KẾT LUẬN
Bàn tay hữu hình thực sự là một lịch sử của cuộc Cách mạng Quản lý trong Kinh doanh
ở Hoa Kỳ giữa thế kỷ 18. Nhưng không có nghĩa là các doanh nghiệp quản lý hiện đại thay
thế cơ chế thị trường trong điều phối các hoạt động và và phân bổ các nguồn lực của nền kinh
tế. Thay vào đó, doanh nghiệp hiện đại là đối tượng của bàn tay vô hình của thị trường. Và
doanh nghiệp hiện đại là một phần không thể tách rời của bàn tay vô hình của thị trường. Sự
xuất hiện của doanh nghiệp quản lý hiện đại được Chandler coi là quan điểm đổi mới lớn
trong nền kinh tế Mỹ giữa thế kỷ 18 và đầu thế kỷ 19. Nhưng sự xuất hiện của loại hình doanh
nghiệp hiện đại này, thực tế, là sản phẩm của bàn tay vô hình của thị trường và sự phát triển
của các doanh nghiệp hiện đại là một phần quá trình phát triển lịch sử của bàn tay vô hình của
thị trường, mở ra thời kỳ mới nghiên cứu về hoạt động tổ chức và quản lý nội bộ của các
doanh nghiệp.
12 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 15/01/2022 | Lượt xem: 257 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Thuyết bàn tay hữu hình, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
HocThuyetDoanhNghiep.edu.vn
THUYẾT BÀN TAY HỮU HÌNH
Alfred DuPont Chandler (1918 - 2007) là giáo sư lịch sử kinh doanh tại trường đại học
Harvard và Đại học Johns Hopkins. Những năm đầu thế kỉ 20, ông bắt đầu nghiên cứu về quy
mô doanh nghiệp và cơ cấu quản lý của các tập đoàn kinh tế. Thuật ngữ “Bàn tay hữu hình”
(The Visible Hand) xuất hiện trong tác phẩm Bàn Tay Hữu Hình - Cuộc Cách Mạng Quản Lý
Trong Các Doanh Nghiệp Hoa Kỳ (The Visible Hand: The Managerial Revolution in American
Business), do Chandler biên soạn và công bố năm 1977. Các luận điểm trong tác phẩm hoàn
toàn trái ngược với những lý luận trước đó, cụ thể là thuyết “Bàn tay vô hình” của Adam
Smith
91
.
Mô hình cạnh tranh hoàn hảo, theo ông, không cho phép hiểu rõ cấu trúc và vận hành
của các doanh nghiệp hiện đại; vì đó là mô hình cấu trúc thị trường trong đó: (1) cả người bán
và kẻ mua đều không đủ khả năng để tác động đáng kể tới thị trường; (2) hai bên đều nắm rõ
các cơ hội giao dịch, hiểu được phương pháp xác định nguồn cung và cầu của sản phẩm...; (3)
và sản phẩm khác biệt không tồn tại. Nói cách khác, không tồn tại sự cạnh tranh; doanh
nghiệp không đổi mới, không cập nhật công nghệ, phương pháp vận hành và sản xuất hiệu
quả nhất; và họ cũng không nhất thiết phải giảm giá.
Theo Chandler (1977), doanh nghiệp hiện đại được tổ chức theo cấp bậc các nhà quản
lý cấp trung và cao cấp, chịu trách nhiệm giám sát và điều phối hoạt động của các bộ phận
dưới quyền kiểm soát của họ. Trong mô hình doanh nghiệp đa bộ phận, mỗi bộ phận đều có tổ
chức hành chính của mình, đều được lãnh đạo bởi một nhà quản lý được trả lương và có thẩm
quyền độc lập, thậm chí có thể coi mỗi bộ phận “vận hành như một doanh nghiệp độc lập”
(Chandler, 1977). Các nhà quản lý cao cấp có nhiệm vụ đánh giá và điều phối hoạt động của
các nhà quản lý cấp trung; lập kế hoạch phân bổ nguồn lực trong doanh nghiệp; qua đó đảm
bảo sự vận hành và quản lý hoạt động hiện tại của doanh nghiệp. Các nhà quản lý cấp trung
chịu trách nhiệm xây dựng và triển khai các phương thức sản xuất kinh doanh đảm bảo hiệu
quả hoạt động của bộ phận mà họ phụ trách cũng như đảm bảo sữ kết nối với các bộ phận
khác. Chính những nhà quản lý cấp trung này là người tối ưu và sáng tạo phương thức hoạt
động sản xuất kinh doanh hiện đại, qua đó góp phần hạ giá thành, xây dựng lợi thế cạnh trạnh
cho doanh nghiệp.
91 “Modern business enterprise took the place of market mechanisms in coordinating the activities of the
economy and allocating its resources. In many sectors of the economy the visible hand of management replaced
what Adam Smith referred to as the invisible hand of market forces”.
193
Học thuyết doanh nghiệp
194
Chandler nhấn mạnh rằng các doanh nghiệp quản lý xuất hiện là quy luật tất yếu nhằm
phát triển và khai tác lợi thế từ công nghệ sản xuất mới sau thời kỳ thiết lập hệ thống đường
sắt toàn nước Mỹ. Đó là những doanh nghiệp có năng suất lao động cao hơn, với chi phí thấp
hơn và do đó thu được lợi nhuận nhiều hơn. Mô hình doanh nghiệp này cũng kéo theo sự xuất
hiện của “giai cấp quản lý” (managerial class), những người chịu trách nhiệm phân bổ nguồn
lực và điều phối quản lý các hệ thống phức tạp và phụ thuộc lẫn nhau của chính mô hình
doanh nghiệp đa bộ phận này.
