Nhìn từ góc độ pháp lý, các chuyên
gia thống nhất rằng, việc đánh thuế tài sản
ở mức độ hợp lý là hợp hiến16, nếu nó nhằm
16 Tòa án Hiến pháp Liên bang (Đức) trong nghị quyết ngày 22/6/1995 (BVerfG-Beschluß vom 22.6.1995 (2 BvL 37/91)
BStBl. 1995 II S. 655) đã nêu ra nguyên tắc chia đôi (Halbteilungsgrundsatz), theo đó tổng gánh nặng thuế của người
nộp thuế không quá 50% tổng thu nhập và tài sản là hợp hiến. Tuy nhiên, về sau chính Tòa án Hiến pháp liên bang (Đức)
không theo đuổi nguyên tắc này nữa, vì cho rằng không thể rút ra một nguyên tắc như vậy từ Hiến pháp hiện hành.
17 Wieland,Joachim, Rechtliche Rahmenbedingungen für eine Wiedereinführung der Vermögensteuer, Rechtsgutachten
erstattet für ver.di, November 2003
vào lợi tức có thể mong đợi của tài sản
(target yields) chứ không nhằm vào giá trị
thuần của tài sản (net value of assets). Còn
việc thuế tài sản có được nhằm vào giá trị
thuần của tài sản hay không thì vẫn là vấn
đề còn tranh luận. Giáo sư Joachim Wieland
(J.W. Goethe University), trong bản báo cáo
ý kiến chuyên gia “Khung pháp lý cho việc
tái đánh thuế tài sản” cho Liên hiệp Công
đoàn ngành dịch vụ, đã nêu quan điểm rằng,
thuế tài sản với tư cách là công cụ phân phối
lại (redistribution instrument) hoàn toàn có
thể là thuế đánh vào giá trị thuần của tài
sản17. Như vậy, ở Đức, việc tái đánh thuế tài
sản cũng như việc áp dụng cơ sở tính thuế
cũng chưa được rõ ràng
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 20/01/2022 | Lượt xem: 235 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Thuế tài sản: Quan niệm và xu hướng áp dụng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tóm tắt:
Các cuộc thảo luận về thuế tài sản ở Việt Nam tuy mới bắt đầu,
nhưng đã có hiện tượng nhiễu thông tin do cách hiểu khác nhau về
loại thuế này. Trên thực tế, có nhiều hình thức thuế khác nhau được
đề cập dưới phạm trù thuế tài sản, bao gồm thuế đánh vào việc nắm
giữ tài sản, thuế đánh vào việc chuyển giao tài sản và thuế đánh
vào lợi tức của tài sản. Việc đánh thuế tài sản dưới các hình thức
khác nhau được áp dụng ở hầu hết các quốc gia, nhưng thuế đánh
vào việc nắm giữ tài sản của cá nhân đến nay là không phổ biến.
Mặc dù vậy, đang có các lập luận đáng chú ý về việc đánh thuế đối
với toàn bộ tài sản của cá nhân và pháp nhân nhằm đối phó với xu
hướng bất bình đẳng đang gia tăng trong xã hội và trên phạm vi
toàn thế giới.
Phan Huy Hồng*
* PGS.TS. Trường đại học Luật TP. Hồ Chí Minh.
Abstract
Discussions on the wealth taxation in Vietnam have started, there
has been information distortion due to different interpretations of
such a tax. This article provides information on the conceptual
categories as well as the trends of wealth taxation in the world to
contribute to a common starting point for subsequent discussions.
The results of the studies referred to in the article show that there
are various forms of taxation that fall under the scope of wealth
taxes, including tax on the holding of capital or wealth; tax on the
transfer of capital or tax on the appreciation of capital or wealth.
