Kết luận
Nhờ vào các chính sách, sáng kiến hợp tác kinh tế biên giới,
tình hình thương mại, đầu tư, du lịch, di chuyển lao động giữa
Việt Nam với ba nước láng giềng có chung đường biên giới
nhìn chung có sự gia tăng nhanh chóng, đặc biệt là quan hệ
thương mại Việt - Trung. Tuy nhiên, với những hạn chế và khó
khăn như đã phân tích ở trên, Chính phủ và các địa phương
cần có các giải pháp đồng bộ và cụ thể để đồng thời vừa quản
lý, vừa phát triển thương mại biên giới. Trước hết, cần có sự
phối hợp chính sách với các nước có chung đường biên giới
thông qua tăng cường cơ chế trao đổi chính sách kinh tế vĩ
mô, chính sách giữa các tỉnh biên giới, đặc biệt là chính sách
về thương mại, du lịch, thuế, hải quan, quy hoạch phát triển
kinh tế - xã hội; hỗ trợ các địa phương trong việc hài hòa
hóa chính sách, tạo một hành lang pháp lý minh bạch hỗ trợ
doanh nghiệp phát triển. Cần quan tâm hỗ trợ nguồn lực đầu
tư phát triển hạ tầng kinh tế cửa khẩu cho các tỉnh biên giới.
Bên cạnh đó, cần đánh giá, rà soát về các nội dung của Hiệp
định thương mại biên giới giữa Việt Nam với các nước láng
giềng, có các biện pháp tổ chức lại việc buôn bán biên giới
tiểu ngạch, khuyến khích xuất khẩu theo hình thức chính
ngạch và thanh toán theo thông lệ quốc tế. Chính quyền địa
phương và các hiệp hội doanh nghiệp cũng cần xây dựng hệ
thống hỗ trợ cho doanh nghiệp, đặc biệt xây dựng các kênh
thông tin thường xuyên và cập nhật về chính sách thương
mại biên giới của các nước láng giềng.
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 13/01/2022 | Lượt xem: 312 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Thương mại biên giới của Việt Nam: Thực trạng và một số vấn đề đặt ra, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1Khoa học Xã hội và Nhân văn
62(4) 4.2020
Mở đầu
Hợp tác kinh tế biên giới là một xu hướng ngày càng phát
triển với nhiều hình thức khác nhau [1]. Việt Nam có chung
đường biên giới trên đất liền với ba nước Trung Quốc, Lào
và Campuchia với tổng cộng chiều dài biên giới khoảng
4.654 km. Có thể thấy, quan điểm nhất quán của Việt Nam
là phát triển kinh tế khu vực biên giới gắn với việc xây dựng
và phát triển mối quan hệ chính trị hữu nghị, ổn định, bền
vững và thúc đẩy hợp tác kinh tế biên giới với Trung Quốc,
Lào và Campuchia; đồng thời việc phát triển kinh tế biên
giới luôn phải đi kèm với yêu cầu đảm bảo giữ vững an
ninh, quốc phòng. Trong các hình thức hợp tác kinh tế biên
giới, thương mại biên giới là hình thức lâu đời và phát triển
Thương mại biên giới của Việt Nam:
Thực trạng và một số vấn đề đặt ra
Nguyễn Anh Thu1*, Nguyễn Thị Minh Phương1, Nguyễn Thị Vũ Hà1, Bùi Bá Nghiêm2
1Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội
2Cục Xuất nhập khẩu, Bộ Công thương
Ngày nhận bài 27/2/2020; ngày chuyển phản biện 2/3/2020; ngày nhận phản biện 29/3/2020; ngày chấp nhận đăng 31/3/2020
Tóm tắt:
Hợp tác kinh tế biên giới, nhất là thương mại giữa các quốc gia láng giềng là một xu thế đang ngày càng tỏ rõ hiệu
quả vì lợi ích chung của các bên tham gia, đặc biệt với các quốc gia có đường biên giới dài như Việt Nam. Bài viết
chỉ ra rằng, hoạt động thương mại giữa Việt Nam với ba nước láng giềng có chung đường biên giới nhìn chung có sự gia
tăng nhanh chóng, đặc biệt là quan hệ thương mại Việt - Trung. Tuy nhiên, Chính phủ và các địa phương cần có các giải
pháp cho các vấn đề lớn đặt ra, như vấn đề về cơ sở hạ tầng, các khó khăn trong phát triển cộng đồng doanh nghiệp tại địa
phương cũng như sự thống nhất, hài hoà về chính sách với quốc gia láng giềng.
