách hàng phải có những chuẩn mực nghề nghiệp về tính liêm chính và công bằng. Mặt khác, họ phải có các thủ tục kiểm soát nội bộ thoả đáng và có năng lực nghiệp vụ, tài chính để cho phép tiến hành hợp thức việc kinh doanh của mình và để có thể bảo vệ việc kinh doanh cũng như khách hang khỏi những thất thoát về tài chính do trộm cắp, gian lận, các hành vi không trung thực khác và các thiếu sót và sai phạm về nghiệp vụ gây ra. Ưu tiên thực hiện lệnh của khách hàng trước khi thực hiện lệnh của công ty. Nhân viên phải xử lý các lệnh của khach shàng một cách công bằng và theo thứ tự thời gian nhận được chúng, và phải đảm bảo rằng trong mọi trường hợp các lệnh của khách hàng phải được ưu tiên hơn so với các lệnh của chính công ty. Nếu nhân viên gộp đơn của khách hàng này với đơn đặt hàng của khách hang khác hoặc với đơn đặt hàng của chính công ty thì nhân viên phải ưu tiên thực hiện trước các đơn đặt hàng của khách hàng bất kể thứ tự trước sau trong trường hợp không thể thực hiện được tất cả các đơn đặt hang. Không tiến hành các hoạt động có thể làm cho khách hàng và công chúng hiểu lầm về giá cả, giá trị và bản chất của CK hoặc các hoạt động khác gây thiệt hại cho khách hang. Công khai về thông tin cho khách hang. Trước hết, nhân viên phải cung cấp cho khách hàng những thông tin đầy đủ về công ty của mình, các điều kiện thuận lợi cũng như hạn chế liên quan đến quyết định đầu tư của khách hàng. Bên cạnh đó, tất cả các thoả thuận về việc cung cấp dịch vụ giữa nhân viên và khách hàng phải được viết bằng văn bản và phải quy định đầy đủ, chi tiết. Sau khi thực hiện giao dịch cho khách hàng, nhân viên phải cố gắng nhanh chóng xác nhận với khách hàng những đặc điểm chính của giao dịch như ngày, giờ giao dịch, tên của các CK có liên quan, giá tiền phải trả hoặc được nhận và số lượng mua vào hay bán ra. Trong trườn hợp nhân viên thực hiện giao dịch với khách hàng họ phải công khai hoá tất cả các dữ liệu có liên quan và các thông tin chi tiết về phí dịch vụ đi kèm. Và bất kỳ thông báo nào do nhân viên cung cấp cho khách hang liên quan tới các giao dịch phải đưọc công khai một cách rõ ràng, minh bạch, đầy đủ và chính xác. Xung đột về lợi ích. Trong trường hợp nhân viên có một lợi ích trong một giao dịch với khách hàng hoặc có mối quan hệ sẽ làm nảy sinh xung đột về lợi ích, họ phải tự giác không được làm tư vấn cho khách hàng hoặc thực hiện các giao dịch đó trừ khi họ đã công khai hoá cho khách hàng biết lợi ích đó và được khách hàng chấp thuận trước khi tiến hành vụ giao dịch và nhân viên cũng phải đảm bảo rằng họ đã làm mọi việc để khách hang được đối xử công bằng. Tuân thủ các quy định pháp luật. Nhân viên phải chấp hành pháp luật, thực hiện và duy trì các biện pháp thích hợp để đảm bảo việc chấp hành pháp luật, các nguyên tắc của UBCKNN, TTGDCK và yêu cầu của các cơ quan quản lý đối với mình. Họ phải đảm bảo những khiếu nại của khách hàng về những vấn đề liên quan tới lĩnh vực hoạt động kinh doanh của công ty đều được xử lý nhanh chóng và phù hợp, điều tra và giải đáp nhanh chóng những khiếu nại này hoặc thông báo cho khách hàng những biện pháp tiếp theo mà khách hàng có thể sử dụng theo những quy định hiện hành. Nếu nhân viên nào vi phạm các quy định pháp luật thì hoàn toàn phải chịu trách nhiệm trước những hành vi của mình và bị xử lý, kỷ luật theo từng mức độ nặng, nhẹ mà mình gây ra. 2.3.4. Thực trạng, hiệu quả hoạt động môi giới chứng khoán tại CTCK Ngân hàng Công thương. Trải qua hơn hai năm hoạt động (11/2000), được sự quan tâm chỉ đạo của Ngân hàng Công thương Việt Nam, sự ủng hộ giúp đỡ của các cơ quan hữu quan, cùng với sự nỗ lực của toàn thể Ban lãnh đạo công ty cũng như cán bộ nhân viên, IBS đã từng bước vượt qua những khó khăn ban đầu, hoạt động kinh doanh của công ty dần đi vào ổn định. Với phương châm “hiệu quả kinh doanh của nhà đầu tư là mục tiêu của CTCK Công thương” công ty đã ngày càng thu hút được nhiều khách hang và nâng cao uy tín trên thị trường. Trong các nghiệp vụ mà công ty đang tiến hành thì MGCK được xem là chủ chốt ngay từ khi công ty được thành lập. Tuy mới hoạt động được hơn hai năm nhưng MGCK luôn tỏ ra là một nghiệp vụ hấp dẫn và mang lại hiệu quả cao đối với công ty. Hơn nữa, nghiệp vụ này cũng đang được phát triển nhanh chóng do được tiếp xúc với nhiều thông tin, với các thủ thuật kiếm tiền và với cả những kinh nghiệm học từ nước ngoài. Vì vậy, việc xem xét thực trạng hoạt động MGCK của công ty vào lúc này là rất cần thiết giúp cho việc định hướng phát triển hoạt động MG trở thành một nghiệp vụ có chất lượng, có uy tín và góp phần vào việc thúc đảy TTCK Việt Nam. Thực trạng, hiệu qủa hoạt động MGCK của IBS có thể được đánh giá qua nhiều tiêu thức khác nhau, tuy nhiên