Thực chất, Luật Thể dục, thể thao năm
2006 và các văn bản hướng dẫn thi hành chỉ
nghiêm cấm hành vi gian lận giới tính trong
thi đấu thể thao, chưa có quy định nghiêm
cấm người đã chuyển giới được thi đấu thể
thao. Có thể khi xây dựng các văn bản này,
các nhà lập pháp chưa biết đến đối tượng
người chuyển giới? Hiện nay, pháp luật Việt
Nam cho phép chuyển giới, thừa nhận quyền
của người chuyển giới thì có thể nghiên cứu,
xem xét vấn đề tham gia thi đấu thể thao của
họ cụ thể hơn (thi đấu theo giới tính mới/
nhiễm sắc thể/giải đấu riêng). Theo chúng
tôi, nếu quy định tiến bộ nhất là cho thi đấu
theo giới tính mới nhưng có lẽ đôi khi gây
ra sự không công bằng (ví dụ chuyển giới
từ nam sang nữ); còn quy định có thể khả
dĩ nhất là thi đấu theo nhiễm sắc thể/có giải
đấu riêng.
+ Trong tương lai xa hơn, có thể mở
rộng phạm vi của vấn đề mang thai hộ. Hiện
nay, việc mang thai hộ chỉ được thực hiện ở
mức độ: một người họ hàng, thân thích cùng
hàng có thể tiến hành mang thai hộ cho cặp
vợ chồng đó. Tuy vậy, như đã nêu, người
chuyển giới sau khi phẫu thuật sẽ không còn
khả năng sinh sản. Sau này, pháp luật nên
quy định trước khi họ phẫu thuật họ có thể
gửi tinh trùng/trứng của mình vào ngân hàng
lưu giữ. Sau khi phẫu thuật có thể nhờ người
mang thai hộ (kết hợp trứng/tinh trùng của
mình với tinh trùng/trứng được xin trong
ngân hàng). Như vậy, người chuyển giới có
thể có con đẻ của mình. Việc mở rộng phạm
vi mang thai hộ như vậy sẽ thể hiện tính
nhân văn rất lớn của pháp luật.
12 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 20/01/2022 | Lượt xem: 207 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiếp cận dự trên quyền trong việc xây dựng, thi hành pháp luật về quyền của người đồng tình, song tính và chuyển giới, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tóm tắt:
Bài viết đánh giá thực trạng sử dụng phương pháp tiếp cận dựa trên
quyền trong xây dựng, thi hành pháp luật về quyền của người đồng
tính, song tính và chuyển giới (LGBT) tại Việt Nam. Trên cơ sở đó,
bài viết đưa ra một số khuyến nghị góp phần nâng cao hiệu quả của
hoạt động này.
Trương Hồng Quang*
Abstract:
This article provides the assessments of the human rights-based
approach in developing and enforcing the laws and regulations of
the rights of homosexual, bisexual and transgender persons (LGBT)
in Vietnam. Based on the assessments, it also provides proposals to
improve the effectiveness of the appoach.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: tiếp cận dựa trên quyền;
đồng tính; song tính; chuyển giới;
LGBT.
Lịch sử bài viết:
Nhận bài: 11/01/2017
Biên tập: 12/02/2017
Duyệt bài: 26/02/2017
Article Infomation:
Keywords: Human rights-based
approach; homosexual; bisexual;
transgender; LGBT.
Article History:
Received: 11 Jan. 2017
Edited: 12 Feb. 2017
Appproved: 26 Feb. 2017
* NCS, Viện Khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp.
