Việt Nam đang trong quá trình thực
hiện công nghiệp hóa-hiện đại hóa đất
nước, việc đổi mới mô hình tăng trưởng
đánh dấu sự chuyển mình mạnh mẽ của
nền kinh tế Việt Nam. Song song với quá
trình phát triển kinh tế, nhiều việc làm
xanh đã tồn tại và phát triển trong nền
kinh tế Việt Nam nhưng quy mô chưa
nhiều. Hạn chế về mặt nhận thức đối với
vấn đề bảo tồn gìn giữ và phát triển môi
trường bền vững của người lao độngvà
doanh nghiệp Việt Nam đang là một
trong những thách thức khi nước ta thực
hiện chiến lược tăng trưởng xanh và phát
triển việc làm xanh. Tuy nhiên, để đạt
được mục tiêu phát triển bền vững dựa
trên 3 trụ cốt là kinh tế-xã hội và môi
trường, thì Việt Nam cần phải tiếp tục
nghiên cứu các giải pháp thực hiện có hiệu
quả tăng trưởng xanh qua đó dẫn tới yêu
cầu phải thúc đẩy và phát triển mạnh việc
làm xanh trong tổng số cơ cấu việc làm./.
12 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 14/01/2022 | Lượt xem: 251 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Thực trạng việc làm xanh ở Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 37/Quý IV - 2013
34
THỰC TRẠNG VIỆC LÀM XANH Ở VIỆT NAM
Ths. Giản Thành Công, Ths. Trần Thị Ngọc Anh
Viện Khoa học Lao động và Xã hội
Tóm tắt:Việc làm xanh được hiểu là những việc làm góp phần bảo vệ, gìn giữ môi
trường, tài nguyên thiên nhiên. Thuật ngữ việc làm xanh còn khá mới mẻ đối với Việt
Nam, mặc dù nước ta đã phê duyệt chiến lược tăng trưởng xanh và thể hiện rõ chủ trương
thực hiện tăng trưởng xanh để phát triển bền vững. Quy mô việc làm xanh còn rất khiêm
tốn, chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong tổng số việc làm. Lao động làm việc trong các ngành
hoặc hoạt động kinh tế xanh đa phần là lao động phi kỹ năng, trình độ ch uyên môn thấp.
Bên cạnh đó, nhận thức về vấn đề bảo vệ môi trường của các doanh nghiệp ở Việt Nam
còn yếu, dẫn tới việc không đầu tư các chi phí trang thiết bị để thực hiện sản xuất xanh.
Từ khóa: Việc làm xanh, ngành xanh, hoạt động xanh, tăng trưởng xanh
Summary:It is undertsood that green jobs contribute to preserve the environment
and natural resources. Although government has approved the Green growth Strategy
andshowed clearly that green growth is the pathto achieving sustainable development goals
green job development is still a new concept in Viet Nam. The numbmer of green jobs is
very modest with small propotion intotal employment created. workers in green activites or
green sectorsare almost non-skilled and have low professional technicality. In addition,
awareness of enterprises on environmental protection is quite limited, leading to the
investment cost for these green activites limited inadequately.
Key words: Green job, green sector, green activities, green growth.
Trong tương lai, tăng trưởng kinh tế
thế giới sẽ tập trung về mặt chất thông
qua việc cải tiến công nghệ, áp dụng
những kiến thức và công nghệ xanh
nhằm bảo vệ môi trường và phát triển
bền vững thay vì tập trung về mặt
lượng và phụ thuộc nhiều vào nguồn t ài
nguyên, nhiên liệu thô như trước kia.
Những mô hình tăng trưởng kinh tế
truyền thống đã không còn đem đếnsự
phát triểntoàn diện và bền vững, không
thể đáp ứng được những mong mỏi và
nguyện vọng ngày càng lớn của người
dân. Các chi phí về môi trường tăng
mạnh, các mối đe dọa do biến đổi khí
hậutác động tới vấn đề người lao động,
đặc biệt đối với những nhóm lao động
yếu thế ngày càng trầm trọng hơn . Mô
hình kinh tế hướng đến việc phát triển và
Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 37/Quý IV - 2013
35
tăng trưởng xanh dường như là cách duy
nhất để cân bằng giữa tốc độ tăng trưởng
kinh tế nhanh của mỗi quốc gia với mong
muốn với nhu cầu của người dânvà sự
bảo tồn tài nguyên môi trường nhằm mục
tiêu phát triển bền vững. Trong quá trình
chuyển dịch từ nền kinh tế nâu sang nền
kinh tế xanh sẽ có rất nhiều việc làm
xanh được tạo ra và phát triển, và trở
thành một biểu tượng của việc làm tốt
trong tương lai.
1. Một vài nét về việc làm xanh
Hiện nay, có nhiều khái niệm việc
làm xanh được công bố bởi các nghiên
cứu của các tổ chức quốc tế. Các khái
niệm này về cơ bản đều hướng tới những
việc làm góp phần tạo nên một nền kinh
tế xanh.