The taxation of wealth in various forms is applied in most countries
around the world. But the form of wealth holding taxes up to now
is not prevalent.There are, however, significant arguments for
taxation on the wealth holding of individualsand corporations to
counteractthe inequality increasing in society and across the world.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: thuế tài sản, thuế liên quan
tài sản, thuế tài sản trên thế giới
Lịch sử bài viết:
Nhận bài : 07/06/2018
Biên tập : 16/06/2018
Duyệt bài : 25/06/2018
Article Infomation:
Keywords: wealth tax, wealth-related
taxes, wealth tax in the world
Article History:
Received : 07 Jun 2018
Edited : 16 Jun 2018
Approved : 26 Jun 2018
THUẾ TÀI SẢN: QUAN NIỆM VÀ XU HƯỚNG ÁP DỤNG
Bất kỳ một đề xuất đánh thuế nào cũng
sẽ gây sự chú ý của dư luận, nhưng đề xuất
thuế tài sản thì thường gây tranh cãi. Người
làm chính sách không thể làm ngơ trước các
chất vấn như: tôi làm ra tiền tôi đã nộp thuế
thu nhập rồi; tôi mua sắm tôi phải nộp thuế
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
23Số 14(366) T6/2018
giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt; tôi mua
đất tôi cũng phải nộp thuế, lệ phí; tôi bán đất
tôi lại cũng phải nộp thuế; để làm được ngôi
nhà tôi cũng đã phải trả các loại phí và thuế
rồi; vậy sao còn đánh thuế trên những gì tôi
đã nộp thuế? Để trấn an dư luận, các nhà
làm chính sách thường viện dẫn đến các lý
do như: trên thế giới đã có 174/193 quốc gia
đánh thuế tài sản, ngân sách nhà nước đang
khó khăn do hội nhập kinh tế quốc tế làm
giảm nguồn thu thuế xuất nhập khẩu, v.v..
Điều cần thiết trước khi hỏi và trả lời,
trước hết cần xác định thế nào là thuế tài
sản cũng như xu hướng áp dụng thuế đó trên
thế giới.
1. Quan niệm “thuế tài sản”
Trên thế giới, có nhiều loại thuế khác
nhau được đề cập dưới phạm trù “thuế tài
sản” (wealth taxes)1. Trong báo cáo tóm
tắt nghiên cứu “Thuế tài sản: các vấn đề và
thực tiễn trên thế giới” năm 2013, giáo sư
Chris Evans (Trường Kinh tế Úc, Đại học
New South Wales) cho rằng: “Có thể có ba
hình thức thuế tài sản (đôi khi được gọi là
thuế vốn - các thuật ngữ có thể hoán đổi cho
nhau). Người ta có thể đánh thuế việc nắm
giữ vốn hoặc tài sản (như trong thuế tài sản
hàng năm, hay trong thuế giá trị ròng hoặc
tài sản ròng); và/hoặc người ta có thể đánh
thuế việc chuyển giao vốn hoặc tài sản (như
1 Bên cạnh thuật ngữ wealth taxes được hiểu là “thuế tài sản” trong phạm vi bài viết này, còn có thuật ngữ “property
taxes” cũng thường được dịch và hiểu theo nghĩa là thuế tài sản. Tuy nhiên, “property taxes” là một phạm trù hẹp hơn
so với weath taxes. Property taxes dùng để chỉ các loại thuế điều tiết vào các dạng tài sản cụ thể, thường được định danh
và xác định quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng, như: đất đai, nhà ở, xe hơi, tàu thuyền...
2 Evans,Chris, “Wealth Taxes: problems and practice around the world”, Briefing paper, Centre on Household Assets
and Savings Management (CHASM), tr. 1, tại https://www.birmingham.ac.uk/Documents/college-social-sciences/so-
cial-policy/CHASM/briefing-papers/2013/wealth-taxes-problems-and-practices-around-the-world.pdf, truy cập ngày
17/5/2018.
3 Pichet, Eric, “The Economic Consequences of the French Wealth Tax” (September 15, 2008). La Revue de Droit Fiscal,
Vol. 14, p. 5, April 2007, available at SSRN: https://ssrn.com/abstract=1268381
4 Homburg,Stefan, Allgemeine Steuerlehre, 7. Auflage, Verlag Vahlen, 2015
5 Luật Thuế tài sản của Đức (Vermögensteuergesetz in der Fassung der Bekanntmachung vom 14. November 1990 (BGBl.
I S. 2467), das zuletzt durch Artikel 107 des Gesetzes vom 29. Oktober 2001 (BGBl. I S. 2785) geändert worden ist).