Có thể nói, tác phẩm này của Chandler đã phân chia lịch sử chủ nghĩa tư bản thành hai
giai đoạn: giai đoạn kinh tế thị trường cạnh tranh hoàn hảo, các doanh nghiệp tham gia cạnh
tranh tự do và giai đoạn từ 1850 với sự xuất hiện của các doanh nghiệp quản lý. Sau năm
1850, sản lượng bị chi phối bởi các nhà quản lý của các doanh nghiệp thay vì cơ chế thị
trường. “Bàn tay hữu hình” ra đời khi đó đi kèm với cuộc cách mạng công nghiệp. Toàn bộ
nền kinh tế đều dưới sự điều phối của những bàn tay hữu hình của các nhà quản lý; khái niệm
chiến lược kinh doanh cũng xuất hiện tiềm ẩn trong hoạt động quản lý và điều hành của các
nhà quản lý doanh nghiệp.
Chandler (1977) chỉ ra 8 điểm đề giải thích tại sao bàn tay hữu hĩnh thay thế bàn tay vô
hình của Adam Smith:
1. Mô hình doanh nghiệp đa bộ phận Hoa Kỳ đã thay thế mô hình doanh nghiệp truyền
thống, với nhiều lợi thế hơn về lợi nhuận nhờ hoạt động điều phối hành chính hơn là đơn
thuần theo cơ chế thị trường;
2. Cấu trúc tổ chức quản lý đã được xây dựng trong các doanh nghiệp đa bộ phận;
3. Các doanh nghiệp đa bộ phận xuất hiện lần đầu trong lịch sử nhân loại cùng thời gian
với quy mô của các hoạt động kinh doanh đạt đến ngưỡng mà sự điều phối hành chính thể
hiện tính hiệu quả hơn sự điều phối theo cơ chế thị trường;
4. Khi mà cấu trúc quản lý đã được thiết lập và hoàn thành nhiệm vụ điều phối hành
hành chính, chính cấu trúc này trở thành một nguồn lực, một lợi thế bền vững và liên tục
phát triển;
5. Nghề quản lý được trả lương ngày càng trở nên chuyên nghiệp và kỹ thuật hơn;
6. Các doanh nghiệp đa bộ phận phát triển mạnh về quy mô và đa dạng hóa mạnh mẽ,
kéo theo các nhà quản lý trong đó cũng trở nên chuyên nghiệp hơn, hoạt động quản lý cũng
trở nên tách rời quyền sở hữu hơn;
7. Các nhà quản lý theo đuổi các chính sách hướng đến sự ổn định và phát triển dài hạn
trên cơ sở tối đa hóa lợi nhuận hiện tại của doanh nghiệp;
Chương 10. Thuyết bàn tay hữu hình
195
8. Các doanh nghiệp lớn tiếp tục lớn mạnh và kiểm soát các lĩnh vực quan trọng của
nền kinh tế báo hiệu sự cần thiết phải có cấu trúc tổ chức tổng thể của từng lĩnh vực này cũng
như của cả nền kinh tế.
Ví dụ điển hình gần đây là bê bối bị phanh phui thao túng lãi suất ngân hàng Libor, lãi
suất của các ngân hàng Anh trên thị trường liên ngân hàng ở London nhưng hiện trở thành
chuẩn lãi suất cho hầu hết các thị trường liên ngân hàng trên thế giới. Dưới sự chỉ đạo của
“Cỗ máy in tiền” Bob Diamond Tổng Giám Đốc điều hành tập đoàn Barclays, Anh, từ năm
2007 đến 2009, khi khủng hoảng ngân hàng đạt đỉnh, Diamond cùng nhân viên đã quyết
định giả mạo dữ liệu và thay đổi tỉ suất Libor để bảo vệ Barclays trước cơn bão khủng
hoảng, khiến dư luận tưởng ngân hàng này hoàn toàn khỏe mạnh sau cơn bão khủng hoảng.
Bê bối thao túng lãi suất tiếp túc được điều tra mở rộng sang 5 ngân hàng quốc tế lớn khác
gồm 2 ngân hàng của Anh là HSBC và RBS, 2 ngân hàng Citibank và JP Morgan Chase của
Mỹ và ngân hàng USB của Thụy Sĩ. Ngày 12/11/2014, các cơ quan quản lý tài chính Mỹ và
Anh thông báo phạt 5 ngân hàng này tổng số 2,5 tỷ euro vì đã cố tình nắn tỷ giá tham khảo
trên thị trường hối đoái trong khoảng từ năm 2008 đến cuối năm 2013. Cụ thể, các ngân
hàng và doanh nghiệp đã trao đổi thông tin mật về hoạt động của khách hàng, từ đó âm
thầm lũng đoạn tỷ giá hối đoái của 10 loại tiền tệ chủ đạo, nhằm thu lợi về mình và đẩy
phần thiệt cho khách.
Trích dẫn 6: Bob Diamond - Từ người hùng tới tội đồ của giới tài chính ngân hàng
“Cỗ máy in tiền” và những thuyết giảng về cơ hội làm giàu
Bob Diamond sinh ngày 27/7/1951 tại Concord, Massachusetts trong một gia đình có 9
anh chị em và cha mẹ đều là giáo viên. Năm 1996, Diamond về đầu quân cho Ngân hàng
Barclays và nhanh chóng trở thành Trưởng phòng đầu tư nắm trong tay Quỹ Barclays Capital
với số vốn và lãi khổng lồ, và nhanh tróng trở thành Tổng Giám Đốc điều hành tập đoàn
Barclays năm 2011.
Bob Diamond là ví dụ điển hình cho hàng loạt các ông chủ ngân hàng lớn có khả năng
kiếm tiền và vượt xa mức độ giàu có của các danh thủ bóng đá nổi tiếng với những bản hợp
đồng triệu bảng. Ông nổi tiếng về khả năng kiếm chác từ các thương vụ làm ăn của Barclays.