1. Một số đánh giá về việc áp dụng phương
pháp tiếp cận dựa trên quyền trong quá
trình xây dựng, thi hành pháp luật về
quyền của người LGBT
Trước hết, có thể hiểu khái quát một
số khái niệm công cụ như sau:
- Tiếp cận dựa trên quyền con người
là phương pháp tiếp cận lấy các tiêu chuẩn
về quyền con người làm cơ sở để xác định
kết quả mong đợi và lấy các nguyên tắc về
quyền con người làm điều kiện, khuôn khổ
cho quá trình đạt được kết quả đó. Sử dụng
các tiêu chuẩn và nguyên tắc về quyền con
người làm cơ sở và mục tiêu cho hoạt động
là đích mà cách tiếp cận dựa trên quyền con
người hướng tới. Đây là một phương pháp
CUÛA NGÖÔØI ÑOÀNG TÍNH, SONG TÍNH VAØ CHUYEÅN GIÔÙI
TIEÁP CAÄN DÖÏA TREÂN QUYEÀN TRONG VIEÄC XAÂY DÖÏNG, THI HAØNH PHAÙP LUAÄT VEÀ QUYEÀN
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
23Số 14(342) T7/2017
khá mới mẻ, chưa được phổ biến rộng rãi
tại Việt Nam (mặc dù nội dung của phương
pháp ít nhiều đã được vận dụng trong quá
trình nội luật hóa các Công ước quốc tế về
Quyền con người, xây dựng, thi hành pháp
luật về quyền con người);
- Người đồng tính: người có tình cảm,
cảm xúc với người có cùng giới tính sinh
học với mình;
- Người song tính: người có tình cảm,
cảm xúc với cả người có cùng/khác giới tính
sinh học với mình;
- Người chuyển giới: người cảm nhận,
mong muốn mình có giới tính sinh học khác
giới tính sinh học khi sinh ra.
Nhóm người LGBT được xem là
những xu hướng tính dục, bản dạng giới
bình thường trong một xã hội đa dạng hiện
nay. Tuy nhiên, nhận thức về nhóm này chưa
thực sự thống nhất xét dưới nhiều góc độ,
lĩnh vực khác nhau. Tại Việt Nam, vấn đề
quyền của nhóm người LGBT đã bắt đầu
được đề cập trong quá trình xây dựng, thi
hành pháp luật tại Việt Nam thời gian gần
đây, đặc biệt là giai đoạn sửa đổi Luật Hôn
nhân và Gia đình (HN&GĐ) năm 20001, Bộ
luật Dân sự (BLDS) năm 20052. Thời gian
qua, vấn đề này đã có những đổi mới tích
cực như: Hiến pháp năm 2013 đặt chương
về Quyền con người, quyền công dân ở
Chương II, trong đó có những quy định
chung về quyền con người, quyền công dân
như: các điều kiện hạn chế quyền con người,
quyền bình đẳng mọi mặt trong đời sống xã
hội; Luật HN&GĐ năm 2014 bỏ quy định
“cấm kết hôn giữa những người cùng giới
tính" của Luật HN&GĐ năm 2000 (khoản 5
Điều 10), thay vào đó là “không thừa nhận
1 Trong quá trình này đã có nhiều thảo luận sôi nổi về vấn đề quyền kết hôn của cặp đôi cùng giới.
2 Xem: Hồng Khánh (2006), Người chuyển đổi giới tính phải được thừa nhận,
chuyen-doi-gioi-tinh-phai-duoc-thua-nhan-2072247.html, truy cập ngày 27/10/2006.
3 Trước đó, tại kỳ Kiểm định Định kỳ Phổ quát năm 2009, Việt Nam cũng từng chấp nhận khuyến nghị: “Tăng cường nỗ
lực gia tăng nhận thức xã hội về những vai trò giới tích cực, đặc biệt hướng đến việc xóa bỏ những khác biệt do giới
đang tồn tại trong giáo dục và thị trường lao động. Tiếp tục thực thi những nỗ lực lớn hơn để thúc đẩy quyền của những
người dễ bị tổn thương về xã hội, bao gồm người khuyết tật (Khuyến nghị số 28, 29 của Bangladesh và Hàn Quốc)”.
hôn nhân giữa những người cùng giới tính”
(khoản 2 Điều 8); BLDS năm 2015 thừa
nhận vấn đề chuyển đổi giới tính (của người
chuyển giới); Bộ luật Hình sự năm 2015 bổ
sung thành tố “thực hiện hành vi quan hệ
tình dục khác” cũng đồng thời được đưa vào
các điều về tội hiếp dâm, hiếp dâm người
dưới 16 tuổi, cưỡng dâm,...; Luật Thi hành
tạm giữ, tạm giam năm 2015 quy định người
đồng tính, người chuyển giới nếu bị tạm giữ,
tạm giam thì có thể được bố trí giam giữ ở
buồng riêng;... Tuy nhiên, do nhiều nguyên
nhân khác nhau (nhận thức, năng lực cán
bộ...) nên cách tiếp cận trong việc xây dựng,
thi hành pháp luật về quyền của người
LGBT vẫn còn một số hạn chế, bất cập. Điều
này được thể hiện qua một số nhận định
dưới đây.