Từ khóa: hợp tác kinh tế biên giới, thương mại biên giới, Việt Nam.
Chỉ số phân loại: 5.2
*Tác giả liên hệ: Email: thuna@vnu.edu.vn
Vietnam’s border trade: Current situation and issues
Anh Thu Nguyen1*, Thi Minh Phuong Nguyen1, Thi Vu Ha Nguyen1, Ba Nghiem Bui2
1University of Economics and Business, Vietnam National University, Hanoi
2Import and Export Department, Ministry of Industry and Trade
Received 27 February 2020; accepted 31 March 2020
Abstract:
Border economic cooperation and border trade among neighboring countries in particular, are being proved to
be increasingly effective for the mutual benefits of the participants, especially for the country with a long border
like Vietnam. The study exhibited that the trade between Vietnam and three neighboring countries has developed
rapidly, especially the trade between Vietnam and China. However, the Government and localities should have
solutions for important issues like infrastructure and for difficulties in developing the local business community as
well as the policy harmonisation with the neighboring countries.
Keywords: border economic cooperation, border trade, Vietnam.
Classification number: 5.2
2Khoa học Xã hội và Nhân văn
62(4) 4.2020
nhất. Hoạt động thương mại biên giới của Việt Nam với các
quốc gia láng giềng đã đóng góp lớn vào sự phát triển kinh
tế của các tỉnh biên giới Việt Nam [2]. Tuy nhiên, vẫn còn
các vấn đề lớn đặt ra cần giải quyết liên quan đến sự phát
triển bền vững của các hình thức hợp tác kinh tế biên giới
nói chung và thương mại biên giới nói riêng. Bài viết này sẽ
đánh giá thực trạng hợp tác thương mại biên giới của Việt
Nam với các nước láng giềng thông qua các số liệu về kim
ngạch, tốc độ tăng trưởng, cơ cấu mặt hàng, qua đó đưa ra
một số nhận định, đánh giá và hàm ý chính sách.
Thực trạng hợp tác thương mại biên giới giữa Việt Nam với
Trung Quốc, Lào và Campuchia
Hoạt động thương mại biên giới giữa Việt Nam với các
nước có chung đường biên giới trên đất liền ngày càng phát
triển và đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế - xã
hội các địa phương biên giới (bảng 1).
Bảng 1 cho thấy trong giai đoạn 2011-2019, tổng kim
ngạch xuất nhập khẩu qua biên giới nhìn chung gia tăng qua
các năm (trừ năm 2012 giảm 10,9%). Kim ngạch năm 2018
đạt hơn 31 tỷ USD, gấp hơn 2 lần kim ngạch năm 2011, đạt
hơn 13,5 tỷ USD. Kim ngạch thương mại biên giới chiếm
tỷ lệ cao, 27-40% trong tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của
cả nước.
Xét về cán cân thương mại biên giới, Việt Nam thường
xuyên xuất siêu qua biên giới với Lào và Campuchia với giá
trị ngày càng tăng. Năm 2019, mức xuất siêu với Campuchia
là hơn 3,4 tỷ USD và với Lào là gần 250 triệu USD. Đối với
Trung Quốc, Việt Nam thường xuyên nhập siêu.