Cho dù tài chính thế giới đang trải qua những thời kỳ khó khăn, nhưng Diamond vẫn ung
dung thu tiền về túi. Trung bình mỗi lần “nhúng tay” vào việc giao dịch của ngân hàng, ông
được trích hoa hồng 20 triệu bảng, chưa kể các khoản phí phát sinh bên ngoài. Nếu tính tổng
cộng lương, thưởng, cổ phần và hoa hồng trong các vụ làm ăn, Diamond mỗi năm thu về 80
triệu bảng. Tuy nhiên con số này không bao giờ chính xác khi các thông tin cá nhân của ông
đều được “trưng ra” một cách mù mờ.
Học thuyết doanh nghiệp
196
Bob Diamond làm ăn giống như đánh cược bằng vận may đỏ đen của những lá bài. Có
người gọi ông là hình mẫu lý tưởng của chủ ngân hàng thời hiện đại. Số khác lại ví Diamond
như một cơn ác mộng, một cỗ máy sản xuất tiền đáng ghê sợ. Ông kiếm tiền chẳng khác nào
nhện giăng tơ ở mọi ngóc ngách; dường như ở đâu có tiềm năng đầu tư là ở đó có bóng dáng
Bob Diamond. Hai thái cực đối chiều nhau về thành công của Diamond cho thấy sự căng
thẳng và định kiến bấy lâu tồn tại trong dư luận về ngành ngân hàng và rủi ro nó mang lại.
Bob Diamond từng thuyết giảng trên kênh BBC rằng: “Muốn tạo dựng niềm tin nơi khách
hàng, các ngân hàng phải sắm vai những công dân mẫu mực và hiểu nhu cầu của chính họ”.
Chỉ vài tháng sau, Diamond bị buộc tội trốn thuế và cướp tiền thuế của người dân tới trên 500
triệu bảng. Đầu năm 2011, Barclays bị tố dụ dỗ khoảng 12.000 khách hàng lớn tuổi tham gia
cá cược chứng khoán bằng tiền lương hưu và bảo trợ xã hội. Barclays đã bán trắng cho khách
hàng những hợp đồng bảo hiểm hoàn toàn vô tác dụng, hoặc đầu tư vào những khách hàng
không tiềm năng. Bob Diamond đã lừa dối khách hàng trong suốt nhiều năm.
• Thao túng lãi suất để kiếm lời
Libor và Euribor là các lãi suất tham chiếu quan trọng cho biết lãi suất khi các ngân
hàng cho vay lẫn nhau và là chỉ số cơ bản của hoạt động tài chính. Sự minh bạch trong những
chỉ số có tính chất tiêu chuẩn như Libor và Euribor có tầm quan trọng nền tảng với cả thị
trường tài chính Anh và quốc tế. Thao túng lãi suất Libor hay Euribor không chỉ vẽ nên một
bức tranh tài chính hoàn toàn “lệch tông màu” mà còn trực tiếp đe dọa tới cuộc sống của từng
người dân. Những ảnh hưởng được cảm nhận rõ ràng trong hệ lụy mà người vay phải hứng
chịu từ các khoản vay thế chấp lãi suất quá cao hoặc mất kiểm soát.
Từ năm 2007 đến 2009, khi khủng hoảng ngân hàng đạt đỉnh, Diamond và các nhân
viên của ông đã khuyến khích nhau thao túng lãi suất các nhân viên đưa ra các thông số giả
mạo để tránh nghi ngờ từ dư luận. Ông cùng nhân viên đã quyết định giả mạo dữ liệu và thay
đổi tỉ suất Libor để bảo vệ Barclays trước cơn bão khủng hoảng, khiến dư luận tưởng ngân
hàng này hoàn toàn khỏe mạnh sau cơn bão khủng hoảng.
• Những cột mốc chính trong vụ thao túng lãi suất Libor:
Năm 2005: Những bằng chứng đầu tiên về vụ thao túng lãi suất Libor và Euibor (lãi
suất Libor cho đồng euro) được phát hiện thông qua ghi âm điện thoại của các giao dịch viên
Barclays tại New York, London và Tokyo. Trong các cuộc điện đàm này, nhân viên của
Barclays đã yêu cầu giao dịch viên của các ngân hàng khác đồng ý thay đổi lãi suất của các
hợp đồng phái sinh. Trong giai đoạn 2005 2009, đã có 257 cuộc điện thoại ghi lại những nội
dung như vậy.
Năm 2007: Với sự sụp đổ của ngân hàng Northern Rock, lo ngại về thanh khoản của
các ngân hàng được dấy lên. Việc thao túng lãi suất bắt đầu được Barclays thực hiện một
cách có hệ thống, khiến khách hàng nhầm tưởng về sức khỏe của ngân hàng này. Nhiều nghi
Chương 10. Thuyết bàn tay hữu hình
197
vấn đã được giới truyền thông đưa ra. Ngày 28/11, một báo cáo nội bộ của Barclays cũng
thừa nhận lãi suất Libor không phản ánh chính xác giá của đồng tiền.
Năm 2008: Nghi vấn lãi suất tiếp tục được giới truyền thông nêu lên với mật độ ngày
một dày đặc. Hiệp hội Ngân hàng Anh (BBA) cũng đã phải vào cuộc với nhiều câu hỏi và
thông cáo liên quan đến việc thao túng lãi suất. BBA cho rằng nếu những phản ánh của khách
hàng là thật thì đây là vụ việc không thể chấp nhận. Sau sự sụp đổ của Lehman Brothers,
BBA thậm chí đã phải có cuộc họp riêng với Barclays về vấn đề này.