Theo chương trình môi trường Liên
hợp quốc (UNEP), việc làm xanh là việc
làm trong các lĩnh vực nông nghiệp, công
nghiệp, nghiên cứu, phát triển, quản lý và
dịch vụ có đóng góp phần đáng kể nhằm
giữ gìn và khôi phục môi trường, bao
gồm những việc làm nhằm bảo vệ hệ
sinh thái và sự đa dạng sinh học, giảm
tiêu thụ năng lượng, nguyên liệu và tài
nguyên nước thông qua các chiến lược
hiệu quả; giảm thiểu cacbon; tránh được
những ảnh hưởng của ô nhiễm, chất thải.
Về phân loại việc làm xanh, Cục
thống kê Lao động Mỹ, phân thành 2
nhóm:
- Việc làm trong các doanh nghiệp
sản xuất hàng hóa hoặc cung cấp các
dịch vụ có lợi cho môi trường hoặc bảo
tồn tài nguyên thiên nhiên (Green goods
and services);
- Việc làm của người lao động có
nhiệm vụ tạo ra hoặc thiết lập các quy
trình thân thiện với môi trường hoặc ít sử
dụng nguồn tài nguyên (Green
Technology).
Việc làm xanh chủ yếu tập trung ở
các nhóm ngành/ hoạt động kinh tế dưới
đây:
- Hoạt động sản xuất từ các nguồn
năng lượng tái tạo: Các sản phẩm/dịch vụ
thuộc các các ngành điện, nhiệt, hoặc
nhiên liệu từ gió, địa nhiệt, năng lượng
mặt trời, biển, đại dương, khí thải, chất
thải rắn;
- Hoạt động sản xuất các sản
phẩm/dịch vụ tiết kiệm năng lượng: thiết
bị tiết kiệm điện, năng lượng, hoặc các
phụ tùng, công trình xây dựng, phương
tiện vận tải, và những sản phẩm/dịch vụ
khác làm tăng hiệu quả sử dụng năng
lượng, bảo toàn và phân phối năng lượng
ví dụ như công nghệ lưới điện thông
minh;
- Hoạt động giảm ô nhiểm và loại
trừ, giảm phát thải khí, tái chế và tái sử
dụng;
Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 37/Quý IV - 2013
36
- Hoạt động bảo tồn nguồn tài
nguyên thiên nhiên: các sản phẩm/dịch
vụ trong nhóm này liên quan đến nông
nghiệp, lâm nghiệp, quản lý đất, bảo vệ
tài nguyên đất, nước, động vật hoang dã..
- Hoạt động nâng cao nhận thức,
giáo dục và đào tạo về môi trường, bao
gồm thực hiện các quy định về môi
trường; cung cấp các sản phẩm giáo dục
và đào tạo liên quan tới công nghệ và
môi trường xanh; nâng cao nhận thức của
cộng đồng về bảo vệ môi trường.
Đối với Việt Nam, việc làm xanh
dường như là một khái niệm còn khá mới
mẻ, mới chỉ len lỏi ở một số bộ phận
người lao động có trình độ chuyên môn
kỹ thuật cao, chủ yếu bao gồm các nhà
hoạch định chính sách, các cán bộ quản
lý cấp cao, các doanh nhân lớn có trách
nhiệm xã hội, hoặc các nhà nghiên cứu
các chính sách về môi trường, Đa phần
người dân còn lại đều chưa có nhận thức
về những vấn đề này.
Việt Nam cũng nhận thức rõ tăng
trưởng xanh là con đường duy nhất để
thực hiện phát triển bền vững. Điều này
được thể hiện trong báo cáo của Thủ
tướng chính phủ tại Hội nghị RIO20+, và
quyết định số 1393/QĐ-TTg ngày 25
tháng 9 năm 2012, về việc phê duyệt
chiến lược tăng trưởng xanh của Việt
Nam. Tuy nhiên, Việt Nam vẫn chưa có
một văn bản chính thức nào khẳng định
vai trò của việc làm xanh trong việc thực
hiện tăng trưởng xanh.
Việc phân tích thực trạng việc làm
xanh ở Việt Nam dựa trên 2 cách tiếp
cận:
Một là, việc làm xanh trong các
ngành/ hoạt động kinh tế có sản phẩm
đầu ra xanh;
Hai là, việc làm xanh trong các tổ
chức nghiên cứu, ứng dụng sản xuất quy
trình công nghệ xanh.
Theo những cách tiếp cận này, thực
tế ở Việt Nam đã tồn tại hàng ngàn việc
làm xanh trong các ngành/ các hoạt động
kinh tế, bao gồm: xây dựng, giao thông,
sản xuất thép; dệt, nhuộm và may mặc;
giấy và bột giấy, công nghiệp hóa chất;
nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản, năng
lượng và du lịch.