có thể nhìn nhận qua ba chỉ tiêu chính là: Số lượng tài khoản khách hàng mở tại công ty và tỷ trọng; thị phần cũng như doanh số giá trị giao dịch; doanh thu từ phí môi giới. Số lượng tài khoản khách hàng mở tại công ty và tỷ trọng. Qua hơn hai năm hoạt động, số lượng khách hàng đến công ty mở tài khoản không ngừng tăng lên, năm sau cao hơn năm trước. Điều này cho thấy dấu hiệu khả quan về hoạt động MG và hiệu quả mà hoạt động này mang lại ngay trong thời gian đầu. Công ty không chỉ giữ chân được các khách hàng cũ mà còn ngày càng thu hút thêm nhiều khách hàng mới, tạo niềm tin đối với nhà đầu tư và nâng cao uy tín,vị thế của công ty trên thị trường. Có thể đánh giá vấn đề này thông qua các bảng biểu số liệu sau: Bảng 1: Tài khoản mở tại IBS năm 2001 Kế hoạch Thực hiện Tăng/giảm (+/-) Số tài khoản đến 31/12/2001 Trụ sở chính 100 240 +140,0% 304 Chi nhánh 80 150 +87,5% 170 Toàn công ty 180 390 +116,7% 474 (Nguồn: Báo cáo tổng kết hoạt động năm 2001) Biểu đồ 1: Số lượng tài khoản giao dịch mở thêm trong năm 2001 Nhìn vào bảng 1 cho thấy, trong năm 2001 IBS không những đạt chỉ tiêu kế hoạch đề ra mà còn vượt xa chỉ tiêu kế hoạch ở cả trụ sở chính và chi nhánh. Trong đó, số tài khoản tăng thêm tại trụ sở chính là 240 (tăng 140% so với kế hoạch), tại chi nhánh thành phố Hồ Chí Minh là 150 (tăng 87,5% so với kế hoạch) đưa tổng số tài khoản tăng thêm trong toàn công ty năm 2001 là 390 tài khoản (tăng 116,7% so với kế hoạch). Như vậy đến cuối năm 2000, công ty mới chỉ có 84 tài khoản trong đó tại trụ sở chính là 64 còn chi nhánh là 20 do công ty mới đi vào hoạt động được hơn một tháng. Tính đến cuối 2001 số tài khoản của toàn công ty đã lên tới 474 tài khoản, trong khi đó toàn thị trường có 8774 tài khoản giao dịch, do đó tỷ trọng số lượng tài khoản mở tại công ty so với thị trường đạt xấp xỉ 6%. Tuy nhiên, con số này còn hạn chế so với một số các CTCK khác như CTCK Sài Gòn chiếm tỷ trọng 27% với số lượng tài khoản mở cho khách hang trên 2000 tài khoản, CTCK Bảo Việt chiếm tỷ trọng 32% với gần 2500 tài khoản mở cho các cá nhân và tổ chức… Mặc dù vậy, hoạt động MG của công ty vẫn được đánh giá là có hiệu quả vì công ty đã đạt được chỉ tiêu thực tế cao hơn rất nhiều so với dự kiến. Qua biểu đồ 1 ta thấy trong quý 1 năm 2001 số tài khoản giao dịch mở thêm là 90, quý 2 là 147, quý 3 là 88 và quý 4 là 65 tài khoản. Số tài khoản tăng đần từ quý 1 đến quý 2 sau đó giảm dần trong quý 3 và quý 4. Trong quý 2 số tài khoản tăng mạnh là do vào thời điểm này chỉ số Vn – index đạt mức đỉnh điểm 571,04 điểm (phiên ngày 25/06/2001). Hơn nữa, TTCK mới đi vào hoạt động còn rất nhiều mới mẻ đối với công chúng đầu tư, hàng hoá trên thị trường còn khan hiếm, ban đầu mới chỉ có hai loại là REE và SAM sau đó tăng dần lên 5 loại hang hoá và số phiên giao dịch là 3 phiên/1 tuần vì vậy nhu cầu của nhà đầu tư tham gia giao dịch là lớn và tâm lý của nhà đầu tư bước đầu muốn làm quen, thử sức với sân chơi mới này. Nhận biết được điều đó, với mục tiêu phục vụ khách hang tốt hơn công ty đã không ngừng nâng cao chất lượng dịch vụ và đưa ra các dịch vụ mới. Ngày 12/09/2001 IBS chính thức kết hợp với NHTMCP Kỹ Thương (Techcombank) cung cấp dịch vụ ứng trước tiền bán CK, với mức phí ứng trước 0,035%/ngày/số tiền ứng trước công ty đã thực sự tạo được hình ảnh trong công chúng đầu tư. Bảng 2: Số tài khoản mở tại công ty năm 2002 Số tài khoản đến 31/12/2002 Tăng/giảm so với năm 2001 Số tài khoản (+/-) (%) Trụ sở chính 480 176 + 73,33 Chi nhánh 520 350 + 233,33 Toàn công ty 1000 526 + 134,87 (Nguồn: Báo cáo tổng kết hoạt động năm 2002) Tính đến 31/12/2002 có gần 1000 khách hàng mở tài khoản tại hai sàn giao dịch của công ty, tăng 134,87% so với năm 2001 (trong đó có 5 khách hàng là tổ chức và 1 khách hàng là người nước ngoài). Số tài khoản tại trụ sở chính là 480 tăng 176 tài khoản so với năm 2001 tỷ lệ tăng 73,33%, tại chi nhánh là 520 tăng 350 tài khoản so với năm 2001 tỷ lệ tăng 233,33%. Tại chi nhánh có số tài khoản tăng nhanh gấp hơn 2, 3 lần so với cùng kỳ là do vào quý 3 chi nhánh thực hiện tư vấn niêm yết được cho một công ty nên thu hút được nhiều cổ đông của họ mở tài khoản mua, bán CK. Thực trạng tình hình TTCK năm 2002 được đánh gía là một năm trầm lắng và buồn tẻ, tại hầu hết các CTCK quang cảnh giao dịch vắng vẻ, ảm đạm. Trong điều kiện khó khăn đó công ty đã ký kết được một số hợp đồng dịch vụ lưu ký và tư vấn cho một số nhà đầu tư lớn, nhờ vậy, công ty vẫn níu giữ được số khách hang truyền thống và thu hút thêm khách hàng mới đến mở tài khoản giao dịch. Hơn nữa, từ quý 2 công ty đã triển khai mạnh công tác tiếp thị như vào các sáng thứ 2 hàng tuần, IBS tổ chức các buổi thuyết trình miễn phí về tình hình thị trường