Năm 2009: Ngày 2/11, BBA ra thông báo hướng dẫn cho các thành viên về quy tắc áp
dụng với Libor cũng như các chuẩn an toàn. Tuy nhiên, Barclays vẫn tỏ ra thờ ơ, không thiết
lập các hệ thống độc lập giữa bộ phân giao dịch phái sinh và các nhân viên thống kê, gửi báo
cáo cho cơ quan quản lý.
Năm 2010: Trong email nội bộ gửi nhân viên, Barclays mới chính thức yêu cầu tuân
thủ các quy định về an toàn, nghiêm cấm việc thao túng lãi suất cũng như thận trọng trong
các cuộc điện đàm với giao dịch viên của ngân hàng bạn.
Năm 2011: Cuối năm 2011, một ngân hàng nổi tiếng khác ở Anh là Royal Banks of
Scotland sa thải 4 nhân viên do liên quan tới vụ thao túng lãi suất.
Năm 2012: Cuối tháng 6, Barclays thừa nhận vụ gian lận nêu trên và chịu phạt 450
triệu USD. Chủ tịch Marcus Agius và CEO Bob Diamond lần lượt từ chức. Vụ việc tiếp tục
được mở rộng điều tra.
Diamond cố gắng tự bào chữa trong khi chĩa mũi tên tội lỗi về phía các ngân hàng
khác: “Hành động sai lầm của Barclays là kết quả của việc lãi suất Libor quá cao, do các ngân
hàng khác gây ra. Cùng lúc ấy, việc huy động lãi suất và cho vay tại các ngân hàng này lại tỏ
ra vô dụng, khiến mọi gánh nặng đè lên Barclays”. Khi bị gọi tới phiên chất vấn Ủy ban Tài
chính, Bob Diamond chỉ nói ngắn gọn: “Tôi hiểu mọi chuyện và sẵn sàng ra tòa để trả lời mọi
câu hỏi”.
1. DOANH NGHIỆP HIỆN ĐẠI
Theo Chandler (1977), doanh nghiệp được điều hành bởi quản lý cấp trung và cấp cao
có thể được gọi là doanh nghiệp hiện đại. Trong Thế chiến thứ I, doanh nghiệp hiện đại đã trở
thành tổ chức kinh doanh chiếm ưu thế trong nhiều lĩnh vực của nền kinh tế Mỹ. Vào giữa thế
kỷ 20, các doanh nghiệp này đã thuê hàng trăm và thậm chí hàng ngàn nhà quản lý cấp trung
và cao cấp để điều công việc của hàng chục, hàng trăm đơn vị với hàng chục và hàng trăm
nghìn công nhân. Những doanh nghiệp này được sở hữu bởi hàng chục hoặc hàng trăm ngàn
cổ đông và hàng năm chi hàng tỷ đô la cho hoạt động kinh doanh. Ngay cả một doanh nghiệp
kinh doanh tương đối nhỏ hoạt động ở thị trường nhỏ ở địa phương hoặc vùng miền cũng có
các nhà quản lý cấp cao và trung cấp.
Học thuyết doanh nghiệp
198
Các lý thuyết kinh tế cơ bản trong thời kỳ này đều dựa trên giả định rằng sản xuất và
phân phối vẫn được quản lý hoặc ít nhất là nên được quản lý bởi bàn tay vô hình của thị
trường. Như vậy theo lý thuyết cạnh tranh hoàn hảo chỉ có thể tồn tại giữa các doanh nghiệp
đơn lẻ, và sự cạnh tranh như vậy vẫn có cách hiệu quả nhất để điều phối các hoạt động kinh tế
và phân bổ các nguồn lực trong nền kinh tế. Ngược lại các doanh nghiệp hiện đại, bị cho rằng,
dẫn đến cạnh tranh không hoàn hảo và phân bổ sai các nguồn lực.
Chandler (1977) khẳng định loại hình doanh nghiệp hiện đại (the modern business
enterprise) với hai đặc trưng của nó. Thứ nhất, ở đó bao gồm nhiều đơn vị điều hành riêng
biệt; và thứ hai, được quản lý bởi ban giám đốc điều hành. Mỗi đơn vị trong các doanh nghiệp
hiện đại có văn phòng hành chính riêng và được quản lý toàn thời gian bởi một nhà quản lý.
Mỗi đơn vị đều có sổ sách kế toán và có thể được kiểm toán một cách riêng biệt từ các đơn vị
cấp trên. Theo lý thuyết mỗi đơn vị này đều có thể hoạt động như là một doanh nghiệp kinh
doanh độc lập. Ngược lại, đối với các doanh nghiệp truyền thống ở Mỹ thường là một doanh
nghiệp kinh doanh đơn lẻ. Chẳng hạn như một cá nhân hoặc một số ít các chủ sở hữu vận
hành một cửa hàng, nhà xưởng, ngân hàng... Thông thường, loại hình doanh nghiệp này chỉ
thực hiện một chức năng kinh tế duy nhất, phân phối một dòng sản phẩm duy nhất và hoạt
động ở một khu vực địa lý nhất định. Trước sự nổi lên của doanh nghiệp hiện đại, các hoạt
động của doanh nghiệp nhỏ thuộc sở hữu cá nhân này được điều phối và tuân theo cơ chế giá
cả thị trường.