trong thuế di sản, thuế quà tặng); và/hoặc
người ta cũng có thể đánh thuế vào lợi tức
của vốn hoặc tài sản (như trong thuế lợi tức
vốn [Capital Gains Tax – CGT]). Đặc trưng
của thuế vốn hoặc thuế tài sản là về nguyên
tắc chúng liên quan đến toàn bộ phạm vi
hoặc chủng loại tài sản: tiền mặt và số dư
ngân hàng; bất động sản như nhà ở; tài sản
cá nhân như đồ trang sức, tranh ảnh, đồ nội
thất, ô tô và du thuyền; cổ phần và phần vốn
góp; và tài sản kinh doanh”2.
Trong khi đó, một số nghiên cứu
khác về thuế nhìn nhận “thuế tài sản” chỉ
là loại thuế hàng năm đánh vào giá trị tài
sản ròng của cá nhân hay pháp nhân và
là thuế đánh vào việc nắm giữ tài sản của
cá nhân hay pháp nhân. Nghiên cứu của
giáo sư người Pháp Eric Pichet (Bordeaux
Business School) công bố trong bài báo
“Các hậu quả kinh tế của thuế tài sản
Pháp” (The Economic Consequences of the
French Wealth Tax)3 đề cập đến “Impôt de
Solidarité sur la Fortune”(ISF) là loại thuế
tài sản đánh vào giá trị tài sản ròng của cá
nhân. Trong chuyên khảo “Lý luận chung
về thuế” (Allgemeine Steuerlehre) của giáo
sư người Đức Stefan Homburg (Leibniz
University of Hanover)4 cũng đề cập đến
thuế tài sản (Vermögensteuer)5 là một loại
thuế hàng năm đánh vào toàn bộ giá trị tài
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
24 Số 14(366) T6/2018
sản ròng của cá nhân và pháp nhân. Như
vậy, các nghiên cứu trên đều có phân biệt rõ
ràng giữa “thuế tài sản” (Vermögensteuer)
với các loại “thuế liên quan đến tài sản”
(vermögensbezogene Steuer). Các loại
thuế như thuế đất (Grundsteuer), thuế
ô tô (Kraftfahrzeugsteuer), thuế kinh
doanh (Gewerbesteuer), thuế nhà ở thứ
hai (Zweitwohnungsteuer), thuế chó
(Hundesteuer), thuế di sản (Erbschaftsteuer),
thuế quà tặng (Schenkungsteuer) là các loại
thuế liên quan đến tài sản. Trong đó, có loại
thuế đánh vào việc nắm giữ tài sản như thuế
đất, thuế nhà ở thứ hai; có loại thuế đánh
vào việc chuyển giao tài sản như thuế di sản,
thuế quà tặng; và cũng có loại thuế đánh vào
lợi tức vốn như thuế kinh doanh.
Ở Đức, một tài sản có thể bị đánh thuế
hai lần bởi hai loại thuế có cùng bản chất,
như thuế đất (thuộc loại thuế liên quan đến
tài sản) và thuế tài sản. Tuy nhiên, những
trường hợp như vậy, theo quan điểm phổ
biến, không phải là đánh thuế trùng, bởi
mục đích đánh thuế của các loại thuế này
khác nhau. Thuế đất đánh vào mọi trường
hợp nắm giữ tài sản là đất, trong khi giá trị
đất đó còn có thể thuộc đối tượng chịu thuế
của thuế tài sản, nếu tổng giá trị tài sản ròng
bao gồm giá trị đất của người nộp thuế vượt
ngưỡng thuế tài sản. Với ngưỡng thuế tài
sản khá cao, thuế tài sản ở Pháp6 và Đức7
còn được gọi là “thuế nhà giàu” hay “thuế
triệu phú”.
6 Từ năm 2012, ngưỡng chịu thuế tài sản theo Luật Thuế tài sản ISF của Pháp là 800.000 Euro đối với mỗi cá nhân,
trước đó là 1.300.000 Euro (xem: Christian Schubert, "Die Wohlhabenden werden zur Kasse gebeten", Frankfurter
Allgemeine Zeitung, 18/7/2012).