giúp cho nhà đầu tư có những thông tin tổng thể và chuyên sâu về TTCK. Bên cạnh đó, công ty tiếp tục cung cấp các dịch vụ mới hỗ trợ cho nhà đầu tư CK như dịch vụ chuyển nhượng quyền nhận cổ tức (áp dụng từ ngày 22/10/2002), dịch vụ xác nhận số dư CK trên tài khoản khách hàng (áp dụng miễn phí từ ngày 31/10/2002). Đặc biệt từ 22/07/2002 IBS triển khai nhận lệnh từ xa đối với tất cả khách hàng của công ty qua fax và điện thoại tạo điều kiện cho nhà đầu tư đặt lệnh được nhanh chóng, chính xác và tiết kiệm. Vì vậy, trong điều kiện thị trường còn nhiều khó khăn, một số CTCK không tránh khỏi những tổn thất nhất định thì hoạt động MGCK của IBS vẫn được đánh giá là đạt hiệu quả và đem lại nguồn thu chủ yếu cho công ty. Nhìn chung lại, qua các số liệu trên cho thấy khách hàng đến với công ty ngày càng nhiều. Với việc đảm bảo các nguyên tắc cơ bản của TTCK cũng như các nguyên tắc về đạo đức nghề nghiệp, hình ảnh của công ty đã được nhiều người biết đến. Bên cạnh đó, dịch vụ tư vấn đầu tư cũng thực sự có hiệu quả đã góp phần thu hút được nhiều khách hang đến với công ty. Điều quan trọng hơn cả là tất cả các nghiệp vụ mà công ty thực hiện đều liên quan trực tiếp đến khách hàng và đã được khách hàng tin tưởng, hài lòng, uy tín của công ty được nhanh chóng truyền miệng từ người này sang người khác do đó số khách hàng đến với công ty mở tài khoản ngày càng nhiều. Giá trị doanh số giao dịch và thị phần. Trong năm 2001 với số lượng khách hàng đến mở tài khoản tại công ty vượt dự kiến cũng góp phần làm tăng giá trị doanh số giao dịch tại công ty. Có thể đánh giá thị phần giao dịch của công ty trong mối tương quan với toàn bộ thị trường và với một số CTCK khác như sau: Bảng 3: Doanh số giao dịch năm 2001 Giá trị GD (tỷ đồng) Thị phần kế hoạch (%) Thị phần thực tế (%) Tăng/giảm (+/-) Trụ sở chính 121,175 Chi nhánh 89,377 Toàn công ty 210,552 7 11,3 +4,3% (Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh năm 2001) Như vây, giá trị doanh số giao dịch trong năm 2001 của toàn công ty đạt 210,552 tỷ đồng chiếm 11,3% thị phần vượt 4,3% so với kế hoạch (kế hoạch 7%). Trong đó, giá trị giao dịch qua trụ sở chính là 121,175 tỷ đồng chiếm 57,55% toàn công ty và chi nhánh là 89,377 tỷ đồng chiếm 42,45% toàn công ty. Mặc dù thị phần của công ty còn thấp hơn một số công ty khác như CTCK Bảo Vịêt (25%), CTCK Sài Gòn hay CTCK ACBS…nhưng kết quả mà công ty đạt được trong năm vẫn được xem là có hiệu quả vì công ty đã hoàn thành vượt mức kế hoạch đề ra, hơn nữa nguyên nhân là do công ty đi vào hoạt động sau một số công ty khác vì vậy mà chậm trễ hơn trong việc thu hút khách hàng niêm yết cũng như đối với việc thu hút khách hàng đầu tư. Biểu đồ 2: Tình hình giao dịch năm 2001 Doanh số giao dịch Thị phần giao dịch (%) Trong quý 1, công ty mới đi vào hoạt động, số lượng khách hàng còn ít, chưa thu hút được các nhà đầu tư lớn nên thị phần giao dịch của công ty đạt thấp chỉ bằng 3,88% thị phần giao dịch chung tương ứng với 12,731 tỷ đồng. Tuy nhiên, sang quý 2, bằng các biện pháp thu hút khách hàng cùng với hiệu quả thực tế hoạt động đã dần tạo lập được uy tín của công ty, củng cố niềm tin trong lòng công chúng đầu tư nên đã có thêm nhiều khách hang đến mở tài khoản và giao dịch tại công ty đưa doanh số giao dịch đạt gần 100 tỷ đồng và chếm 17,34% thị phần. Cũng từ quý 2 năm 2001, công ty đã chủ động tìm đối tác để ký được hợp đồng cho vay ứng trước tiền bán CK, đầu tư mua gói tin từ TTGDCK cũng như tiếp tục điều chỉnh phần mềm truyền thông dữ liệu qua bảng điện tử đáp ứng nhu cầu và nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng. Bước sang các quý cuối năm, giá trị giao dịch toàn thị trường giảm, doanh số giao dịch tại công ty cũng giảm theo và đạt 63,212 tỷ chiếm 9,59% thị phần trong quý 3 và giảm xuống còn 34,624 tỷ trong quý 4 nhưng thị phần lại tăng lên 11,58%. Trong khi các CTCK đều đưa ra các biện pháp cạnh tranh nhằm thu hút khách hàng, IBS đã tiến hành nghiên cứu, cải tiến, xây dựng và ban hành được Quy trình nghiệp vụ MG; đẩy mạnh hoạt động tư vấn, phân tích CK tạo thuận lợi cho khách hàng và tăng cường công tác tiếp thị. Vì vậy, nghiệp vụ MG từng bước đi vào hoạt động ổn định và phát triển ngày càng có uy tín. Bước sang năm 2002 IBS đặc biệt quan tâm đến việc triển khai các biện pháp thu hút khách hàng. Tuy nhiên, trong bối cảnh khó khăn chung của toàn thị trường, giá trị doanh số giao dịch trong năm 2002 tiếp tục giảm mạnh. Giá trị giao dịch toàn công ty giảm xuống còn 162 tỷ đồng, giảm hơn 23,16% so với năm 2001 trong đó giá trị giao dịch tại trụ sở chính là 101 tỷ đồng chiếm 62,35% toàn công ty giảm 16,65% so với năm 2001, tại chi nhánh là 61 tỷ đồng chiếm 37,65% toàn công ty và giảm 31,11% so với năm 