Thương mại biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc
Hoạt động thương mại biên giới Việt Nam - Trung Quốc
sôi động nhất trong ba tuyến biên giới với tốc độ tăng trưởng
cao và ổn định, quy mô thương mại qua biên giới tương đối
lớn. Năm 2016, kim ngạch xuất nhập khẩu qua biên giới
giữa Việt Nam và Trung Quốc chiếm tới 84,2% tổng kim
ngạch biên mậu của Việt Nam. Trong khi đó, kim ngạch với
Campuchia chỉ chiếm 11,6% và với Lào 4,2%. Kim ngạch
thương mại qua biên giới Việt - Trung gia tăng đáng kể trong
giai đoạn 2011-2016 với kim ngạch năm 2016 đạt gần 24,5
tỷ USD, gấp hơn hai lần kim ngạch đạt được năm 2011 (hơn
10,3 tỷ USD). Đặc biệt năm 2013, kim ngạch xuất nhập
khẩu tăng rất mạnh (87,8%). Năm 2018, kim ngạch thương
mại biên giới Việt - Trung đạt 25,636 tỷ USD. Cụ thể, xuất
nhập khẩu đạt 7,108 tỷ USD. Các phương thức tạm nhập tái
xuất, chuyển khẩu, kho ngoại quan đạt 17,468 tỷ USD; mua
bán, trao đổi hàng hóa cư dân biên giới đạt 1,06 tỷ USD [3].
Tổng giá trị hàng hóa qua tuyến biên giới Việt Nam - Trung
Quốc gần mười năm trở lại đây tăng trưởng trung bình
khoảng 32% và chiếm tỷ lệ 31,25% tổng kim ngạch thương
mại song phương trong cùng giai đoạn, trong đó tập trung
phần lớn qua các cửa khẩu thuộc địa bản các tỉnh như Lạng
Sơn, Quảng Ninh, Lào Cai. Tuy nhiên, cán cân thanh toán
trong thương mại biên giới với Trung Quốc thâm hụt trong
thời gian dài là một vấn đề cần lưu ý đối với Việt Nam [5].
Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu qua các cửa khẩu Việt -
*Theo Thông báo số 2919/BCT-XNK ngày 16/4/2018 của Bộ Công thương về
việc giải thể Ban chỉ đạo thương mại biên giới Trung ương, Ban chỉ đạo thương
mại biên giới sẽ không có cấp Trung ương mà chỉ có cấp tỉnh do UBND thành
lập (Ban chỉ đạo thương mại biên giới tỉnh).
Bảng 1. Kim ngạch, tốc độ tăng và tỷ trọng thương mại hàng hóa qua biên giới của Việt Nam với Trung Quốc, Lào và Campuchia giai
đoạn 2011-2019.
Đơn vị: triệu USD, %
Nguồn: năm 2011-2016: tổng hợp của Thường trực Ban chỉ đạo thương mại biên giới (2017)*; năm 2017-2019: tổng hợp từ các báo cáo tình hình xuất nhập khẩu
giữa Việt Nam và Lào, Việt Nam và Campuchia của Bộ Công thương.
Năm
Trung Quốc Lào Campuchia Tổng cộng
Kim ngạch Tốc độ tăng Kim ngạch Tốc độ tăng Kim ngạch Tốc độ tăng Kim ngạch Tốc độ tăng Tỷ trọng
2011 10.352,8 29,9% 813,5 27,8% 2.389,4 22,1% 13.555,7 28,3% 35%
2012 8.662,1 -16,3% 1.075,4 32,2% 2.347,0 -1,8% 12.084,5 -10,9% 27%
2013 16.266,0 87,8% 1.259,0 17,1% 3.424,0 45,9% 20.949,0 73,4% 38%
2014 17.203,0 5,8% 1.512,0 20,1% 2.963,0 -13,5% 21.678,0 3,5% 34%
2015 24.067,1 39,9% 1.321,5 -12,6% 3.051,9 3,0% 28.440,5 31,2% 40%
2016 24.497,0 1,8% 1.201,2 -9,1% 3.387,6 11,0% 29.085,8 2,3% 34%
2017 _ _ 889,5 _ 3.801,1 _ _ _ _
2018 25.636 [3] _ 1.031,9 _ 4.760,7 _ _ _ _
Ước 2019
19.431 (9 tháng
đầu 2019) [4]
_ 1.158,4 _ 5.228,3 _ _ _ _
3Khoa học Xã hội và Nhân văn
62(4) 4.2020
Trung chủ yếu vẫn là các mặt hàng nông sản, bao gồm trái
cây tươi, chiếm trên 50% tổng khối lượng hàng hóa xuất
khẩu qua các cửa khẩu biên giới. Bên cạnh đó là các mặt
hàng xuất khẩu có sự tăng trưởng mạnh mẽ như cao su và
các sản phẩm từ cao su, sắn lát và tinh bột sắn, thủy sản,
bánh kẹo, cà phê, chè các loại Thương mại biên giới Việt
Nam - Trung Quốc giúp tiêu thụ một lượng lớn nông sản
của Việt Nam. Hiện thị trường Trung Quốc chiếm tỷ trọng
khá lớn trong xuất khẩu nông sản của Việt Nam, như sắn
(chiếm 90%), gạo (40%), cao su (50%). Cơ cấu mặt hàng
tạm nhập tái xuất chủ yếu là hàng đông lạnh, quặng các
loại, máy móc thiết bị, linh kiện phụ tùng, nông sản, lâm
sản, hóa chất và các mặt hàng khác. Cơ cấu mặt hàng kho
ngoại quan chủ yếu là máy móc thiết bị, hàng đông lạnh.