7 Theo khoản 1 Điều 6 Luật Thuế tài sản của Đức (Vermögensteuergesetz in der Fassung der Bekanntmachung vom 14.
November 1990 (BGBl. I S. 2467), daszuletzt durch Artikel 107 des Gesetzes vom 29. Oktober 2001 (BGBl. I S. 2785)
geändert worden ist), ngưỡng chịu thuế tài sản đối với mỗi cá nhân là 120.000 DM (tương đương khoảng 60.000 Euro).
Tuy nhiên, từ năm 1997 Chính phủ Liên bang Đức đã ngừng thu thuế tài sản, mặc dù Luật này vẫn còn hiệu lực (trên
danh nghĩa) cho tới nay.
8 Xem: Bộ Tài chính, Dự thảo Tờ trình về đề nghị xây dựng dự án Luật Thuế tài sản, ngày 17/4/2018, trên:
mof.gov.vn
Với quan niệm về “thuế tài sản” rộng
như nghiên cứu của giáo sư Chris Evans đề
cập, có thể nói nhiều quốc gia trên thế giới đã
đánh thuế tài sản. Tuy nhiên, chỉ có một số
ít quốc gia đánh thuế đối với toàn bộ giá trị
ròng của tài sản của cá nhân hay pháp nhân.
Việt Nam cũng đã đánh thuế tài sản
dưới hình thức này hay hình thức khác.
Ví dụ, thuế đánh vào thu nhập từ chuyển
nhượng bất động sản là hình thức thuế đánh
vào việc chuyển giao tài sản, mặc dù theo
luật thuế Việt Nam hiện hành thì đây là loại
thuế đánh vào thu nhập. Thuế sử dụng đất
phi nông nghiệp và thuế sử dụng đất nông
nghiệp là hình thức thuế đánh vào việc nắm
giữ tài sản là quyền đối với bất động sản.
Việt Nam chỉ chưa có thuế đánh vào giá trị
ròng của toàn bộ tài sản của cá nhân hay
pháp nhân mà thôi. Đề xuất thuế tài sản của
Bộ Tài chính8, nếu chỉ giới hạn ở đối tượng
chịu thuế là đất (chính xác hơn là giá trị
quyền sử dụng đất), nhà và công trình xây
dựng hay ô tô, du thuyền, cũng chỉ là hình
thức thuế đánh vào việc nắm giữ một hoặc
một số loại tài sản. Tuy nhiên, việc đặt tên
thuế là “thuế tài sản” là chưa hợp lý.
2. Xu hướng áp dụng thuế tài sản
Mặc dù “thuế tài sản” có thể được xem
xét dưới phạm trù rộng, nhưng nghiên cứu
của Chris Evans cũng cho thấy, tại nơi nó
được áp dụng, thuế tài sản chỉ chiếm một
tỷ lệ tương đối nhỏ trong tổng thu thuế của
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
25Số 14(366) T6/2018
mỗi quốc gia. Ví dụ, trong Tổ chức Hợp tác
và Phát triển kinh tế (OECD) với 34 thành
viên, khoản thu thuế kết hợp của các nước
thành viên từ thuế tài sản hàng năm và thuế
chuyển nhượng tài sản trung bình chỉ chiếm
dưới 1% tổng thu thuế. Trong khi đó, rất khó
đo lường được sự đóng góp của hình thức
thứ ba của thuế tài sản - thuế lợi tức vốn
(Capital Gains Tax) - trong tổng thu thuế,
vì lợi tức vốn có thể được xem là một hình
thức thu nhập và do đó thường được coi là
một phần của cơ sở thuế thu nhập chứ không
phải là cơ sở thuế tài sản. Ở Vương quốc
Liên hiệp Anh và Bắc Ireland (UK), thu từ
thuế lợi tức vốn cũng hiếm khi vượt quá 2%
tổng thu thuế; và ở Úc - nơi mà chế độ thuế
lợi tức vốn toàn diện hơn và không có số tiền
miễn thuế hàng năm như ở UK - loại thuế
này thường chỉ đóng góp từ 2% đến 4% thuế
thu được9.