Tuy nhiên, việc đo lường việc làm
xanh trong toàn bộ các hoạt động xanh ở
Việt Nam gặp rất nhiều khó khăn. Do
chúng ta vẫn chưa có bất cứ một cuộc
điều tra khảo sát quy mô lớn về việc làm
xanh, cũng như trong các thiết kế các
cuộc khảo sát về lao động- việc làm cũn g
chưa quan tâm tới vấn đề này, dẫn tới
việc không tồn tại các câu hỏi khảo sát
nào để có thể xử lý được trọn vẹn số liệu
về việc làm xanh theo định nghĩa của
ILO và UNEP. Do đó, ngiên cứu của
chúng tôi tập trung chủ yếu phân tích
Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 37/Quý IV - 2013
37
thực trạng việc làm xanh dựa trên cách
tiếp cận đầu ra của ngành/hoạt động kinh
tế, và dựa vào việc phân tích xử lý số
liệu từ cuộc tổng điều tra doanh nghiệp
của TCTK (2009).
Dựa trên khung phân tích và áp dụng
vào trường hợp của Việt Nam, nghiên
cứu phân loại những ngành kinh tế xanh
dựa trên bảng mã ngành kinh tế quốc
dân, bao gồm các ngành sau:
1.Lâm nghiệp và các hoạt động dịch
vụ lâm nghiệp;
2.Tái chế phế thải, Khai thác, lọc
nước và phân phối nước sạch;
3.Các hoạt động nghiên cứu bảo vệ
môi trường;
4.Các hoạt động vệ sinh nhà cửa văn
phòng chống ô nhiễm;
5. Quản lý hành chính về bảo vệ môi
trường;
6. Hoạt động của vườn bách thảo,
vườn thú, khu bảo tồn thiên nhiên;
7. Hoạt động xử lý rác thải rắn và
lỏng;
8. Hoạt động xử lý khí thải;
9. Xử lý tiếng ồn;
10. Xử lý sự cố môi trườ ng, mạch
nước nhiễm bẩn hoặc các chất thải khác
2. Phân tích việc làm xanh trong
tổng thể nền kinh tế và nội bộ giữa các
ngành
Tỷ trọng giá trị sản xuất hàng
hóa/dịch vụ và lao động của các ngành
“xanh” trong quy mô của nền kinh tế là
chỉ tiêu quan trọng nhất phản ánh mức độ
hướng đến bảo vệ môi trường của nền
kinh tế.
- Tổng giá trị sản xuất hàng hóa và
dịch vụ của các ngành “xanh” chiếm tỷ
trọng không đáng kể trong trong tổng giá
trị hàng hoá dịch vụ của cả nền kinh tế,
chỉ đạt 0.6%. Trong đó lâm nghiệp là
ngành có tỷ trọng giá trị sản xuất cao
nhất trong các ngành “xanh” với khoảng
0.29% tỷ trọng giá trị sản xuất.
Tổng số lao động làm việc trong các
ngành “xanh” cũng chiếm tỷ lệ khiêm
tốn với khoảng 1.2% trong đó ngành xử
lý rác thải rắn và lỏng chiếm tỷ lệ lao
động cao nhất, với 0.54%
Xét trong nội bộ ngành “xanh” thì
những ngành có tỷ trọng lớn về giá trị sản
xuất hàng hóa dịch vụ là lâm nghiệp, khai
thác lọc nước và phân phối n ước sạch và
hoạt động xử lý nước thải rắn và lỏng.
Trong đó, giá trị sản xuất lâm nghiệp
chiếm gần một phần hai tổng số giá trị sản
xuất hàng hóa dịch vụ của các ngành
xanh. Về quy mô lao động, ngành xử lý
chất thải rắn và lỏng dẫn đầu về quy mô
lao động với khoảng 44%, tiếp đến là
Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 37/Quý IV - 2013
38
ngành khai thác và phân phối nước sạch
(36.14%), và ngành vệ sinh văn phòng
(9.79%).
Kỹ năng và trình độ của người
lao động: là những yếu tố quan trọng
đánh giá chất lượng của nguồn nhân lực
phục vụ cho phát triển kinh tế “xanh”.
Thông thường, những ngành xanh
thường hướng đến tỷ trọng lao động có
trình độ cao, phản ánh mức độ sử dụng
khoa học công nghệ trong sản xuất, nhu
cầu về kỹ năng của ngành và từ đó là
chất lượng của việc làm “xanh” của nền
kinh tế. Tuy nhiên, đối với các ngành
“xanh” có trình độ kỹ năng của lao động
thấp lại phản ánh khả năng thu hút lao
động và tạo ra việc làm “xanh” của nền
kinh tế dồi dào lao động phi kỹ năng.
Trình độ kỹ năng còn ảnh hưởng đến
mức độ nhận thức về môi trường trong
lực lượng lao độ ng của các ngành trên.
Đây có thể là nền tảng để phát triển nhận
thức về các ngành bảo vệ môi trường.