Cơ cấu hàng hóa trao đổi cư dân biên giới chủ yếu là hàng
nông sản và tạp hóa. Ở chiều ngược lại, Việt Nam chủ yếu
nhập khẩu qua biên giới với Trung Quốc những nhóm hàng
chế biến, chế tạo như máy móc thiết bị, phụ tùng, sắt thép
các loại, điện thoại các loại và linh kiện, hóa chất, sản phẩm
từ chất dẻo...
Việt Nam luôn thuộc nhóm đối tác thương mại lớn nhất
của hai tỉnh Quảng Tây và Vân Nam (Trung Quốc). Cụ
thể, Việt Nam liên tục là bạn hàng thương mại lớn nhất của
Quảng Tây trong 17 năm qua. Số liệu thống kê thương mại
biên giới giữa Quảng Tây với các tỉnh biên giới Việt Nam
cho thấy sự tăng trưởng vượt bậc về quy mô thương mại
chính ngạch. Năm 2011, kim ngạch xuất khẩu của Quảng
Tây sang Việt Nam chỉ đạt 7 tỷ USD, năm 2012, con số
này đạt 9,73 tỷ USD, tăng 28,4% và đóng góp 23,7% vào
tổng kim ngạch thương mại hai chiều Trung Quốc - Việt
Nam. Năm 2013, con số này là 13,2 tỷ USD, tăng trưởng
36%. Năm 2014, kim ngạch xuất khẩu Quảng Tây - Việt
Nam chỉ đạt mức 14 tỷ USD do những căng thẳng liên quan
đến việc Trung Quốc hạ đặt trái phép dàn khoan HD981.
Nhưng khi quan hệ giữa hai nước được cải thiện, kim ngạch
thương mại hai chiều Quảng Tây - Việt Nam lại tăng mạnh,
lên tới 25 tỷ USD vào năm 2015, 24,64 tỷ USD năm 2016,
chiếm tới 84,9% tổng kim ngạch thương mại hai chiều giữa
Quảng Tây và các nước ASEAN. Đối với Vân Nam, thương
mại hai chiều với Việt Nam thường chiếm khoảng 15-20%
tổng kim ngạch thương mại với các nước ASEAN. Cùng
với Myanmar và Lào, Việt Nam nằm trong nhóm ba đối tác
thương mại lớn nhất của Vân Nam. Ở chiều ngược lại, theo
số liệu của Cục Thống kê các tỉnh biên giới phía Bắc Việt
Nam, các tỉnh Quảng Ninh, Lạng Sơn, Lào Cai là ba tỉnh có
giá trị hàng hóa xuất khẩu lớn nhất sang Trung Quốc và giá
trị hàng hóa nhập khẩu lớn nhất từ Trung Quốc.