2001. Bảng 4: Giá trị doanh số giao dịch trong năm 2002 Doanh số GD (tỷ đồng) Tăng/giảm so với năm 2001 Giá trị (%) Trụ sở chính 101,000 - 20,175 - 16,65 Chi nhánh 61,000 - 28,000 - 31,11 Toàn công ty 162,000 - 48,175 - 23,16 (Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh năm 2002) Bảng 5: Thị phần giao dịch trong năm 2002 Thị phần giao dịch (%) Tăng/giảm so với năm 2001 (%) Trụ sở chính 5,04 - Chi nhánh 3,00 - Toàn công ty 8,04 - 3,03 (Nguồn: Báo cáo tổng kết kinh doanh năm 2002) Thị phần giao dịch của công ty giảm từ 11,3% xuống còn khoảng 8,04% năm 2002. Trong năm 2002 doanh số giao dịch thực tế chung chỉ đạt 41% tổng giá trị thị trường của 19 loại cổ phiếu niêm yết, mặc dù tổng khối lượng tài khoản giao dịch của toàn thị trường đạt khoảng 13000 tài khoản nhưng trong đó chỉ có khoảng 1000 tài khoản là thường xuyên giao dịch, có rất nhiều tài khoản đã hết tiền ký quỹ và CK lưu ký, tỷ lệ tài khoản thực tế giao dịch ít khi vượt quá 50% tổng lượng tài khoản được mở. Bên cạnh đó, lượng giao dịch thoả thuận (có tác động nhỏ đến chỉ số chung) chiếm tỷ trọng 20 – 25% thị trường, lại tập trung chủ yếu ở các CTCK đã triển khai có kết quả dịch vụ tư vấn niêm yết. Trong điều kiện thị trường đi xuống và có sự cạnh tranh gay gắt giữa các CTCK thì đây là lý do chủ yếu gây tụt giảm thị phần của IBS. Doanh thu từ phí môi giới. Ngay từ khi đi vào hoạt động, phí MG luôn là nguồn thu lớn nhất của công ty, doanh thu từ phí MG không ngừng tăng lên. Điều này có được là do công ty chú trọng nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ, thực hiện giảm phí MG trong cạnh tranh nhằm thu hút công chúng đầu tư. Số lượng tài khoản của công ty tăng lên qua các năm, giá trị doanh số giao dịch lớn kéo theo doanh thu từ phí MG cũng tăng theo. Trong tháng 12/2000, doanh thu MG mới chỉ đạt 4 triệu đồng vậy mà đã tăng đến 202 triệu đồng trong tháng 6/2001 (tăng 45 lần). Bảng 6: Phí MG trong năm 2001 Kế hoạch (triệu đồng) Phí môi giới (triệu đồng) Tăng/giảm (+/-) (%) Trụ sở chính 200,000 367,960 + 83,98 Chi nhánh 254,800 443,455 + 74,04 Toàn công ty 454,800 811,415 + 78,41 (Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh năm 2001) Tính trong cả năm 2001, toàn công ty thu được 811,415 triệu đồng phí MG vượt 78,41% so với kế hoạch, chiếm 64,9% thu nhập kinh doanh CK chung gồm cả lãi tự doanh và cổ tức, trái tức; bằng 22,2% thu nhập toàn công ty. Trong đó, trụ sở chính thu được 367,960 triệu đồng chiếm 45,35% tổng số, chi nhánh là 443,455 triệu đồng chiếm 54,65% tổng số. Cụ thể doanh thu MG của công ty tăng dần lên theo các quý. Tính đến ngày 31/03 công ty mới chỉ đạt 61,436 triệu đồng phí MG, đến cuối tháng 6 đã tăng lên 391,696 triệu, đến cuối tháng 9 là 675,574 triệu và đến ngày 31/12 doanh số MG đạt 811,415 triệu. Tại trụ sở chính mức doanh thu cao hơn trong quý 1 và quý 2 nhưng sang hai quý tiếp theo thì doanh thu tại chi nhánh lại chiếm ưu thế (Biểu đồ 3). Mức phí MG thu được phụ thuộc chặt chẽ diễn biến doanh số giao dịch qua công ty. Việc thu hút được khoản phí trên trong năm đầu hoạt động là một dấu hiệu đáng khích lệ bởi riêng nguồn thu phí MG đã bằng 141,27% lương, thu nhập của cán bộ nhân viên và chiếm 37% chi phí thường xuyên gộp lại của toàn công ty. Biểu đồ 3: Phí môi giới trong năm 2001 Đồ thị 1: Phí môi giới của các CTCK (tính đến 12/2001) Đơn vị: Triệu đồng (Nguồn: Báo cáo tổng kết của Uỷ ban chứng khoán Nhà nước) ở đây, ta đánh giá thực trạng doanh thu môi giới của công ty trong mối quan hệ với các CTCK khác trên thị trường. Nhìn vào đồ thị 1 thấy các CTCK đều đạt doanh thu MG cao vào quý 2 và quý 3. Trong những tháng đầu hoạt động, do khối lượng hàng hoá còn khan hiếm cho nên tổng giá trị giao dịch còn nhỏ vì vậy các CTCK chiếm thị phần lớn cũng chỉ thu được khoảng 30 – 70 triệu đồng tiền phí giao dịch hàng tháng, một số công ty thậm chí không thu nổi đến 10 triệu đồng phí MG trong 1 tháng. Do khối lượng giao dịch tăng dần lên trong những tháng tiếp theo nên hầu hết các CTCK đều có sự gia tăng đáng kể doanh thu MG. Tính đến tháng 6/2001, hầu hết các CTCK đều đạt doanh thu MG trên 100 triệu đồng trừ CTCK Đệ Nhất do giá trị giao dịch thấp nên chỉ thu được trên 50 triệu tiền phí MG. Các CTCK đạt doanh thu MG cao là CTCK Bảo Việt đạt 389 triệu đồng tăng 9,7 lần so với tháng 8/2000, CTCK Sài Gòn đạt 373 triệu đồng tăng 5,4 lần so với tháng 8/2000, CTCK ACB đạt 220 triệu đồng tăng hơn 7 lànn so với tháng 8/2000. Đặc biệt một số CTCK đã có sự gia tăng đáng kể doanh thu MG so với tháng đầu hoạt động như CTCK Thăng Long tăng gần 12 lần (từ 8 triệu trong tháng 8/2000 tăng đến 104 triệu trong tháng 6/2001), CTCK Công thương tăng 45 lần (từ 4 triệu trong tháng 12/2000 đến 202 triệu trong tháng 