1.1 Chưa có sự tiếp cận đầy đủ với
pháp luật quốc tế
Việc xây dựng, thi hành pháp luật về
quyền của người LGBT tại Việt Nam thời
gian qua chưa có sự tiếp cận đầy đủ với
pháp luật quốc tế (bao gồm nội dung các
công ước, tuyên ngôn, nguyên tắc, tuyên bố,
khuyến nghị,...) nên chưa thực sự dựa trên
những tiêu chuẩn quốc tế chung về quyền
con người. Gần đây, Việt Nam đã chấp
nhận một số khuyến nghị tại kỳ Kiểm điểm
Định kỳ Phổ quát của Liên hiệp quốc (tháng
6/2014): “Tiếp tục thực thi các chính sách để
xóa bỏ phân biệt đối xử đối với những người
thuộc các nhóm yếu thế, bao gồm việc cung
cấp cho họ tiếp cận với an sinh xã hội, chăm
sóc sức khỏe, giáo dục và nhà ở (số 143.86
của Serbia); Thông qua một luật chống lại
phân biệt đối xử đảm bảo bình đẳng cho tất
cả công dân, bất kể xu hướng tính dục và
bản dạng giới (số 143.88 của Chile)”3.
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
24 Số 14(342) T7/2017
Có thể nhận thấy, dưới góc độ pháp
luật quốc tế, các văn kiện quốc tế cũng như
quan điểm của các tổ chức quốc tế hiện nay
đã ghi nhận sự bình đẳng giữa các xu hướng
tính dục và bản dạng giới, chống lại các hành
động phân biệt, kỳ thị. Vấn đề bảo vệ quyền
của người LGBT đang thực sự dần trở thành
một trong những mối quan tâm, lo ngại của
các quốc gia trên thế giới. Trong đó, quyền
được sống, được hưởng chính sách an sinh
xã hội bình đẳng như các chủ thể khác trong
xã hội và quyền được kết hôn là những quyền
đặc biệt, ảnh hưởng lớn đến chất lượng nhân
quyền của những đối tượng dễ bị tổn thương
trong xã hội. Ví dụ như hôn nhân cùng giới
là một vấn đề về quyền công dân và là vấn
đề chính trị, xã hội, đạo đức và tôn giáo ở
nhiều quốc gia phương Tây. Chấm dứt kỳ thị
trong tiếp cận hôn nhân dân sự đã trở thành
vấn đề bức bách ở nhiều quốc gia. Đây cũng
chính là những điều mà pháp luật Việt Nam
cần xem xét, cân nhắc đưa ra những thay
đổi nhất định để hòa nhập với sự thay đổi
trong quan niệm về nhân quyền với thế giới.
Chúng ta cũng phải nhìn nhận thẳng thắn
rằng, quyền của LGBT là vấn đề mới phát
sinh trong xã hội và thực tế còn gây nhiều
tranh luận trên thế giới. Tuy nhiên, việc tiếp
cận với các tiêu chuẩn, khuyến cáo, khuyến
nghị mới là hết sức cần thiết trong quá trình
hội nhập quốc tế về nhân quyền.
1.2 Việc đánh giá tình hình, nhu cầu
về quyền của người LGBT trong quá trình
xây dựng luật còn thiếu tính chủ động
Mặc dù các cơ quan soạn thảo đã có sự
tìm hiểu nhất định về thực trạng cộng đồng
LGBT và nhu cầu của họ nhưng thực tế chủ
4 Có thể xem các phân tích về vấn đề này trong một số nghiên cứu: Trương Hồng Quang (2014), Người đồng tính, song
tính, chuyển giới tại Việt Nam với nhu cầu đổi mới hệ thống pháp luật, Sách chuyên khảo, Nhà xuất bản Chính trị Quốc
gia - Sự thật, Hà Nội; Trương Hồng Quang (2013), "Một số kiến nghị bảo vệ quyền của người đồng tính tại Việt Nam",
Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, (11), tr. 21-29, 38; Trương Hồng Quang (2014), "Quyền kết hôn của người đồng tính",
Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, (4), tr. 27-36;...