- Cơ cấu lao động theo kỹ năng của
các ngành “xanh” tập trung nhiều vào lao
động phi kỹ năng, chiếm gần 2 phần 3 số
lao động trong các ngành bảo vệ môi
trường. Lao động nghề (bao gồm từ sơ
cấp nghề đến cao đẳng nghề) chiếm tỷ lệ
cao thứ hai với khoảng 20%; lao động có
trình độ trên đại học chỉ chiếm khoảng
15%, phản ánh các ngành xanh của Việt
Nam mới chỉ bao gồm những công việc
đơn giản, không đòi hỏi lao động có trình
độ cao.
- Cơ cấu lao động theo nam và nữ
phản ánh xu hướng thu hút việc làm theo
giới của các ngành hướng đến bảo vệ môi
trường: Lao động nam chiếm khoảng 60%
trong tổng số lao động trong các ngành
“xanh” so với 40% lao động nữ.
Phân bố lao động theo trình độ quản
lý thể hiện sự phân công công việc của
lao động trong các ngành “xanh”: có78%
tổng số lao động làm việc trong các
ngành xanh tham gia trực tiếp vào quá
trình sản xuất kinh doanh của các ngành
trên. Trong tổng số lao động trên, tỷ lệ
nữ chiếm 30% và nam chiếm 47%. Lao
động chuyên môn nghiệp vụ không trực
tiếp tham gia vào sản xuất kinh doanh
chiếm 12.21%, trong đó nữ chiếm
5.29%. Do đặc thù của các ngành trên,
lao động quản lý chiếm tỷ lệ tương đối
thấp với 5.63% tổng số lao động trong đó
lao động nam chiếm tỷ lệ gấp đôi lao
động nữ
Một trong những chỉ tiêu phản ánh
quy mô của các ngành xanh trong nền
kinh tế là số lượng doanh nghiệp hoạt
động. Số lượng doanh nghiệp hoạt động
trong các ngành xanh càng lớn thì tính
cạnh tranh và độ ng lực phát triển các
ngành “xanh” càng cao. Tuy nhiên thực
trạng ở Việt Nam, số liệu cho thấy quy
mô về số lượng doanh nghiệp trong các
Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 37/Quý IV - 2013
39
ngành bảo vệ môi trường còn khiêm tốn.
Tổng số doanh nghiệp chỉ chiếm chưa
đến 1% tổng số các doanh nghiệp. Ngành
công nghiệp hướng hoàn toàn đến bảo vệ
môi trường là khai thác, lọc nước và
phân phối nước sạch chiếm 27.86% tổng
số doanh nghiệp. Đa phần các doanh
nghiệp hoạt động trong các ngành dịch
vụ, cụ thể là các ngành về sinh nhà và
văn phòng (28.37%), xử lý rác thải rắn
và lỏng (27.17%).
Theo khu vực kinh tế, khu vực tư
nhân có số lượng các doanh nghiệp hoạt
động trong các ngành bảo vệ môi trường
cao nhất với khoảng 0.56% số doanh
nghiệp, tiếp đến là khu vực nhà nước
(0.10%) và khu vực FDI. Trong khu vực
nhà nước, một nửa số doanh nghiệp làm
trong các ngành khai thác và phân phối
nước sạch. Trong khi đó, ở khu vực tư
nhân, số doanh nghiệp hoạt động trong
các ngành vệ sinh nhà và văn phòng
chiếm tỷ lệ cao nhất.
Một số kết luận:
Thứ nhất, nếu sử dụng các chỉ tiêu
về quy mô của các ngành xanh trong nền
kinh tế, số liệu thống kê cho thấy quy mô
của các ngành “xanh” trong nền kinh tế
còn khiêm tốn. Tỷ trọng số doanh
nghiệp, số lao động và giá trị hàng
hóa/dịch vụ của các doanh nghiệp thuộc
ngành xanh chiếm chưa đến 1% trong
tổng quy mô của nền kinh tế.