6/2001). Như vậy, tính đến cuối năm 2001 tổng doanh thu của các CTCK là 35,153 tỷ đồng trong đó doanh thu từ hoạt động MG là 9,238 tỷ đồng (quý 1 là 1,5 tỷ; quý 2 là 2,815 tỷ; quý 3 là 3,2 tỷ, quý 4 là 1,9 tỷ) trong đó CTCK Công thương đạt 811,415,triệu đồng chiếm 8,78% thị phần, ISS chiếm 26,59% thị phần (2,456 tỷ), BVSC chiếm 24,79% thị phần (2,285 tỷ), ACBS chiếm 15,02% thị phần (1,388 tỷ), BSC chiếm 13,59% thị phần (1,255 tỷ)…. Bước sang năm 2002, tình hình thị trường tiếp tục lâm vào tình trạng suy thoái do vậy dù số lượng tài khoản khách hàng mở vẫn tiếp tục tăng nhưng các nhà đầu tư có vẻ e dè với việc đặt lệnh, nhiều phiên giao dịch buồn tẻ, vắng bóng nhà đầu tư thậm chí có nhiều loại cổ phiếu không giao dịch và hầu hết các cổ phiếu đều rớt giá. Tính đến cuối năm 2002, thị trường có 20 loại cổ phiếu với giá trị niêm yết trên 1000 tỷ đồng, 41 loại trái phiếu với giá trị niêm yết trên 4201 tỷ đồng và 9 CTCK đang hoạt động. Mặc dù các CTCK luôn quan tâm đến việc cải tiến chất lượng dịch vụ, cung cấp các dịch vụ tiện ích… nhưng do khối lượng giao dịch giảm dẫn tới giá trị doanh số giao dịch giảm từ đó doanh thu mà hoạt động MG đem lại tại hầu hết các CTCK cũng giảm theo ảnh hưởng lớn đến hiệu quả hoạt động kinh doanh của các CTCK. Bảng 8: Phí môi giới trong năm 2002 Phí môi giới (triệu đồng) Tăng/giảm so với năm 2001 Giá trị (trđ) (%) Trụ sở chính 315,000 - 52,960 - 14,39 Chi nhánh 215,000 - 228,455 - 51,52 Toàn công ty 530,000 - 281,415 - 34,68 (Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh năm 2002) Giá trị giao dịch qua công ty giảm trong năm, hơn nữa trong lúc thị trường đi xuống công ty đã thực hiện chính sách điều chỉnh biểu phí MG ở một mức độ nhất định, cụ thể: - Ngày 06/03/2002 IBS áp dụng mức phí 0,35%/ giá trị giao dịch (đối với khách hang giao dịch thoả thuận từ 10000 – 19900 cổ phiếu); 0,3%/giá trị giao dịch (đối với giao dịch từ 20000 cổ phiếu trở lên); 0,45%/ giá trị giao dịch (đối với giao dịch từ 100 – 9900 cổ phiếu). (Biểu phí này thay thế biểu phí ngày 07/11/2001) Ngày 01/04/2002 IBS giảm mức phí từ 5% xuống 0,45% (đối với các giao dịch có giá trị nhỏ hơn 100 triệu đồng); 0,4% (đối với các giao dịch có giá trị từ 100 đến dưới 300 triệu đồng); 0,35% (đối với các giao dịch có giá trị trên 300 triệu đồng). (Biểu phí này thay thế cho biểu phí ngày 06/03/2002). Ngày 01/06/2002 IBS tiếp tục điều chỉnh, thay thế biểu phí ngày 01/04/2002. Mức phí áp dụng đối với khách hàng có tổng giá trị giao dịch trong tháng dưới 200 triệu là 0,45%, từ 200 đến dưới 500 triệu là 0,4%, từ 500 đến dưới 1 tỷ là 0,35% và từ 1tỷ trở lên là 0,3%. Hiện nay IBS đang thực hiện biểu phí thay cho biểu phí ngày 01/06/2002 đó là 0,45% với các lệnh có giá trị dưới 50 triệu, 0,4% với các lệnh có giá trị từ 50 đến dưới 100 triệu, 0,35% với các lệnh có giá trị từ 100 đến dưới 200 triệu và 0,3% đối với các lệnh có giá trị từ 200 triệu trở lên (áp dụng từ ngày 02/01/2003). Hình thức giảm phí MG cũng được diễn ra ở một số các CTCK khác để nhằm thu hút khách hàng trong tình trạng TTCK ế ẩm như BVSC, BSC, ACBS … Tuy nhiên việc làm này đã gây nên một số tranh luận bởi vì thực tế trong năm 2001, doanh thu hoạt động MG của các CTCK khoảng 110 triệu đồng/1tháng thấp hơn chi phí bình quân/công ty/tháng là 291 triệu vì vậy việc giảm phí MG không hẳn đã là giải pháp tốt nhất đối với các CTCK trong tình trạng thị trường hiện tại vì các công ty sẽ phải bù lỗ cho hoạt động này. Nhìn vào bảng 8 kết quả về doanh thu MG của IBS trong năm 2002 cho thấy, phí MG thu được giảm 281 triệu so với 2001. Tương ứng giá trị giảm 13,16% so với năm 2001 thì phí MG giảm khoảng 34,68%. Đáng chú ý là giá trị giao dịch trong 10 tháng đầu năm 2002 của chi nhánh chỉ bằng 50% so với trụ sở chính và chỉ bắt đầu tăng khi tiến hành tư vấn thành công đưa một công ty ra niêm yết. Tuy vậy, giá trị giao dịch của chi nhánh khó tăng đột biến vì mới chỉ phụ thuộc nhiều vào nhóm khách hàng là các cổ đông của đơn vị này nên giá trị giao dịch thường thấp và không ổn định. Trong thời gian tới khi TTCK vẫn tiếp tục chưa có dấu hiệu phục hồi thì doanh thu MG của công ty chắc sẽ không được khả quan. Thiết nghĩ, trong giai đoạn này, khi tình hình thị trường ảm đạm và buồn tẻ thì các CTCK bên cạnh việc cắt giảm các chi phí không cần thiết nên tiếp tục chú trọng nâng cao chất lượng dịch vụ, cung cấp các dịch vụ mới, tiện ích nhằm thoả mãn tốt hơn nhu cầu của công chúng đầu tư; đảy mạnh công tác tư vấn, tiếp thị, markting nhằm tiếp tục củng cố niềm tin giúp cho các nhà đầu tư tin vào một tương lai không xa về một TTCK sôi động và náo nhiệt. Bước sang quý 1/2003 thị trường có vẻ càng trở nên bi quan đối với giới đầu tư, chỉ số Vn – Index giảm liên tục