yếu lấy thông tin từ các tổ chức xã hội hoạt
động trong lĩnh vực này. Các hoạt động của
quá trình xây dựng luật có liên quan đến
quyền của LGBT chưa có sự quan tâm thích
đáng trong việc đánh giá thực trạng, nhu cầu
của người LGBT. Ví dụ, Báo cáo đánh giá
tác động kinh tế - xã hội của dự án BLDS
không lựa chọn vấn đề nên hay không nên
cho phép phẫu thuật chuyển đổi giới tính để
đánh giá, mặc dù đây là một trong những
vấn đề có nhiều ý kiến trái chiều trong dự
thảo
1.3 Cách tiếp cận trong việc xây dựng
luật về quyền chưa thực sự hợp lý
Cách thức xây dựng luật vẫn theo
thông lệ cũ: thường chỉ ghi nhận một vấn
đề nào đó đã rõ ràng về lý luận cũng như
thực tiễn nên hiếm khi chấp nhận những vấn
đề mới, còn nhiều tranh cãi như quyền của
người LGBT (mặc dù đã có những nghiên
cứu chứng minh đây là những quyền tự
nhiên và chính đáng). Bên cạnh đó, khi
xem xét, đánh giá để ghi nhận một quyền
nào đó của người LGBT, cơ quan lập pháp
thường chỉ tập trung đánh giá xem nếu ghi
nhận quyền đó sẽ ảnh hưởng như thế nào
đến truyền thống, văn hóa, xã hội, kinh tế
và ít khi đánh giá theo hướng ngược lại: nếu
không ghi nhận quyền này thì người LGBT
sẽ bị ảnh hưởng như thế nào, nhu cầu thực
tế của họ ra sao? Các cơ quan nhà nước sẽ
gặp khó khăn gì khi giải quyết các hậu quả
do việc không thừa nhận quyền đó gây ra?
Những hạn chế này được thể hiện thông qua
quá trình xem xét ghi nhận quyền kết hôn
của cặp đôi cùng giới (khi sửa đổi Luật Hôn
nhân và Gia đình năm 2000)4...
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
25Số 14(342) T7/2017
1.4 Các yếu tố văn hóa, truyền thống
còn ảnh hưởng khá nhiều đến việc xây
dựng luật về quyền của người LGBT
Quá trình xây dựng pháp luật về quyền
của người LGBT thời gian qua cho thấy, Việt
Nam còn chịu ảnh hưởng khá nhiều bởi các
yếu tố văn hóa, truyền thống. Có thể lấy ví
dụ thông qua vấn đề xem xét hợp pháp hóa
quan hệ sống chung của cặp đôi cùng giới
trong quá trình sửa đổi Luật HN&GĐ năm
2000 được phân tích dưới đây.
Quan điểm của xã hội Việt Nam bị chi
phối bởi tư tưởng Nho giáo, do đó, người
Việt luôn coi trọng việc xây dựng gia đình,
sinh con đẻ cái để duy trì nòi giống, “trai
khôn tìm vợ, gái ngoan tìm chồng” hay “bất
hiếu hữu tam, vô hậu vi đại”. Đặc điểm này
đã chi phối đáng kể đến các quan điểm của
người dân Việt Nam đối với người đồng
tính. Chính vì vậy, nhiều người cho rằng
không nên cổ vũ đồng tính, không nên cho
cặp đôi đồng tính được phép kết hôn vì sẽ
làm suy thoái hôn nhân, suy giảm nòi giống
của xã hội. Một câu hỏi luôn được đặt ra
khi xem xét chủ đề hôn nhân cùng giới tại
Việt Nam, đó là liệu hôn nhân cùng giới
có làm suy thoái đạo đức, thay đổi chuẩn
mực truyền thống hay không? Hôn nhân
cùng giới liệu sẽ làm suy thoái nòi giống, đi
ngược lại giá trị của cuộc sống hay không?
Từ trước đến nay, khái niệm kết hôn vẫn
được hiểu là việc nam và nữ xác lập quan
hệ vợ chồng với nhau theo quy định của
Luật HN&GĐ về điều kiện kết hôn và đăng
ký kết hôn, còn gia đình là tập hợp những
người gắn bó với nhau do hôn nhân, quan hệ
huyết thống hoặc quan hệ nuôi dưỡng, làm
phát sinh các quyền và nghĩa vụ giữa họ với
nhau theo quy định của Luật này5. Từ đó,
5 Khoản 2, 5, Điều 3 Luật HN&GĐ năm 2014.
6 Xem: Định nghĩa gia đình, truy cập ngày
10/1/2013.