Thứ hai, các ngành “xanh” mới chủ
yếu thu hút lao động phi kỹ năng, trong
đó tập trung vào một số ngành công
nghiệp và dịch vụ. Tỷ lệ lao động phi kỹ
năng trong các ngành xanh xấp xỉ so với
tỷ lệ chung của nền kinh tế. Phát tr iển
khu vực xanh sẽ đảm bảo giải quyết một
phần lớn lực lượng lao động phi kỹ năng
trong nền kinh tế trong tương lai
Thứ ba , lao động kỹ năng chiếm tỷ
lệ khiêm tốn trong các ngành kinh tế
hướng đến bảo vệ môi trường. Tuy nhiên
tỷ lệ lao động tốt nghiệp cao đẳng đại
học khá cao. Đây là nguồn động lực để
phát triển các ngành này trong tương lai
Thứ tư, cơ cấu lao động theo giới
nghiêng về phía lao động nam, chiếm
khoảng hai phần ba số lao động. Trình độ
kỹ năng trung bình của lao động nam cao
hơn so với lao động nữ
3. Phân tích việc làm xanh trong
một ngành kinh tế
Phần nghiên cứu sau đây đi sâu xem
xét mức độ bảo vệ môi trường của một
ngành kinh tế xanh trong nhóm ngành
công nghiệp. Phân tích dựa trên một số
giả định sau:
- Các doanh nghiệp trong các ngành
công nghiệp có thể hoạt động trong nhiều
hoạt động khác nhau bao gồm cả những
hoạt động bảo vệ môi trường. Khi đó
đánh giá mức độ “xanh” của ngành kinh
Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 37/Quý IV - 2013
40
tế phụ thuộc vào quy mô của các hoạt
động hướng đến bảo vệ môi trường trong
mối tương quan với với các hoạt động
chính của các doanh nghiệp trong ngành;
- Ngoài ra, khả năng phát triển
“xanh” của ngành còn phụ thuộc vào số
lượng các doanh nghiệp trong ngành
nhận thức và quan tâm đến bảo vệ môi
trường trong hoạt động sản xuất kinh
doanh. Điều này thể hiện thông qua việc
đưa vào quy trình sản xuất những tiêu
chuẩn cơ bản để bảo vệ môi trường như
hoạt động xử lý rác thải, hoặc quản lý
theo quy trình công nghệ bảo vệ môi
trường ;
- Tùy thuộc vào đặc thù của ngành
kinh tế, nhóm lao động tham gia vào các
hoạt động bảo vệ môi trường của doanh
nghiệp có thể được tách rời với lao động
tham gia vào hoạt động sản xuất kinh
doanh khác. Từ đó, việc phân tách lao
động sẽ cho phép tính toán quy mô của
những hoạt động bảo vệ môi trường của
daonh nghiệp
Dựa trên đặc thù của ngành, nghiên
cứu này chọn ngành sản xuất điện, gas
và nhiên liệu để phân tích mức độ
“xanh” của một ngành công nghiệp . Đây
là một trong những ngành công nghiệp
lâu đời và quy trình sản xuất kinh doanh
cần tuân thủ những điều kiện về bảo vệ
môi trường chặt chẽ. Do đó, phân tích và
đi sâu ngành kinh tế trên sẽ giúp nghiên
cứu sử dụng khung phân tích đã được đề
xuất để đánh giá mức độ “xanh” của
ngành được chọn.
Tiêu chí đánh giá quan trọng nhất là
đóng góp của các hoạt động bảo vệ môi
trường của các doanh nghiệp vào kết quả
hoạt động sản xuất kinh doanh chung của
doanh nghiệp: Tỷ trọng giá trị hàng
hóa/dịch vụ của các ngành này rất nhỏ
trong tổng giá trị hàng hóa/dịch vụ của
ngành, lần lượt là 0.06% và 0.66%. Tỷ lệ
này xấp xỉ với tỷ lệ trọng về đầu ra của
các ngành “xanh” vào nền kinh tế nói
chung. Điều này cho thấy việc đánh giá
các đóng góp của ngành “xanh” dựa trên
đo lường tỷ trọng về giá trị sản xuất dịch
vụ sẽ dẫn đến kết luận về vai trò không
đáng kể của các hoạt động kinh tế hướng
đến bảo vệ môi trường
Nếu tính đến quy mô lao động, các
hoạt động bảo vệ môi trường trong các
doanh nghiệp sản xuất điện, gas và nhiên
liệu khí cũng thu hút một tỷ lệ lao động
rất nhỏ, với khoảng 0.05% tổng số lao
động của cả ngành, tương đương với tỷ
lệ lao động trong các ngành “xanh” của
cả nền kinh tế. Do lao động là cầu dẫn
suất, có thể thấy việc phát triển việc làm
xanh ở ngành sản xuất điện còn gặp
nhiều khó khăn trước thực trạng tỷ trọng
Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 37/Quý IV - 2013
41
hàng hóa dịch vụ của các ngành/hoạt
động bảo vệ môi trường còn rất thấp
Quy trình sản xuất của các doanh
nghiệp thuộc ngành sản xuất điện, nhiên
liệu khí và gas luôn thải ra môi trường
một lượng rác thải. Tỷ lệ doanh nghiệp
có rác thải sản xuất là 100%. Trong khi
đó, tỷ lệ doanh nghiệp có các hoạt động
thu gom rác thải là khoảng 6.7% và số
doanh nghiệp có các hoạt động xử lý rác
thải chỉ có 5.5%. Như vậy là trong hơn
1000 doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh
vực sản xuất trên, chỉ có khoảng 50 đến
60 doanh nghiệp có ý thức xử lý rác thải
sản xuất. Điều này cho thấy nhận thức
của các doanh nghiệp về các vẫn đề bảo
vệ môi trường còn tương đối thấp.