Doanh nghiệp hiện đại có nhiều đơn vị trực thuộc, hoạt động tại các địa điểm khác
nhau, thường xuyên thực hiện các loại hình hoạt động kinh tế khác nhau và kinh doanh các
loại hàng hoá và dịch vụ khác nhau. Các hoạt động và các giao dịch giữa các đơn vị này được
thực hiện trong nội bộ. Được giám sát và phối hợp bởi các nhân viên làm công ăn lương hơn
là các cơ chế thị trường. Do đó, doanh nghiệp hiện đại thuê các nhân viên quản lý cấp trung
và cấp cao để theo dõi và điều phối hoạt động của các đơn vị do họ điều hành. Những nhà
quản lý cấp trung và cấp cao này tạo thành tầng lớp doanh nhân mới. Một số ít các doanh
nghiệp truyền thống cũng thuê các nhà quản lý có hoạt động tương tự như những người có
trình độ thấp nhất trong một doanh nghiệp hiện đại. Chủ sở hữu các đồn điền, xưởng xẻ, cửa
hàng cũng thuê nhân viên làm công ăn lương để hỗ trợ họ trong việc quản lý. Khi công việc
trong các đơn vị hoạt động đơn lẻ gia tăng, các nhà quản lý này thuê các quản đốc (đốc công)
cấp dưới, những người giám sát để quản lý lao động thực hiện công việc. Nhưng vào cuối
những năm 1840 không có nhà quản lý trung gian này ở Mỹ nghĩa là không có nhà quản lý
giám sát công việc của các nhà quản lý khác và lần lượt báo cáo với các giám đốc điều hành
cấp cao. Vào thời điểm đó gần như tất cả các nhà quản lý hàng đầu là những chủ sở hữu; họ là
cổ đông lớn trong doanh nghiệp mà họ quản lý.
Chương 10. Thuyết bàn tay hữu hình
199
2. CÁC ĐỀ XUẤT TỔNG QUÁT CỦA CHANDLER (1977)
Chandler (1977) đưa ra 8 đề xuất để chỉ ra rằng bàn tay hữu hình trong quản lý thay thế
bàn tay vô hình của Adam Smith:
Đề xuất thứ nhất: Các doanh nghiệp nhỏ truyền thống được thay thế bởi các doanh
nghiệp hiện đại khi sự điều hành chi phối của bàn tay hữu hình cho phép tăng năng suất, chi
phí thấp hơn và lợi nhuận cao hơn so với sự chi phối của cơ chế thị trường. Đề xuất này
Chandler đưa ra trực tiếp từ định nghĩa doanh nghiệp hiện đại một loại hình doanh nghiệp đã
ra đời và tiếp tục phát triển bằng cách thành lập các đơn vị (chi nhánh, công ty con) hay nói
cách khác các đơn vị kinh doanh mà theo lý thuyết có thể hoạt động như các doanh nghiệp
độc lập, bằng cách nội bộ hóa các hoạt động và các giao dịch được tiến hành giữa chúng. Việc
nội bộ hoá như vậy mang lại cho doanh nghiệp nhiều lợi thế vì các các đơn vị này giao dịch
thường xuyên và chi phí của các giao dịch này được hạ xuống. Bằng cách liên kết việc quản
lý các đơn vị sản xuất với các đơn vị mua và phân phối, chi phí cho thông tin về thị trường và
nguồn cung được giảm xuống. Điều này còn có ý nghĩa quan trọng hơn nhiều, đó là sự liên
kết giữa nhiều đơn vị đã cho phép luồng hàng từ một đơn vị này đến đơn vị khác được quản
lý điều phối. Việc lập kế hoạch hiệu quả hơn do sử dụng các nhân viên quản lý trong quá trình
sản xuất và phân phối từ đó tăng năng suất và giảm chi phí. Ngoài ra, việc quản lý giám sát đã
tạo ra một dòng chảy tiền mặt nhất định và thanh toán nhanh chóng cho các dịch vụ được thực
hiện do đó tiết kiệm các khoản chi phí trong giao dịch.
Đề xuất thứ hai: Các lợi ích từ tập hợp hoạt động của nhiều đơn vị kinh doanh trong
một doanh nghiệp có thể không được thực hiện cho đến khi một hệ thống phân cấp quản lý
được tạo ra. Chandler cho rằng những lợi ích này chỉ có thể đạt được khi một nhóm các nhà
quản lý được tập hợp để thực hiện các chức năng mà trước đó được quản lý bởi cơ chế giá cả
thị trường. Trong khi các hoạt động của các doanh nghiệp truyền thống đơn lẻ được theo dõi
và điều phối bởi các cơ chế thị trường, thì các đơn vị sản xuất và phân phối trong một doanh
nghiệp hiện đại được giám sát bởi các nhà quản lý cấp trung. Các nhà quản lý cấp cao, cùng
với việc đánh giá và điều phối công việc của các nhà quản lý cấp trung, đã thay thế cho thị
trường trong việc phân bổ nguồn lực cho sản xuất và phân phối trong tương lai. Để thực hiện
các chức năng này, các nhà quản lý đã phải phát minh ra những phương thức và thủ tục mới
và trở thành những phương pháp điều hành chuẩn mực trong quản lý sản xuất và phân phối ở
Mỹ. Như vậy sự tồn tại của một hệ thống phân cấp quản lý là một đặc điểm của doanh nghiệp
kinh doanh hiện đại. Chủ sở hữu và người quản lý của doanh nghiệp hiện đại chủ động trong
các chính sách mua, định giá, sản xuất và tiếp thị thị trường. Nếu không có người quản lý, các
chính sách này được xác định và thực thi bởi các cơ quan lập pháp và tư pháp chứ không phải
là các thủ tục hành chính do họ tạo ra.