Thương mại biên giới giữa Việt Nam và Lào
Thương mại biên giới giữa Việt Nam với Lào cũng đạt
được những tiến bộ nhất định mặc dù có xu hướng giảm sút
trong một vài năm gần đây. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu
chính ngạch hai chiều qua biên giới giữa Việt Nam và Lào
từ năm 2011-2014 đều tăng trên 17%. Tuy nhiên, từ năm
2015 kim ngạch xuất nhập khẩu qua biên giới có xu hướng
sụt giảm, cụ thể năm 2015 còn hơn 1,3 tỷ USD, giảm 12,6%
so với năm 2014; và năm 2016 kim ngạch lại tiếp tục giảm
xuống 1,2 tỷ USD, tương đương với mức giảm 9,1% so với
năm trước đó. Mức giảm này còn tiếp tục trong năm 2017
nhưng sau đó đã được phục hồi vào năm 2018 và 2019. Cán
cân thương mại qua biên giới giữa Lào và Việt Nam không
ổn định, ở giai đoạn trước Việt Nam nhập siêu, song những
năm gần đây thường xuất siêu, tuy nhiên giá trị còn chưa
cao, trong khoảng 150-250 triệu USD/năm.
Hàng hóa xuất khẩu qua biên giới từ Việt Nam sang Lào
chủ yếu là xăng dầu các loại, sắt thép, phương tiện vận tải
và phụ tùng. Hàng hóa nhập khẩu qua biên giới từ Lào chủ
yếu là phân bón các loại, quặng và khoáng sản. Có thể thấy,
cơ cấu mặt hàng xuất nhập khẩu qua biên giới giữa hai bên
chưa đa dạng và do đó thương mại biên giới phụ thuộc lớn
vào sự biến động của các hàng hóa trao đổi này. Đây cũng
là một nguyên nhân giúp lý giải sự sụt giảm kim ngạch xuất
nhập khẩu qua biên giới giữa hai bên trong một vài năm
gần đây.
Thương mại biên giới giữa Việt Nam và Campuchia
Hoạt động thương mại biên giới Việt Nam - Campuchia
trong những năm qua đã có những bước phát triển tích cực.
Năm 2016, kim ngạch xuất nhập khẩu qua biên giới giữa
Việt Nam và Campuchia đạt gần 3,4 tỷ USD. Kim ngạch
thương mại hai chiều Việt Nam - Campuchia năm 2018 đã
có bước tiến lớn, đạt 4,76 tỷ USD và ước thực hiện năm
2019 là 5,23 tỷ USD. Việt Nam hiện là thị trường xuất khẩu
lớn của Campuchia (chiếm 4,15% tổng giá trị xuất khẩu
của Campuchia) và đồng thời là thị trường nhập khẩu lớn
thứ hai, chỉ sau Thái Lan. Kim ngạch trao đổi qua biên giới
chiếm tỷ trọng bình quân khoảng 90% trong tổng kim ngạch
thương mại song phương. Đặc biệt, khác với trao đổi buôn
bán qua biên giới với Trung Quốc, cán cân thương mại qua
biên giới của Việt Nam với Campuchia thường xuyên ở tình
trạng xuất siêu. Năm 2013, xuất siêu hàng hóa từ Việt Nam
sang Campuchia đạt mức kỷ lục 2,4 tỷ USD, sau đó suy
giảm xuống 1,5 tỷ USD năm 2016, rồi lại tăng lên và đạt
mức 2,8 tỷ USD trong năm 2018. Năm 2019 ghi nhận mức
xuất siêu kỷ lục với giá trị lên đến hơn 3,4 tỷ USD.
Các mặt hàng chính mà Việt Nam xuất khẩu qua biên
giới sang Campuchia là sắt thép, xăng dầu, hàng dệt may,
nguyên liệu dệt may, da giầy... Các mặt hàng nhập khẩu
chính bao gồm hạt điều, cao su, gỗ và sản phẩm từ gỗ...
Hàng hóa được tập trung trao đổi chủ yếu tại các cửa khẩu
thuộc tỉnh An Giang và Tây Ninh, chiếm đến 95% kim
ngạch xuất nhập khẩu của các tỉnh có chung biên giới với
Campuchia.