Bên cạnh đó, việc sử dụng nhiên liệu
hóa thạch có khả năng gây ra những tác
hại về môi trường của doanh nghiệp cao,
tuy nhiên nhiên liệu này lại là nguồn
nhiên liệu chính của các ngành sản xuất
điện gas và nhiên liệu khí. Thống kê cho
thấy, chi phí nhiên liệu của doanh nghiệp
chiếm khoảng 7.83% tổng chi phí của
các doanh nghiệp tương đương với một
doanh nghiệp tiêu thụ hàng năm 5,4 tỷ
đồng nhiên liệu. Việc xử lý những khí
thải gây ra do sử dụng các nguồn nhiên
liệu trên cần được đưa vào yêu cầu đối
với doanh nghiệp liên quan đến các hoạt
động bảo vệ môi trường.
Đầu tư của doanh nghiệp cho các
hoạt động bảo vệ môi trường đóng vai
trò quan trọng không chỉ đến hiệu quả
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
mà còn góp phần thúc đẩy việc thu hút
lao động làm việc trong các hoạt động
này: giá trị trung bình của các thiết bị
môi trường 224 triệu đồng.Trong đó các
thiết bị xử lý ô nhiễm là gần 200 triệu
đồng. Như vậy, có thể do giá trị của các
thiết bị xử lý ô nhiễm môi trường là khá
lớn, dẫn đến việc doanh nghiệp e dè đầu
tư và tham gia tích cực vào hoạt động
bảo vệ môi trường.
Chi phí của các doanh nghiệp trong
ngành sản xuất điện, gas và nhiên liệu
cho bảo vệ môi trường là tương đối thấp.
Chi phí của các hoạt động bảo vệ môi
trường đạt khoảng 9 triệu đồng trong cả
năm 2009. Trong đó chi phí xây lắp các
thiết bị là 0.7 triệu bình quân một doanh
nghiệp. Hàng năm, trung bình một doanh
nghiệp trích ra khoảng 6 triệu đồng chi
thường xuyên cho công tác bảo vệ môi
trường. Nếu tính trong tổng chi phí
chung hàng năm của doanh nghiệp, tỷ lệ
chi phí dành cho các hoạt động bảo vệ
môi trường không đáng kể, chỉ đạt
khoảng 0.07%.
Phân bổ và phát triển việc làm
“xanh” của doanh nghiệp gắn liền với
việc thành lập, duy trì và phát triển một
Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 37/Quý IV - 2013
42
số các bộ phận liên quan đến công tác
bảo vệ môi trường. Số liệu tổng điều tra
doanh nghiệp cho thấy, có 22.22% tổng
số doanh nghiệp trong ngành sản xuất
điện, gas và khí có thành lập những tổ
chức chuyên môn bảo vệ môi trường.
Việc thành lập những tổ chức trên không
những góp phần làm chuyên nghiệp hóa
hoạt động bảo vệ môi trường mà còn thu
hút những lao động có trình độ chuyên
môn kỹ thuật phù hợp để đảm nhiệm
những công việc trên. Tuy nhiên, thực tế
cho thấy, còn khoảng hơn ba phần tư số
doanh nghiệp hiện nay chưa có các tổ
chức chuyên môn bảo vệ môi trường
Hệ thống quản lý bảo vệ môi trường
cũng đảm bảo nâng cao hiệu quả và tính
chuyên nghiệp của các hoạt động bảo vệ
môi trường của doanh nghiệp. 21.48%
tổng số doanh nghiệp triển khai các hệ
thống quản lý bảo vệ môi trường của
doanh nghiệp.
Một số lượng lớn các doanh nghiệp
đã có những thành công nhất định trong
công tác bảo vệ môi trường. Việc đạt
được những chuẩn mực về bảo vệ môi
trường không chỉ làm tăng tính cạnh
tranh của doanh nghiệp mà còn góp phần
nâng cao nhận thức về các hoạt động này
cho các doanh nghiệp còn lại trong
ngành. 4.44% số doanh nghiệp có chứng
chỉ chứng nhận bảo vệ môi trường.
Ngoài ra 19% số doanh nghiệp được cấp
chứng nhận bảo vệ môi trường và có đến
32% tổng số doanh nghiệp trong ngành
sản xuất điện, nhiên liệu gas và khí hiện
đang áp dụng và thực hiện quy trình sản
xuất sạch.
Dịch vụ là nhóm ngành có khả năng
đóng góp lớn nhất vào việc phát triển
việc làm xanh trong nền kinh tế. Thứ
nhất, các ngành dịch vụ như các ngành
xử lý chất thải và gây ô nhiễm, các ngành
nghiên cứu những nguồn năng lượng
thay thế các nguồn năng lượng hóa
,thạch hoặc các ngành quản lý hành
chính trong lĩnh vực môi trường là những
ngành dịch vụ quan trọng trực tiếp tham
gia hoạt động bảo vệ môi trường và là
nguồn cung cấp chủ yếu việc làm xanh
cho nền kinh tế. Thứ hai, các ngành dịch
vụ nằm trong danh sách phân loại bảo về
môi trường cũng có khả năng xanh hóa
môi trường thông qua các hoạt động
giảm thiểu tác hại của quá trình sản xuất
đến môi trường như hạn chế sử dụng các
nguồn năng lượng hóa thạch hoặc đầu tư
vào các hoạt động kinh doanh hướng đến
môi trường như xử lý rác thải trong quá
trình sản xuất.