Học thuyết doanh nghiệp
200
Đề xuất thứ ba: Doanh nghiệp hiện đại xuất hiện lần đầu tiên trong lịch sử khi khối
lượng của các hoạt động kinh tế đạt đến mức làm cho việc điều hành, điều phối hiệu quả và có
lợi hơn so với thị trường điều phối. Sự gia tăng khối lượng hoạt động này đến từ công nghệ
mới và việc mở rộng thị trường. Công nghệ mới đã tạo ra một sản lượng hàng hóa chưa từng
có. Việc mở rộng thị trường là rất cần thiết để tiêu thụ hết sản lượng đó. Vì vậy, các doanh
nghiệp hiện đại lần đầu tiên xuất hiện, tăng trưởng, và tiếp tục phát triển trong các lĩnh vực và
ngành công nghiệp đặc trưng bởi công nghệ mới, tiến bộ và mở rộng thị trường. Ngược lại
trong các lĩnh vực và ngành công nghiệp mà công nghệ không mang lại sự gia tăng mạnh về
sản lượng, thị trường nhỏ, chuyên biệt, sự phối hợp điều hành hiếm khi có lợi hơn so với thị
trường điều phối thì doanh nghiệp hiện đại xuất hiện muộn và chậm phát triển.
Đề xuất thứ tư: Khi một hệ thống phân cấp quản lý được hình thành và thực hiện thành
công chức năng phối hợp điều hành, hệ thống quản lý đó trở nên xuyên suốt, quyền lực và
tăng trưởng liên tục. Chandler cho rằng các doanh nghiệp truyền thống gia đình thường có
thời gian sống ngắn, các quan hệ đối tác có thể bị giải thể khi ông chủ của nó chết đi cho đến
đời chủ sau lại tìm các mối quan hệ mới. Ngược lại doanh nghiệp hiện đại có các hệ thống
phân cấp quản lý lại có tính lâu bền hơn. Khi người quản lý qua đời, nghỉ hưu, được thăng
chức, hoặc rời bỏ chức vụ, người khác đã sẵn sàng và được huấn luyện để thay thế vị trí của
người đó.
Đề xuất thứ năm: Công việc của các nhà quản lý là chỉ đạo trưc tiếp các hệ thống quản
lý họ ngày càng giỏi và chuyên nghiệp. Chandler cho rằng trong hệ thống quản lý kinh doanh
của doanh nghiệp hiện đại cấp bậc quản lý yêu cầu những kỹ năng đặc biệt, việc lựa chọn,
thăng tiến dựa trên đào tạo, kinh nghiệm và hiệu quả công việc hơn là mối quan hệ gia đình
hoặc tiền bạc. Các nhà quản lý doanh nghiệp hiện đại có thể hình dung được một sự nghiệp
suốt đời của mình và được đào tạo quản lý đúng với chuyên môn của mình. Họ có cách tiếp
cận công việc của họ như việc gần gũi hơn với các luật sư, bác sĩ và bộ trưởng hơn là các chủ
doanh nghiệp và nhà quản lý các doanh nghiệp nhỏ truyền thống.
Đề xuất thứ sáu: khi doanh nghiệp tăng trưởng về quy mô và tính đa dạng thì các nhà
quản lý trở nên chuyên nghiệp hơn, việc quản lý doanh nghiệp tách ra khỏi quyền sở hữu của
nó. Sự gia tăng của các doanh nghiệp hiện đại mang lại một định nghĩa mới về mối quan hệ
giữa quyền sở hữu và quản lý và do đó là một kiểu chủ nghĩa tư bản mới đối với nền kinh tế
Mỹ. Trước sự xuất hiện của công ty đại chúng vốn cổ phần của họ vẫn nằm trong tay của một
vài cá nhân hoặc gia đình. Các tập đoàn này vẫn là các doanh nghiệp đơn lẻ mà ít khi thuê
hơn hai hoặc ba nhà quản lý. Do đó, một doanh nghiệp tư bản truyền thống có thể được gọi là
một doanh nghiệp tư nhân. Tuy nhiên doanh nghiệp hiện đại đòi hỏi nhiều người quản lý hơn
là công ty gia đình. Ở một số doanh nghiệp, doanh nhân và cộng sự xây dựng doanh nghiệp
và nắm giữ phần lớn cổ phiếu. Họ duy trì mối quan hệ cá nhân chặt chẽ với các nhà quản lý,
Chương 10. Thuyết bàn tay hữu hình
201
và đương nhiên tiếng nói chính trong các quyết định quản lý hàng đầu, đặc biệt là các chính
sách tài chính, phân bổ nguồn lực và lựa chọn các nhà quản lý cao cấp. Sự tăng trưởng của
một doanh nghiệp đòi hỏi một khoản tiền lớn từ bên ngoài, mối quan hệ giữa sở hữu và quản
lý khác nhau. Các tổ chức tài chính cung cấp các quỹ thường được làm đại diện một thời gian
trong hội đồng quản trị của doanh nghiệp. Trong các doanh nghiệp như vậy, các nhà quản lý
phải chia sẻ những quyết định quản lý hàng đầu, đặc biệt là những vấn đề liên quan đến việc
huy động và sử dụng các khoản vốn lớn, với các nhà tài trợ của các ngân hàng và các tổ chức
tài chính khác. Một nền kinh tế hoặc ngành được kiểm soát bởi các doanh nghiệp như vậy
thường được gọi là chủ nghĩa tư bản tài chính.
Trong nhiều doanh nghiệp hiện đại, không có ngân hàng hay gia đình nào được kiểm
soát. Sở hữu trở nên rải rác. Các cổ đông không có ảnh hưởng, kiến thức, kinh nghiệm. Các
nhà quản lý xác định chính sách dài hạn cũng như quản lý các hoạt động điều hành ngắn hạn.
Họ chiếm ưu thế hàng đầu cũng như quản lý cấp dưới và người lao động. Một doanh nghiệp
do các nhà quản lý kiểm soát có thể được xác định là quản lý, và một hệ thống do các doanh
nghiệp đó chi phối được gọi là chủ nghĩa tư bản quản lý.