Pháp là một trong số ít quốc gia đánh
thuế tài sản đối với toàn bộ giá trị tài sản
ròng của cá nhân (là hình thức thuế đánh vào
việc nắm giữ tài sản). Theo một nghiên cứu
của GS. Eric Pichet10, “Mặc dù nỗ lực ‘làm
mềm’ thuế tài sản ISF, trong kỳ lập pháp
cuối cùng (2002-2007) tổng thu ISF đã tăng
vọt, nhảy từ 2,5 tỷ euro năm 2002 lên 3,6
tỷ euro vào năm 2006. Tuy nhiên, chi phí
thu thuế vẫn ở mức thấp (khoảng 1,6% số
tiền thu được); việc không tăng ngưỡng chịu
thuế cho phù hợp với lạm phát từ năm 1998
9 Evans,Chris, tlđd, tr. 1.
10 Pichet,Eric, tlđd (Abstract)
11 Xem: https://www.service-public.fr/particuliers/vosdroits/N20074
12 Xem luật này tại: Code général des impôts (CGI) (Bộ luật chung về thuế), Điều 964- 982 https://
www.leg i f rance .gouv. f r /a ff ichCode .do; j sess ionid=FC812AAAC20FB509771A381C9A8435CF.
tplgfr21s_3?idSectionTA=LEGISCTA000036384997&cidTexte=LEGITEXT000006069577&dateTexte=20180521
13 Vermögensteuergesetz in der Fassung der Bekanntmachung vom 16. Januar 1952, Bundesgesetzblatt Jahrgang 1952
Teil I S. 28.
14 Vermögensteuergesetz in der Fassung der Bekanntmachung vom 14. November 1990 (BGBl. I S. 2467), das zuletzt
durch Artikel 107 des Gesetzes vom 29. Oktober 2001 (BGBl. I S. 2785) geändert worden ist.
15 BVerfG-Beschluß vom 22.6.1995 (2 BvL 37/91) BStBl. 1995 II S. 655
đến năm 2004 đã tạo ra khoản tăng thu vượt
quá mong đợi là 400 triệu euro chỉ riêng
trong năm tài chính 2004 cho Nhà nước
Pháp; gian lận ISF chủ yếu liên quan đến
việc đánh giá tài sản bất động sản dưới giá
trị đã ổn định theo thời gian ở mức khoảng
28% tổng thu thuế, tương đương (với giả
định khung pháp lý không thay đổi) khoản
hụt thu ngân sách 700 triệu Euro trong năm
2004; giá trị vốn bị chuyển ra nước ngoài kể
từ khi áp dụng ISF vào năm 1988 khoảng
200 tỷ Euro; ISF gây ra hụt thu ngân sách
hàng năm là 7 tỷ euro, hay khoảng gấp đôi
số tiền mà nó mang lại; thuế tài sản ISF có
thể đã làm giảm tăng trưởng GDP 0,2% mỗi
năm, hay khoảng 3,5 tỷ Euro (tương đương
với với số tiền mà nó mang lại)”.
Cân nhắc về hậu quả kinh tế của loại
thuế này, tháng 9/2017 chính quyền của Tổng
thống Emmanuel Macron quyết định bãi bỏ
ISF và thay thế bằng sắc thuế Impôt sur la
fortune immobilière (IFI) (chỉ đánh vào bất
động sản), có hiệu lực từ 01/01/201811,12.
Ở Đức, Luật Thuế tài sản được ban
hành năm 195213, chỉ chưa đầy 3 năm sau
ngày lập quốc, sau nhiều lần sửa đổi, bản
có hiệu lực hiện nay được công bố vào năm
199014. Tuy nhiên, từ năm 1997, sau khi Tòa
án Hiến pháp Liên bang tuyên một số nội
dung của Luật này là không phù hợp với
Hiến pháp, Chính phủ Liên bang Đức đã
không hành thu thuế tài sản này15.