4Khoa học Xã hội và Nhân văn
62(4) 4.2020
Một số đánh giá và vấn đề đặt ra
Thương mại biên giới giữa Việt Nam với Trung Quốc,
Lào và Campuchia đã đạt được nhiều kết quả tích cực. Kim
ngạch xuất nhập khẩu qua biên giới nhìn chung có chiều
hướng gia tăng qua các năm. Hoạt động thương mại ở khu
vực biên giới diễn ra tương đối sôi động, trở thành động lực
phát triển cho các tỉnh biên giới và cải thiện đời sống cho
cư dân biên giới. Hợp tác kinh tế biên giới phát triển đi kèm
với công tác an ninh - quốc phòng được giữ vững, ổn định,
cơ bản đạt được các mục tiêu mà Đảng và Nhà nước đặt ra.
Tuy nhiên, hợp tác thương mại biên giới của Việt Nam với
các nước làng giềng có chung đường biên giới vẫn còn tồn
tại một số hạn chế.
Với Trung Quốc, quan hệ thương mại song phương hơn
mười năm qua luôn ở trạng thái mất cân bằng lớn, có lợi cho
Trung Quốc. Buôn bán tiểu ngạch còn chiếm tỷ trọng khá
cao nên doanh nghiệp và cư dân Việt Nam nhiều lúc phải
chịu thua thiệt. Công nghiệp phụ trợ chậm phát triển tại Việt
Nam cũng góp phần khiến Việt Nam ngày càng phụ thuộc
vào nguồn cung từ Trung Quốc, gây mất cân đối cơ cấu kinh
tế và thương mại. Bên cạnh đó, tình trạng buôn lậu và gian
lận thương mại ở tuyến biên giới phía Bắc ngày càng gia
tăng và diễn biến phức tạp, gây khó khăn cho việc quản lý
khu vực biên giới, làm hỗn loạn thị trường và ảnh hưởng tới
sự phát triển kinh tế của mỗi nước. Một số hình thức gian
lận thương mại trong quan hệ thương mại Việt - Trung xảy
ra khá phổ biến như: hàng xuất nhập khẩu từ Trung Quốc
vào Việt Nam thường dùng thủ đoạn lập hợp đồng ngoại
thương giả mạo hoặc thông đồng với doanh nghiệp nước
ngoài ghi giá trên hợp đồng mua bán hàng nhập khẩu thấp
để trốn thuế hoặc lợi dụng kẽ hở trong chính sách hoàn thuế
đối với hàng xuất khẩu. Việc thanh toán trong xuất nhập
khẩu Việt - Trung qua ngân hàng vẫn chiếm tỷ trọng rất nhỏ
trong tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của hai nước mặc dù
đã có Hiệp định thanh toán và hợp tác do Chính phủ hai
bên ký kết. Thị trường chợ đen buôn bán tiền công khai ở
các cửa khẩu biên giới vẫn hoành hành; hiện tượng lừa đảo,
chiếm dụng vốn, lưu hành tiền giả ở các tỉnh biên giới vẫn
diễn ra thường xuyên. Sự phát triển nhanh của thương mại
Việt - Trung đi cùng với sự tổ chức quản lý chưa chặt chẽ đã
gây ảnh hưởng không nhỏ đến việc bảo vệ môi trường sinh
thái ở Việt Nam. Điều này đến từ ảnh hưởng của việc nhập
khẩu các loại rau quả, thực phẩm tươi sống không qua kiểm
dịch chặt chẽ từ Trung Quốc. Các loại rau quả, thực phẩm
tươi sống không đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm đã đe
dọa tới sức khỏe của người tiêu dùng. Việc vận chuyển, bảo
quản và tiêu thụ không kịp thời, làm ứ đọng hàng hóa, thối
nát, gây ô nhiễm môi trường ở các khu vực chợ và cửa khẩu
biên giới. Việc nhập lậu các loại hóa chất sử dụng cho nông
nghiệp như phân hóa học, thuốc trừ sâu và hóa chất bảo vệ
thực vật qua biên giới cũng ảnh hưởng lớn tới môi trường
sinh thái.