Đề xuất thứ bảy: Trong quá trình ra quyết định quản lý, các nhà quản lý ưa thích các
chính sách ổn định và tăng trưởng dài hạn và đạt tối đa hóa lợi nhuận cho doanh nghiệp của
họ. Đối với các nhà quản lý lương, sự tồn tại liên tục của các doanh nghiệp là điều thiết yếu
cho sự nghiệp suốt đời của họ. Họ sẵn sàng bỏ cổ tức hiện tại để duy trì khả năng tồn tại lâu
dài của doanh nghiệp. Họ tìm cách bảo vệ nguồn cung cấp và nơi tiêu thụ. Họ tiếp nhận các
sản phẩm và dịch vụ mới để tận dụng tối đa các cơ sở và nhân viên hiện có. Sự mở rộng như
vậy dẫn đến việc bổ sung thêm nhiều lao động và thiết bị. Nếu lợi nhuận cao, họ muốn tái đầu
tư vào doanh nghiệp hơn là trả lãi cổ tức. Theo cách này mong muốn của các nhà quản lý để
giữ cho doanh nghiệp làm việc liên tục để phát triển xa hơn.
Đề xuất thứ tám: Khi các doanh nghiệp lớn tăng trưởng và chiếm ưu thế trong các lĩnh
vực chủ yếu của nền kinh tế, họ đã thay đổi cấu trúc cơ bản của các ngành này và toàn bộ nền
kinh tế. Các doanh nghiệp độc quyền thay thế thị trường trong việc tạo ra hàng hoá và dịch
vụ. Các quyết định về lượng hàng hóa và các kế hoạch dài hạn để phân bổ các nguồn lực dựa
trên ước tính về nhu cầu thị trường hiện tại và dài hạn. Những gì các doanh nghiệp này làm là
tiếp quản thị trường và tích hợp luồng hàng hoá và dịch vụ từ việc sản xuất nguyên vật liệu
thông qua các quá trình sản xuất để bán cho người tiêu dùng cuối cùng. Từ đó sản xuất và
phân phối được tập trung trong tay của một vài doanh nghiệp lớn. Ban đầu, điều này xảy ra
chỉ trong một vài lĩnh vực hoặc ngành công nghiệp, nơi sự đổi mới công nghệ và tăng trưởng
thị trường tạo ra tốc độ cao và khối lượng lớn. Khi công nghệ trở nên tinh vi và thị trường mở
rộng hơn, việc quản lý hành chính được thay thế sự chi phối của thị trường vào một phần
ngày càng lớn của nền kinh tế. Vào giữa thế kỷ XX, các nhà quản lý của một số các cơ sở bán
Học thuyết doanh nghiệp
202
lẻ quy mô lớn và các doanh nghiệp vận tải số lượng lớn đã phối kết hợp các luồng hàng hoá
hiện tại thông qua các quá trình sản xuất phân phối và phân bổ các nguồn lực để sử dụng cho
sản xuất và phân phối trong các lĩnh vực chính của nền kinh tế Mỹ. Khi đó, cuộc cách mạng
quản lý trong kinh doanh ở Mỹ đã được thực hiện.
Những đề xuất cơ bản này chia thành hai phần. Ba đề xuất đầu giúp Chandler giải thích
sự xuất hiện của doanh nghiệp kinh doanh hiện đại. Năm đề xuất còn lại giúp ông giải thích
sự tăng trưởng liên tục của loại hình doanh nghiệp này. Các doanh nghiệp hiện đại xuất hiện
khi hệ thống phân cấp quản lý có thể giám sát và điều phối hoạt động của một số đơn vị kinh
doanh hiệu quả hơn so với các cơ chế thị trường. Nó tiếp tục phát triển khi các các nhà quản
lý ngày càng chuyên nghiệp và giỏi hơn. Tuy nhiên, nó chỉ xuất hiện và lan truyền trong
những ngành công nghiệp và lĩnh vực mà công nghệ và thị trường cho phép quản lý hành
chính có lợi hơn so với điều phối thị trường. Bàn tay hữu hình đã thay thế bàn tay vô hình của
thị trường nơi mà có công nghệ mới và thị trường mở rộng cho phép sản xuất hàng hóa nhanh
với số lượng lớn trong quá trình sản xuất và phân phối. Điều này minh chứng bằng sự phát
triển mạnh mẽ của các doanh nghiệp kinh doanh hiện đại và nửa sau của thế kỷ XIX ở Mỹ.
3. BÀN TAY HỮU HÌNH CỦA CÁC NHÀ QUẢN LÝ
Theo Chandler (1977), “Bàn tay hữu hình” trong các doanh nghiệp hiện đại đã thay thế
bàn tay vô hình của thị trường trong điều phối các hoạt động của nền kinh tế và phân bổ các
nguồn lực liên quan. Các doanh nghiệp kinh doanh truyền thống đại diện cho các hoạt động
nhỏ, lẻ, thường sản xuất một sản phẩm duy nhất trong một khu vực địa lý hẹp, và bị chi phối
bởi hệ thống thị trường và giá cả. Ngược lại, các doanh nghiệp hiện đại, với nhiều đơn vị bộ
phận, thường sản xuất nhiều sản phẩm khác nhau ở nhiều địa điểm. Các hoạt động của doanh
nghiệp hiện đại được quản lý và giám sát bởi các nhân viên làm công ăn lương chứ không
phải các cơ chế thị trường. Hay nói cách khác, doanh nghiệp hiện đại đã thay thế thị trường
trên cơ sở hoạt động quản lý hành chính tạo ra năng suất cao hơn, chi phí thấp hơn và lợi
nhuận cao hơn so với tuân thủ cơ chế thị trường.