Phần phân tích sau sẽ đưa ra một số
phân tích đối với ngành giao thông vận
tải là một trong những ngành dịch vụ
phát triển tương đối mạnh và là một
Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 37/Quý IV - 2013
43
trong những ngành trong chiến lược phát
triển xanh. Đây cũng là ngành có đặc
thù sử dụng nhiều năng lượng trong đó
bao gồm cả năng lượng tái tạo và năn g
lượng hóa thạch. Nghiên cứu sẽ tìm hiểu
tỷ lệ năng lượng và chi phí năng lượng
được sử dụng trong quá trình kinh doanh
của các doanh nghiệp thuộc ngành giao
thông vận tải
Biểu trên cho thấy giống như ngành
công nghiệp đã phân tích ở trên, các
doanh nghiệp trong các ngành giao thông
vận tải có tham gia vào các hoạt động
bảo vệ môi trường khác như hoạt động
xử lý rác thải rắn và lỏng. Tuy nhiên, tỷ
lệ lao động hoạt động trong công việc
này rất thấp và không đáng kể, chiếm
dưới 1%. Tỷ lệ giá trị dịch vụ của các
hoạt động bảo vệ môi trường trong các
doanh nghiệp giao thông vận tải cũng rất
thấp, chỉ chiếm 0.004% trong tổng giá trị
sản xuất dịch vụ của các doanh nghiệp
hoạt động. Điều này khẳng định việc tiếp
cận đánh giá ngành xanh đối với các
doanh nghiệp không nằm trong phân loại
ngành “xanh” của nền kinh tế dựa trên tỷ
trọng giá trị sản xuất dịch vụ và lao động
chưa phản ánh đầy đủ được quy mô
hướng đến phát triển việc làm xanh của
các doanh nghiệp
Một trong những đặc điểm quan
trọng của các giao thông vận tải là việc
sử dụng nhiều năng lượng trong các
doanh nghiệp, trong đó bao gồm hai loại
năng lượng chủ yếu là năng lượng hóa
thạch và năng lượng tái tạo. Sử dụng
năng lượng hiệu quả trong những ngành
giao thông vận tải là một trong những
biện pháp chủ yếu để giảm thiểu tác hại
đến môi trường: Trung bình một doanh
nghiệp trong ngành giao thông vận tải
tiêu thụ khoảng 1500 triệu lít xăng và
dầu mazut trong năm 2009. Có thể thấy
loại năng lượng chủ yếu của các doanh
nghiệp giao thông vận tải là dầu diezel là
6 tỷ đồng 1 năm, chiếm hơn 68% tổng số
chi phí sử dụng năng lượng. Tuy điện là
nguồn năng lượng có khả năng ít gây hại
đến môi trường nhất, tỷ lệ chi phí điện
trong tổng chi phí năng lượng của doanh
nghiệp chỉ chiếm khoảng 15.23%. Có thể
thấy các doanh nghiệp giao thông vận tải
sử dụng một tỷ lệ lớn các nguồn năng
lượng trong quá trình tiêu thụ có thải khí
CO2 ra môi trường.
Tuy nhiên đối với hoạt động chính là
giao thông vận tải, doanh nghiệp tiêu thụ
chủ yếu nguồn năng lượng từ dầu ma zut
và dầu diezel, với trung bình một doanh
nghiệp giá trị tiêu dùng lần lượt là 1107
triệu đồng/năm và 850 triệu đồng/năm.
Tỷ lệ phân bổ chi phí của doanh nghiệp
cho hoạt động chính đạt khoảng 24% đối
với xăng và 17.3% cho dầu diezel và đến
80% đối với dầu mazut.
Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 37/Quý IV - 2013
44
Cũng giống như các ngành công
nghiệp, quá trình cung cấp dịch vụ của
các doanh nghiệp thuộc ngành giao
thông vận tải cũng đưa ra môi trường
một lượng rác thải. 100% số doanh
nghiệp thuộc ngành giao thông vận tải có
rác thải xuất phát từ quá trình tiêu dùng
năng lượng. Trách nhiệm bảo vệ môi
trường nói chung đòi hỏi doanh nghiệp
cần có các biện pháp xử lý rác thải. Tuy
nhiên, trên thực tế cho thấy tỷ lệ doanh
nghiệp có các hoạt động xử lý rác thải
đạt tỷ lệ rất thấp. Có thể điều này xuất
phát từ thực tế rác thải từ các doanh
nghiệp trong các ngành giao thông vận
tải không tập trung ở nơi doanh nghiệp
hoạt động và chỉ phát sinh trong quá
trình tiêu thụ năng lương. Điền này dẫn
đến nhu cầu và nhận thức của các doanh
nghiệp về các vẫn đề bảo vệ môi trường
còn tương đối thấp.