Với Campuchia, các địa phương phía Campuchia nhìn
chung phát triển kém, giao thông đi lại khó khăn và có
khoảng cách phát triển khá chênh lệch với các địa phương
của Việt Nam. Nguồn lực cho phát triển kinh tế - xã hội
vùng biên và hợp tác kinh tế biên giới còn nhiều hạn chế
nên thực trạng hợp tác kinh tế biên giới giữa Việt Nam và
Campuchia thấp hơn nhiều so với tiềm năng. Các cặp cửa
khẩu quốc tế ở phía Campuchia có sự phát triển không đồng
đều, giao thương tập trung chủ yếu qua các cửa khẩu với
tỉnh Tây Ninh và An Giang của Việt Nam. Nhiều cặp cửa
khẩu quốc tế tuy được đầu tư cơ bản về cơ sở hạ tầng nhưng
chưa được đưa vào Hiệp định và Nghị định thư thực hiện
Hiệp định vận tải đường bộ giữa hai Chính phủ, tạo ra rào
cản cho việc xuất nhâp cảnh, xuất nhập khẩu hàng hóa qua
biên giới. Quy mô hoạt động thương mại tại các cửa khẩu
nhỏ bé, tốc độ tăng trưởng xuất nhập khẩu hàng hóa và dịch
vụ không ổn định. Cơ cấu hàng hóa xuất nhập khẩu qua biên
giới còn nghèo nàn, chủ yếu là nguyên liệu thô, chưa hình
thành các mặt hàng chủ lực. Nhiều mặt hàng tiêu dùng có
kim ngạch nhập khẩu lớn như máy móc, đồ điện gia dụng,
hàng mỹ phẩm Việt Nam không khuyến khích nhập khẩu
nhưng lại được buôn bán tràn lan qua đường tiểu ngạch. Hạ
tầng cơ sở cho hoạt động buôn bán tại các chợ cửa khẩu còn
lạc hậu, nghèo nàn, đặc biệt là giao thông không thuận lợi,
kho bãi thiếu đã hạn chế quá trình trao đổi hàng hóa. Cùng
với hoạt động thương mại qua các cửa khẩu, nạn buôn lậu
và gian lận thương mại diễn ra hết sức nghiêm trọng trên
toàn tuyến biên giới Tây Nam. Chính sách di dân ra biên
giới tuy bước đầu phát huy hiệu quả tích cực, nâng cao mật
độ dân cư vùng biên nhưng do không có đất sản xuất, không
nghề nghiệp ổn định nên đời sống của những người này gặp
nhiều khó khăn, dẫn tới hiện tượng cư dân biên giới sau một
thời gian sinh sống lại chuyển vào nội địa hoặc đi nơi khác
lao động, thậm chí tham gia buôn lậu qua biên giới.
Với Lào, tốc độ tăng trưởng kim ngạch thương mại biên
giới giữa hai bên chưa bền vững, có nhiều giai đoạn sụt
giảm, bấp bênh. Giá trị nhiều mặt hàng còn nhỏ, chưa có
nhiều mặt hàng mang tính chủ lực, đột phá. Hàng hóa của
Việt Nam xuất sang Lào chưa có tính cạnh tranh bằng hàng
hóa của Thái Lan và Trung Quốc. Việt Nam cũng chưa
phát huy được thế mạnh của Lào như một thị trường trung
chuyển để mở rộng xuất khẩu sang các thị trường khác. Nạn
buôn lậu và gian lận thương mại diễn ra khá phức tạp. Đời
sống vật chất và tinh thần của đa số đồng bào các dân tộc
các địa phương của Lào còn nhiều thiếu thốn và lạc hậu.
Giao thông đi lại giữa hai bên và trong khu vực biên giới
của hai nước rất khó khăn, ngoại trừ một vài khu vực cửa
khẩu đông dân cư.
Có thể thấy một số vấn đề đặt ra đối với việc phát huy
hiệu quả thương mại biên giới là: (i) điều kiện phát triển
5Khoa học Xã hội và Nhân văn
62(4) 4.2020
kinh tế ở khu vực biên giới không thuận lợi (địa hình hiểm
trở, giao thông đi lại khó khăn, thời tiết khắc nghiệt, cư dân
biên giới chủ yếu là đồng bào dân tộc thiểu số dân trí thấp,
đời sống khó khăn; địa bàn rộng, đường biên giới dài, có
nhiều lối mở qua lại nên khó kiểm soát...); (ii) cơ sở hạ tầng
cứng và mềm cho phát triển kinh tế tại khu vực biên giới
gặp nhiều khó khăn, đặc biệt là các tỉnh biên giới giáp Việt
Nam của Lào và Campuchia; (iii) doanh nghiệp hoạt động
tại khu vực biên giới hầu hết là doanh nghiệp nhỏ, năng lực
tài chính, kỹ thuật và kinh nghiệm triển khai hoạt động kinh
doanh còn hạn chế; (iv) thiếu sự đồng bộ, hài hoà về chính
sách giữa Việt Nam và các nước láng giềng nhằm phát triển
và quản lý thương mại biên giới.