qua các phiên và luôn đứng ở mức thấp khoảng 160 điểm, thị trường vẫn chưa có dấu hiệu phục hồi. Tình hình hoạt động MG trong quý 1/2003 của công ty như sau: Bảng 9: Doanh số giao dịch, phí môi giới, tài khoản mở tại công ty (quý 1/2003) Trụ sở chính Chi nhánh Toàn công ty Tăng/giảm so với quý 1/2002 Tài khoản 30 20 50 - 60,32% Phí môi giới 65 35 100 Giá trị giao dịch 14 9 23 - 15,7% (Nguồn: báo cáo kết quả kinh doanh quý 1/2003) Đến ngày 31/03/2003 công ty đang có khoảng 1050 tài khoản, tăng 50 tài khoản so với năm 2002. Như vậy, trong quý 1/2003 công ty tiếp tục mở thêm được 50 tài khoản cho khách hàng giảm 60,32% so với cùng kỳ năm 2002 (126 tài khoản) trong đó tại trụ sở chính là 30 tài khoản và chi nhánh là 20 tài khoản. Tính đến cuối tháng 3/2002 toàn thị trường có khoảng 15000 tài khoản giao dịch CK tăng khoảng 3000 so với năm 2002 trong đó CTCK Sài Gòn đang quản lý khoảng 3500 tài khoản, CTCK ACB đang có khoảng 2600 tài khoản (riêng chi nhánh tại thành phố HCM của công ty này có số tài khoản được mở ước khoảng 2500 tài khoản)… tuy nhiên, số tài khoản thường xuyên giao dịch chiếm rất ít, vì vậy thị phần của công ty đến cuối tháng 3 đạt khoảng 7%. Giá trị doanh số giao dịch trong tháng 1/2003 là 48,4 tỷ, trong tháng 2 là 28,4 tỷ và trong tháng 3 là 29,5 tỷ đưa tổng số giá trị giao dịch toàn thị trương quý 1/2003 đạt 106,3 tỷ trong đó IBS đạt 23 tỷ giảm so với cùng kỳ năm ngoái là 17,47% (27,87 tỷ). Nhìn chung qua 3 tháng đầu hoạt động tình hình thị trường tiếp tục lâm vào tình trạng trì trệ và chưa có dấu hiệu phục hồi, tính trung bình giá trị giao dịch trong quý 1 chỉ đạt khoảng 1,5 tỷ/phiên thấp hơn nhiều so với giá trị trung bình của năm 2001 là 6,1 tỷ đồng và năm 2002 là 4,3 tỷ đồng/phiên. Do giá trị doanh số giao dịch giảm vì vậy, mức phí MG mà công ty đạt được trong quý 1/2003 cũng giảm so với cùng kỳ và đạt 100 triệu trong đó trụ sở chính đạt 65 triệu chiếm 65% toàn công ty, chi nhánh đạt 35 triệu chiếm 35% toàn công ty. Đây thực sự là thời kỳ thử thách đối với TTCK Việt Nam nói chung và các CTCK nói riêng. Để hoạt động kinh doanh của các CTCK có lãi ngay cả khi thị trường đang đi xuống đòi hỏi các công ty nỗ lực hơn nữa trong việc nghiên cứu, tìm ra các giải pháp cho chính bản thân công ty và cho thị trường. Những giải pháp đó trước tiên cần tập trung vào công chúng đầu tư - chủ thể quan trọng của TTCK. Đánh giá hiệu quả hoạt động môi giới chứng khoán tại IBS Kết quả đạt được Mặc dù trong thời gian đầu tập dượt công ty còn gặp nhiều khó khăn trong việc xây dựng những điều kiện tiền đề cần thiết cho quy trình hoạt động cũng như bước đầu làm quen với thị trường song được sự giúp đỡ của Ngân hàng Công thương Việt Nam, các cơ quan hữu quan và đặc biệt là sự nỗ lực cố gắng của đội ngũ cán bộ nhân viên, qua đánh giá hơn hai năm hoạt động cho thấy nghiệp vụ MGCK của công ty đã đạt được những thành công nhất định. Thứ nhất: Trong năm 2001 công ty đã nghiên cứu, xây dựng và ban hành được quy trình nghiệp vụ MG riêng của công ty. Đồng thời, công ty cũng tự lực cải tiến, đưa vào áp dụng phần mềm giao dịch CK từ tháng 9/2001. Việc làm này giúp cho quy trình giao dịch MGCK được nhanh chóng, đơn giản, chính xác và giảm bớt những thủ tục hành chính phiền hà cho nhà đầu tư. Thứ 2: Với mục tiêu phục vụ khách hang ngày một tốt hơn, công ty đã không ngừng cải tiến nâng cao chấ lượng dản phẩm dịch vụ, nghiên cứu và đưa ra các sản phẩm mới, cung cấp các dịch vụ hỗ trợ tiện ích như dịch vụ ứng trước tiền bán CK (công ty kết hợp với Techcombank), dịch vụ chuyển nhượng quyền nhận cổ tức, dịch vụ xác nhận số dư CK trên tài khoản khách hang, dịch vụ đặt lệnh từ xa, dịch vụ cầm cố CK với hạn mức tín dụng luân chuyển, dịch vụ cho vay bảo chứng (kết hợp với Sacombank)… Những dịch vụ này dần dần được hoàn thiện, mang lại hiệu quả cho công ty thể hiện thông qua số lượng khách hàng đến với công ty ngày càng tăng. Thứ 3: Công ty thực hiện nghiệp vụ MG một cách có bài bản, nhanh chóng, chính xác với độ an toàn cao từ đó tạo niềm tin trong khách hang để họ tích cực hơn trong việc tham gia giao dịch CK trên thị trường. Vì vậy, số lượng khách hàng đến mở tài khoản tại công ty và doanh số giao dịch không ngừng tăng lên qua các năm, công ty luôn đạt chỉ tiêu thực tế cao hơn các mức kế hoạch dự kiến. Thứ 4: Doanh thu MG vẫn là nguồn thu chính và chủ yếu của côgn ty so với các nghiệp vụ kinh doanh khác. Nguồn thu từ phí MG luôn chiếm tỷ trọng lớn nhất trong toàn bộ thu nhập kinh doanh của công ty. Trong năm 2001, riêng nguồn thu từ phí MG đã bằng 141,27% lương, thu nhập của cán bộ nhân viên và chiếm 37% chi phí thường xuyên gộp lại của toàn công ty. Đây là một dấu hiệu đáng khích lệ của công ty trong năm đầu hoạt