Nếu so sánh với các ngành công
nghiệp, đầu tư của doanh nghiệp cho các
hoạt động bảo vệ môi trường của các
doanh nghiệp giao thông vận tải khiêm
tốn hơn rất nhiều. Giá trị trung bình của
các thiết bị môi trường chỉ đạt khoảng
dưới 1 triệu đồng trong năm 2009 trong
đó các thiết bị môi trường đạt khoảng
500 nghìn đồng
Chi phí của các doanh nghiệp trong
ngành giao thông vận tải phản ánh quy
mô của các hoạt động bảo vệ môi trường
của doanh nghiệp. Tổng chi phí cho các
hoạt động bảo vệ môi trường chỉ đạt
khoảng 4 triệu đồng trong năm 2009.
Trong cơ cấu chi phí, chi phí xây lắp các
thiết bị là là không đáng kể. Hàng năm,
trung bình một doanh nghiệp trích ra
khoảng 2 triệu đồng chi thường xuyên
cho công tác bảo vệ môi trường. Nếu tính
trong tổng chi phí không liên quan đến
các hoạt động giao thông vận tải hàng
năm của doanh nghiệp, tỷ lệ chi phí dành
cho các hoạt động bảo vệ môi trường rất
nhỏ, chỉ đạt khoảng 12%.
Các ngành giao thông vận tải thường
không có bộ phận chuyên trách liên quan
đến các hoạt động bảo vệ môi trường của
doanh nghiệp. Số liệu tổng điều tra
doanh nghiệp cho thấy, có 6% tổng số
doanh nghiệp có thành lập những tổ chức
chuyên môn bảo vệ môi trường.. Như
vậy còn khoảng hơn 90% số doanh
nghiệp hiện nay chưa có các tổ chức
chuyên môn bảo vệ môi trường. Thành
lập hệ thống quản lý bảo vệ môi trường
cũng chiếm tỷ lệ khiêm tốn trong các
hoạt động của doanh nghiệp. Chỉ có 3%
tổng số doanh nghiệp triển khai các hệ
thống quản lý bảo vệ môi trường của
doanh nghiệp. Số lượng các doanh
nghiệp có những nhu cầu về những
chuẩn mực bảo vệ môi trường không
Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 37/Quý IV - 2013
45
đáng kể, chỉ chiếm 0.6% trong tổng số
doanh nghiệp có các bộ phần về quản lý
doanh nghiệp. 1.8% số doanh nghiệp có
chứng chỉ chứng nhận bảo vệ môi
trường.
Việt Nam đang trong quá trình thực
hiện công nghiệp hóa-hiện đại hóa đất
nước, việc đổi mới mô hình tăng trưởng
đánh dấu sự chuyển mình mạnh mẽ của
nền kinh tế Việt Nam. Song song với quá
trình phát triển kinh tế, nhiều việc làm
xanh đã tồn tại và phát triển trong nền
kinh tế Việt Nam nhưng quy mô chưa
nhiều. Hạn chế về mặt nhận thức đối với
vấn đề bảo tồn gìn giữ và phát triển môi
trường bền vững của người lao độngvà
doanh nghiệp Việt Nam đang là một
trong những thách thức khi nước ta thực
hiện chiến lược tăng trưởng xanh và phát
triển việc làm xanh. Tuy nhiên, để đạt
được mục tiêu phát triển bền vững dựa
trên 3 trụ cốt là kinh tế -xã hội và môi
trường, thì Việt Nam cần phải tiếp tục
nghiên cứu các giải pháp thực hiện có hiệu
quả tăng trưởng xanh qua đó dẫn tới yêu
cầu phải thúc đẩy và phát triển mạnh việc
làm xanh trong tổng số cơ cấu việc làm./.
Tài liệu tham khảo
1. CIEM (2012), Chuyên đề “ Tiềm
năng tạo việc làm xanh ở Việt Nam”,
2. ILO (2013), Sustainable
development, decent work and green
jobs, Report V, Intenational Labour
conference – 102 nd session.
3. ILO (2011),Types of data,
stastiscal measures and indicators of
green jobs to be proceduced, Department
of statistics.
4.Thủ tướng chính phủ (2012),
Quyết định số 1393/QĐ-TTg, ngày 25
tháng 9 năm 2012 về phê duyệt Chiến
lược quốc gia về tăng trưởng xanh;
5. Phòng Thương Mại Châu Âu tại
Việt Nam, phối hợp với Ban chỉ đạo
Chương trình mục tiêu quốc gia về sử
dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả,
Sở Xây dựng thành phố Hồ Chí Minh
(2013), Sổ tay sản phẩm xanh và dịch vụ
xanh, dự án Nghiên cứu Siêu đô thị TP
Hồ Chí Minh “Cơ chế thông nhất quy
hoạch đô thị và môi trường thích nghi
với thay đổi khí hậu toàn cầu; nhà xuất
bản giao thông vận tải
6. TCTK (2009), Số liệu điều tra việc
làm.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- thuc_trang_viec_lam_xanh_o_viet_nam.pdf