Kết luận
Nhờ vào các chính sách, sáng kiến hợp tác kinh tế biên giới,
tình hình thương mại, đầu tư, du lịch, di chuyển lao động giữa
Việt Nam với ba nước láng giềng có chung đường biên giới
nhìn chung có sự gia tăng nhanh chóng, đặc biệt là quan hệ
thương mại Việt - Trung. Tuy nhiên, với những hạn chế và khó
khăn như đã phân tích ở trên, Chính phủ và các địa phương
cần có các giải pháp đồng bộ và cụ thể để đồng thời vừa quản
lý, vừa phát triển thương mại biên giới. Trước hết, cần có sự
phối hợp chính sách với các nước có chung đường biên giới
thông qua tăng cường cơ chế trao đổi chính sách kinh tế vĩ
mô, chính sách giữa các tỉnh biên giới, đặc biệt là chính sách
về thương mại, du lịch, thuế, hải quan, quy hoạch phát triển
kinh tế - xã hội; hỗ trợ các địa phương trong việc hài hòa
hóa chính sách, tạo một hành lang pháp lý minh bạch hỗ trợ
doanh nghiệp phát triển. Cần quan tâm hỗ trợ nguồn lực đầu
tư phát triển hạ tầng kinh tế cửa khẩu cho các tỉnh biên giới.
Bên cạnh đó, cần đánh giá, rà soát về các nội dung của Hiệp
định thương mại biên giới giữa Việt Nam với các nước láng
giềng, có các biện pháp tổ chức lại việc buôn bán biên giới
tiểu ngạch, khuyến khích xuất khẩu theo hình thức chính
ngạch và thanh toán theo thông lệ quốc tế. Chính quyền địa
phương và các hiệp hội doanh nghiệp cũng cần xây dựng hệ
thống hỗ trợ cho doanh nghiệp, đặc biệt xây dựng các kênh
thông tin thường xuyên và cập nhật về chính sách thương
mại biên giới của các nước láng giềng.
LỜI CẢM ƠN
Bài viết nằm trong khuôn khổ đề tài KX.01.09/16-20:
“Luận cứ khoa học cho sự hình thành và phát triển các khu
kinh tế xuyên biên giới ở Việt Nam”. Nhóm tác giả xin chân
thành cảm ơn Bộ Khoa học và Công nghệ và Chương trình
KX.01/16-20.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Nguyễn Anh Thu và Nguyễn Thị Thanh Mai (2017), “Mô hình
khu hợp tác kinh tế biên giới và một số gợi mở”, Tạp chí Những vấn
đề kinh tế chính trị thế giới, 6(2017), tr.38-51.
[2] Nguyễn Anh Thu và Vũ Thanh Hương (2018), “Sự phát triển
của các Khu kinh tế cửa khẩu tại Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu
Đông Nam Á, 7(220), tr. 30-38.
[3]v
bien-gioi-viet-trung-xay-dung-dinh-huong-dai-han-308390.html.
[4]
mai-bien-gioi-viet-trung-trien-khai-hang-loat-giai-phap-314701.
html.
[5] Nguyễn Trường Giang (2017), Hợp tác kinh tế biên giới Lào
Cai (Việt Nam) - Vân Nam (Trung Quốc): Thực trạng và những vấn đề
đặt ra, Kỷ yếu hội thảo quốc tế Mô hình khu kinh tế xuyên biên giới:
Thực trạng và triển vọng, Cao Bằng, 10/10/2017.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- thuong_mai_bien_gioi_cua_viet_nam_thuc_trang_va_mot_so_van_d.pdf