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
26 Số 14(366) T6/2018
Dưới sức ép của các đảng phái chính
trị, từ đầu những năm 2000 đến nay, ở Đức
liên tục diễn ra các cuộc tranh luận về việc
tái đánh thuế tài sản. Gần đây nhất, trong
cương lĩnh tranh cử, Đảng Cánh tả (Die
Linkspartei) đưa ra điều kiện để tham gia
vào chính phủ liên minh với Đảng Dân chủ
xã hội và Đảng Xanh trong trường hợp chiến
thắng cuộc bầu cử Quốc hội Liên bang năm
2017 là tái đánh thuế tài sản trở lại. Đảng
này đề xuất ngưỡng đánh thuế là 01 triệu
Euro mỗi cá nhân và thuế suất là 5%. Tuy
nhiên, Đảng Dân chủ xã hội chỉ quyết nghị
trong cương lĩnh tranh cử của mình về việc
sẽ lập một ủy ban để xem xét việc tái đánh
thuế tài sản.
Nhìn từ góc độ pháp lý, các chuyên
gia thống nhất rằng, việc đánh thuế tài sản
ở mức độ hợp lý là hợp hiến16, nếu nó nhằm
16 Tòa án Hiến pháp Liên bang (Đức) trong nghị quyết ngày 22/6/1995 (BVerfG-Beschluß vom 22.6.1995 (2 BvL 37/91)
BStBl. 1995 II S. 655) đã nêu ra nguyên tắc chia đôi (Halbteilungsgrundsatz), theo đó tổng gánh nặng thuế của người
nộp thuế không quá 50% tổng thu nhập và tài sản là hợp hiến. Tuy nhiên, về sau chính Tòa án Hiến pháp liên bang (Đức)
không theo đuổi nguyên tắc này nữa, vì cho rằng không thể rút ra một nguyên tắc như vậy từ Hiến pháp hiện hành.
17 Wieland,Joachim, Rechtliche Rahmenbedingungen für eine Wiedereinführung der Vermögensteuer, Rechtsgutachten
erstattet für ver.di, November 2003
vào lợi tức có thể mong đợi của tài sản
(target yields) chứ không nhằm vào giá trị
thuần của tài sản (net value of assets). Còn
việc thuế tài sản có được nhằm vào giá trị
thuần của tài sản hay không thì vẫn là vấn
đề còn tranh luận. Giáo sư Joachim Wieland
(J.W. Goethe University), trong bản báo cáo
ý kiến chuyên gia “Khung pháp lý cho việc
tái đánh thuế tài sản” cho Liên hiệp Công
đoàn ngành dịch vụ, đã nêu quan điểm rằng,
thuế tài sản với tư cách là công cụ phân phối
lại (redistribution instrument) hoàn toàn có
thể là thuế đánh vào giá trị thuần của tài
sản17. Như vậy, ở Đức, việc tái đánh thuế tài
sản cũng như việc áp dụng cơ sở tính thuế
cũng chưa được rõ ràng■
Tài liệu tham khảo
1. Evans, Chris (2013), “Wealth Taxes: problems and practice around the world”, Briefing paper, Centre
on Household Assets and Savings Management (CHASM), available athttps://www.birmingham.ac.uk/
Documents/college-social-sciences/social-policy/CHASM/briefing-papers/2013/wealth-taxes-problems-
and-practices-around-the-world.pdf
2. Pichet, Eric (2007), The Economic Consequences of the French Wealth Tax (September 15, 2008). La Revue
de Droit Fiscal, Vol. 14, p. 5, April 2007, available at SSRN: https://ssrn.com/abstract=1268381
3. Wieland, Joachim, Rechtliche Rahmenbedingungen für eine Wiedereinführung der Vermögensteuer,
Rechtsgutachten erstattet für ver.di, November 2003
4. Piketty,Thomas (2015), Capital and Wealth Taxation in the 21stCentury, National Tax Journal, 68:2, pp. 449-
458, available at
html
5. Piketty, Thomas (2014), Capital in the Twenty-First Century (original title: Le Capital au XXIe siècle;
translator:Arthur Goldhammer), Harvard University Press, published inEnglish: April 15, 2014
6. Homburg, Stefan (2015), Allgemeine Steuerlehre, 7. Auflage Verlag Vahlen 2015.
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
27Số 14(366) T6/2018
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- thue_tai_san_quan_niem_va_xu_huong_ap_dung.pdf