Với Chandler, cơ chế thị trường bàn tay vô hình của thị trường là sự cạnh tranh về
giá giữa các doanh nghiệp nhỏ truyền thống, về bản chất, là mô hình cạnh tranh cao cấp của
kinh tế tân cổ điển. Chandler (1977) phê phán thị trường cạnh tranh hoàn hảo: “Nhiều lý
thuyết kinh tế cơ bản dựa trên giả định rằng các quy trình sản xuất và sự phân phối vẫn được
quản lý hoặc ít nhất là nên được quản lý bởi bàn tay vô hình của thị trường. Như vậy theo lý
thuyết cạnh tranh hoàn hảo chỉ có thể tồn tại giữa các doanh nghiệp đơn lẻ, và sự cạnh tranh
như vậy vẫn là cách hiệu quả nhất để điều phối các hoạt động kinh tế và phân bổ các nguồn
lực kinh tế. Ngược lại các doanh nghiệp hiện đại mang lại sự cạnh tranh không hoàn hảo và
phân bổ sai các nguồn lực. Vì nhiều nhà kinh tế học đã coi doanh nghiệp hiện đại như một sự
Chương 10. Thuyết bàn tay hữu hình
203
sai lạc lâu dài, và xem như một điều xấu, không ít người đã gặp rắc rối để xem xét nguồn gốc
của nó. Đối với họ, thị trường độc quyền luôn được xem là hoàn hảo”.
Đặc biệt, Chandler tin rằng mô hình cạnh tranh hoàn hảo không cho phép hiểu được
doanh nghiệp hiện đại; và do đó không thể nắm được lịch sử kinh doanh. Mô hình cạnh
tranh hoàn hảo là một mô hình cấu trúc thị trường. Một thị trường là thị trường cạnh tranh
hoàn hảo nếu:
Không có bất kỳ người mua hoặc người bán nào đủ lớn để có thể ảnh hưởng đến
thị trường.
Người mua và người bán có đầy đủ hiểu biết và cơ hội trao đổi hàng hóa.
Không có sự phân biệt về sản phẩm.
Cạnh tranh hoàn hảo là một trạng thái cân bằng, tại đó, người mua và người bán hành
động theo hiểu biết của mình trên cơ sở đã khai thác tất cả các cơ hội trao đổi. Đó là trạng
thái, trong đó người bán là các doanh nghiệp bị trói buộc các phương tiện tạo ra giá trị: không
đổi mới; không tìm được đầu vào tốt hơn, hay công nghệ tốt hơn hoặc cách tổ chức sản xuất
tốt hơn; thậm chí không cắt giảm giá cả.
Cùng với đề cao và giới hạn trong mô hình cạnh tranh hoàn hảo, kinh tế học cổ điển
cho rằng bất kỳ thị trường nào với những đặc điểm khác cạnh tranh hoàn hảo đều được coi
là cạnh tranh không hoàn hảo và thiếu hiệu quả kinh tế. Với số ít người bán hàng, sản phẩm
khác biệt, và thông tin không đầy đủ được coi là thị trường không hoàn hảo. Phân tích như
vậy sẽ dẫn đến một số kết luận đôi khi không rõ ràng nếu được áp dụng vào lịch sử thương
mại. Ví dụ, dẫn đến kết luận rằng ngành công nghiệp thép của Mỹ năm 18751898 do
Carnegie Steel dẫn đầu đã không cạnh tranh và không hiệu quả. Nhưng hiệu quả kinh tế
thực tế ngược lại khi giá của đường ray thép giảm từ 160 USD/tấn trong năm 1875 xuống
còn 17 USD/ tấn vào năm 1898.
Chỉ trích của Chandler về mô hình cạnh tranh hoàn hảo là đúng. Nhưng để đánh đồng
mô hình cạnh tranh hoàn hảo của kinh tế học tân cổ điển với bàn tay vô hình của thị trường là
một sai lầm lớn. Hậu quả của sai sót này là đặc biệt quan trọng đối với Chandler, vì khái niệm
cạnh tranh hoàn hảo và bàn tay vô hình của thị trường là một và cùng một nền tảng; mà trên
đó khái niệm bàn tay hữu hình được xây dựng. Thực tế, bàn tay hữu hình thừa nhận “thị
trường vẫn là nơi khỏi xướng nhu cầu về hàng hoá và dịch vụ”. Đây là bằng chứng khẳng
định doanh nghiệp hiện đại không thay thế bàn tay vô hình của thị trường; và thậm chí cũng là
đối tượng của bàn tay vô hình của thị trường.
Học thuyết doanh nghiệp
204
KẾT LUẬN
Bàn tay hữu hình thực sự là một lịch sử của cuộc Cách mạng Quản lý trong Kinh doanh
ở Hoa Kỳ giữa thế kỷ 18. Nhưng không có nghĩa là các doanh nghiệp quản lý hiện đại thay
thế cơ chế thị trường trong điều phối các hoạt động và và phân bổ các nguồn lực của nền kinh
tế. Thay vào đó, doanh nghiệp hiện đại là đối tượng của bàn tay vô hình của thị trường. Và
doanh nghiệp hiện đại là một phần không thể tách rời của bàn tay vô hình của thị trường. Sự
xuất hiện của doanh nghiệp quản lý hiện đại được Chandler coi là quan điểm đổi mới lớn
trong nền kinh tế Mỹ giữa thế kỷ 18 và đầu thế kỷ 19. Nhưng sự xuất hiện của loại hình doanh
nghiệp hiện đại này, thực tế, là sản phẩm của bàn tay vô hình của thị trường và sự phát triển
của các doanh nghiệp hiện đại là một phần quá trình phát triển lịch sử của bàn tay vô hình của
thị trường, mở ra thời kỳ mới nghiên cứu về hoạt động tổ chức và quản lý nội bộ của các
doanh nghiệp.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- thuyet_ban_tay_huu_hinh.pdf