động. Thứ 5: Hoạt động tư vấn phân tích – tiền đề cho hoạt động MGCK phát triển trong những năm qua đã có sự trưởng thành đáng khích lệ. Bộ phận này đã làm tốt vai trò đầu mối cập nhật và lưu trữ thông tin giao dịch hàng ngày, thông tin kinh tế- chính trị – xã hội, thông tin liên quan đến các tổ chức niêm yết thông qua các bản tin ngày, tuần để cung cấp trực tiếp cho khách hàng đến giao dịch cũng như gửi cho khách hang qua fax, email… Bộ phận này cũng chịu trách nhiệm đưa các bản tin và thông tin liên quan đến dịch vụ của công ty lên trang Web/www.icb.com.vn và www.stockmarket.vnn.vn. Vì vậy mà đã thu hút được sự quan tâm rộng rãi từ phía cộng đồng các nhà đầu tư CK và tạo được hình ảnh của công ty trong lòng công chúng đầu tư. Thứ 6: Được đánh giá là nhân tố quan trọng nhất trực tiếp ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động MGCK, nhân viên MG của công ty qua hơn hai năm tập dượt đã thực sự trưởng thành cả về kiến thức chuyên môn cũng như trình độ nghiệp vụ, công ty đã đào tạo được một đội ngũ nhân viên MG lành nghề, hội tụ đầy đủ các chuẩn mực đạo đức và sử dụng thành thạo các kỹ năng của một nhà MGCK, trở thành các nàh MG chuyên nghiệp, năng động, nhiệt tình và tận tuỵ với khách hang. Như vây, một điều khẳng định chắc chắn rằng nghiệp vụ MGCK đang ngày càng hoạt động có hiệu quả và đang từng bước được hoàn thiện. Nguyên nhân của những thành công kể trên là: Công ty với đội ngũ lãnh đạo, cán bộ nhân viên có trính độ, hiểu biết và được đào tạo cơ bản về CK và TTCK đã chỉ đạo và thực hiện nghiệp vụ một cách an toàn, hiệu quả và tạo được lòng tin trong khách hàng. + Ban lãnh đạo công ty là những người có thâm niên trong ngành tài chính, ngân hang nên dù trong giai đoạn đầu hoạt động nhưng việc điều hành nghiệp vụ MG của công ty đều trôi chảy. + Đội ngũ nhân viên MG của công ty đều đã trải qua các khoá đào tạo của UBCKNN và có giấy phép hành nghề. Các nhân viên MG tại sàn của công ty đều được lựa chọn kỹ và được TTGDCK đào tạo. Ngoài ra, một số đã được gửi ra nước ngoài đào tạo chuyên sâu hoặc được chuyên gia nước ngoài sang tư vấn đào tạo tại chõ. Cơ sở vật chất, trng thiết bị hiện đại đã góp phần quan trọng trong quá trình hoạt động hiệu quả của công ty. + Điển hình là bảng điện tư dành cho khách hàng theo dõi thông tin của TTGDCK. Bảng điện tử giúp cho các nhà đầu tư có thôgn tin cập nhật nhất về giá cả, khối lượng chào bán và đặt mua của các loại CK, giá và khối lượng dự kiến khớp lệnh của từng loại CK. Từ những thôgn tin như vậy, các nhà đầu tư sẽ quyết định đặt lệnh khi họ thấy có lợi nhất cho bản thân. + Hệ thồng thông tin theo dõi và giám sát khách hàng. Số dư tài khoản của khách hàng, các giao dịch trong phiên đều được công ty giám sát chặt chẽ để thông báo cho khách hàng đảm bảo khi thực hiện các giao dịch khách hang đã ký quỹ 100% cũng như không xảy ra trường hợp mua bán cùng một loại CK trong cùng một phiên giao dịch. Việc giám sát này không những giúp cho khách hàng tuân theo các quy định của pháp luật trong giao dịch mà còn đảm bảo cả uy tín của công ty trong việc thực hiện dịch vụ cho khách hàng. Hơn nữa, hệ thống thông tin này có khả năng cung cấp các thông tin liên quan đến khách hàng khi có yêu câù của các cơ quan có thẩm quyền. 2.4.2.Tồn tại và nguyên nhân Tuy đã đạt được những kết quả bước đầu đáng khích lệ nhưng cũng phải thừa nhận rằng IBS vẫn còn những khó khăn tồn tại cần phải háo gỡ trong hoạt động MGCK. Thứ nhất: Mặc dù công ty luôn đạt mức thực tế vượt chỉ tiêu kế hoạch nhưng thị phần hoạt động MG của công ty qua hơn hai năm hoạt động vẫn còn thấp so với các công ty khác. Số lượng tài khoản mở tạ công ty có tăng lên nhưng vẫn chiếm tỷ trọng nhỏ so với thị trường, doanh số giao dịch cũng nhỏ do đó doanh thu MG của công ty chưa cao (chỉ đứng khoảng thứ 5 sau một số CTCK như SSI, BVSC, ACBS, BSC). Số lượng nhà đầu tư lớn, nhà đầu tư có tổ chức, nhà đầu tư nước ngoài đến với công ty còn rất khêm tốn. Có điều này là do IBS một mặt đi vào hoạt động sau một số các công ty khác do vậy, chậm trẽ trong việc thu hút các tổ chức tham gia niêm yết trên thị trường cũng như các nhà đầu tư. Mặt khác, ngay từ khi đi vào hoạt động, IBS đã thực iện tất cả các nghiệp vụ CK (không như SSI bước đầu chỉ thực hiện hai nghiệp vụ là MG và tư vấn) vì vậy, việc tập trung vào nghiệp vụ MG có được chú trọng sog không được chuyên sâu - đó là lý do tại sao thị phần của công ty còn thấp. Thứ 2: Sức cạnh tranh của công ty trong lĩnh vực MG so với một số công ty khác còn thua kém. Mặc dù công ty luôn quan tâm đến việc nâng cao chất lượng dịch vụ, cung cấp các sản phẩm tiện ích cho khách hang nhưng việc cung cấp còn chưa nhanh nhậy với thị trường, các sản phẩm cần phải đa dạng hơn, tiện ích hơn mới có thể hấp dẫn được các nhà đầu tư lớn. Nhưng về điều này công ty có khó khăn rất khó khắc phục là NHCT Việt Nam không có chủ trương cho các chi nhánh làm một số dịch vụ liên quan CK vì vướng mắc ở cơ chế, chính sách ngân hang hiện hành vì vậy, công ty đã phải tìm đến các đối tác khác như Techcombank, Sacombank để cung cấp các dịch vụ này. Hơn nữa, công ty chưa kiện toàn cơ sở vật chất kỹ thuật, tin học và tổ chức, cơ chế tài chính- kinh doanh hiện hành còn cứng nhắc, thiếu thông thoáng so với các công ty cổ phần và tư nhân. Thứ 3: Công tác tin học nhằm hỗ trợ cho nghiệp vụ MG của công ty còn nhiều chậm trễ trong việc triển khai các phần mềm cung cấp thông tin cho khách hàng. Công ty chưa có cán bộ chuyên trách tin học và còn thiếu cán bộ có năng lực ứng dụng tin học, chưa đáp ứng được các nhu cầu cung cấp thông tin so với các công ty khác. Cụ thể đến nay, công ty chưa cung cấp được dịch vụ qua PC, qua mạng, chưa có mạng kết nối nội bộ, chưa thể truy cập để lấy các thông tin về tài khoản, các giao dịch được thực hiện. Cơ sở vật chất của công ty mà chủ yếu là phục vụ cho hoạt động MG, giao dịch với khách hang tuy đã đáp ứng được những yêu cầu cơ bản song công ty mới chỉ theo kịp với xu thế chung của thị trường còn vẫn chưa thực sự tạo được những hình ảnh nổi bật, riêng có của công ty. Trong tình hình thị trường với quy mô còn nhỏ, số lượng các CTCK khá nhiều như hiện nay thì công ty cần phải tiếp tục kiện toàn cơ sở vật chất kỹ thuật nhằm tăng uy tín của công ty cũng như là tăng tính cạnh tranh trên thị trường. Thứ 4: Trình độ nghiệp vụ của đội ngũ nhân viên MG tuy đã trưởng thành so với thời gian đầu song hiện nay, ngoài những giờ giao dịch với hoạt động chủ yếu là hướng dẫn khách hang đặt lệnh, nhận lệnh từ khách hàng và nhập vào hệ thống thì phần lớn nhân viên MG chỉ ngồi tại chỗ và tìm khách hàng tìm đến với mình. Hoạt động MG chưa thực sự đúng với ý nghĩa “môi giới” – làm trung gian mua bán để hưởng hoa hồng phí. Vì vậy, hoạt động MG của nhân viên tại công ty mới chỉ đơn giản là thực hiện theo yêu cầu của khách hàng còn chưa thực sự chú trọng khai thác và kết hợp các kỹ năng cần thiết của nhà MG trong quá trình hành nghề. Hay nói cách khác, khả năng nghiên cứu, tìm tòi để tự hoàn thiện các kỹ năng của đội ngũ nhân viên MG còn hạn chế, nhân viên còn thiếu sự chủ động tiếp cận thường xuyên với công chúng đầu tư và kể cả những khách hàng tiềm năng nhằm kích thích, thu hút, thoả mãn tốt nhất nhu cầu của họ đồng thời củng cố niềm tin trong họ ngay cả lúc thị trường lạc quan cũng như suy thoái. Tồn tại này một mặt bắt nguồn từ thực trạng TTCK Việt Nam với lượng hàng hoá còn ít ỏi, nhiệm vụ tiếp thị và xây dựng cơ sở khách hàng chưa tách biệt ra như một nhiệm vụ độc lập, mặt khác, cũng thể hiện nhận thức chưa đầy đủ của công ty về hoạt động MGCK. Hơn nữa, công ty chưa có chế độ khen thưởng đúng mức cho nhân viên MG. Thiết nghĩ, hoạt động MG là hoạt đông trung gian hưởng hoa hồng phí/ giá trị giao dịch, tuy nhiên các nhân viên MG khi tạo ra được giá trị giao dịch lớn cho công ty, hoặc thu hút được khách hang lớn đến mở tài khoản giao dịch thì ngoài mức lương cơ bản họ cũng không được nhận thêm một khoản nào khác, điều này sẽ không kích thích được sự say mê nghề nghiệp và năng lực làm việc của nhân viên Thứ 5: Bộ máy tổ chức kinh doanh của công ty qua hơn hai năm hoạt động vẫn còn bộc lộ nhiều vấn đề chưa phù hợp với yêu cầu thực tế hoạt động kinh doanh hiện nay và xu hướng phát triển của công ty. Cụ thể là mô hình tổ chức một số phòng, ban của trụ sở chính còn chưa phù hợp; mô hình chi nhánh thành phố HCM chưa có các phòng ban trực thuộc, thực chất mới chỉ là văn phòng đại diện, chưa phải là một bộ máy kinh doanh, không đảm bảo tính nguyên tắc pháp lý, quy trình nghiệp. Tồn tại này sẽ gây khó khăn chung đối với tất cả các nghiệp vụ mà công ty tiến hành trong đó có nghiệp vụ MGVK. Tóm tắt chương 2: Trong chương 2, khoá luận đã đề cập một cách khái quát về hoạt động MGCK tại các CTCK Việt Nam hiện tại đang thực hiện và giới thiệu quy trình MGCK do CTCK Công thương nghiên cứu, xây dựng và ban hành; tóm lược một số nét cơ bản về CTCK Công thương, những thuận lợi và khó khăn mà công ty đang gặp phải. Bên cạnh đó, chương 2 cung cấp phần quan trọng nhất của khoá luận đó là thực trạng hoạt động MG tại công ty trong hơn hai năm hoạt động ở cả chi nhánh và trụ sở chính qua đó đánh giá những kết quả đạt được – nguyên nhân, những mặt còn tồn tại của công ty và nguyên nhân từ đó làm cơ sở cho việc đưa ra các giải pháp và một số kiến nghị nhằm thúc đẩy nghiệp vụ MGCK của công ty hoạt động hiệu quả và phát triển.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0256.doc
Tài liệu liên quan