khái niệm gia đình cũng được hiểu là của
một cặp đôi dị tính6. Tuy nhiên, sự thay đổi
hệ giá trị chức năng của gia đình đã và đang
diễn ra ngay ở bản thân các gia đình dị tính
(cặp đôi khác giới). Nguyên nhân cơ bản của
sự thay đổi giá trị gia đình lại nằm ở những
biến động của đời sống kinh tế - xã hội - văn
hóa, và không liên quan gì đến liên kết hôn
nhân dị tính hay đồng tính. Nếu sự phá vỡ
những tiêu chí giá trị truyền thống có thể xảy
ra ở cả các gia đình dị tính, thì việc dự báo
rằng hôn nhân đồng tính làm xói mòn giá trị
truyền thống gia đình, phải chăng là sự kết án
khiên cưỡng?
1.5 Quan niệm về bình đẳng giới ảnh
hưởng đến quá trình xây dựng, thi hành
pháp luật về quyền của người LGBT
Quan niệm về bình đẳng giới dường
như đã được thống nhất ở nhiều góc độ và
trong thực tế, các quốc gia, cơ quan, tổ chức
chỉ còn xem xét vấn đề đấu tranh bình đẳng
giới giữa nam và nữ được đến đâu, mức độ
cao hay thấp. Bởi vậy, sự thể hiện của quan
niệm về bình đẳng giới tại Việt Nam cũng
không nằm ngoài những xu hướng chung.
Tại Việt Nam hiện nay, bản chất của bình
đẳng giới là sự tôn trọng, tạo điều kiện cho cả
nam và nữ cùng phát triển, cùng nhau cống
hiến nhiều nhất cho xã hội và đáp ứng các
nhu cầu của cá nhân. Theo chúng tôi, quan
niệm này đúng nhưng dường như chưa đầy
đủ, chưa đáp ứng được xu hướng phát triển
về giới hiện nay. Mặc dù thuật ngữ gender
(giới tính) là khái niệm rộng, nhưng hiện tại
chỉ mới được hiểu ở mức độ biological sex/
gender (giới tính sinh học) mà chưa có sự
ghi nhận bình đẳng giữa những xu hướng
tính dục, bản dạng giới khác nhau.
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
26 Số 14(342) T7/2017
Không thể phủ nhận quan niệm bình
đẳng giới là bình đẳng giữa nam và nữ rất phổ
biến hiện nay. Tuy nhiên, ngay trong chính
giới nam hoặc nữ lại có những bất bình đẳng
nhất định mà pháp luật Việt Nam còn đang
bỏ ngỏ. Ví dụ, với một người đàn ông dị tính
và một người đàn ông đồng tính thực sự còn
khác nhau rất nhiều ở sự kỳ thị, phân biệt đối
xử. Hiến pháp và pháp luật không tỏ rõ thái
độ thừa nhận hay cấm hiện tượng đồng tính
và cũng không ghi nhận nguyên tắc cấm sự
kỳ thị, phân biệt đối xử đối với các vấn đề về
xu hướng tính dục. Như vậy, chưa tính đến
các quyền khác như quyền kết hôn, quyền
thừa kế, cho nhận con nuôi thì chỉ ở riêng
khía cạnh không phân biệt đối xử ngay trong
cùng một giới đã có sự khác nhau rõ rệt. Nếu
không đề cập đến việc cấm phân biệt đối xử
trong cùng một giới liệu có công bằng? Liệu
có cơ sở để bảo vệ những đối tượng thiểu số
trong xã hội vốn rất cần sự bảo hộ của Nhà
nước? Cũng chính vì quan niệm bình đẳng
giới bị bó hẹp như vậy nên trong thực tiễn
hiện nay, người LGBT còn bị kỳ thị, phân
biệt đối xử trong nhiều lĩnh vực (đời sống,
việc làm,). Có lẽ, nếu không ghi nhận việc
cấm phân biệt đối xử dựa trên xu hướng tính
dục, bản dạng giới thì pháp luật sẽ ít nhiều
mất đi giá trị xã hội vốn có của nó. Vì vậy,
bình đẳng giới cần đề cập đến sự bình đẳng
ngay trong một giới (giữa các bản dạng giới,
xu hướng tính dục).
Hiện nay, ở các nước tiến bộ thường có
sự ghi nhận về bình đẳng giữa các xu hướng
tính dục, bản dạng giới (ví dụ như cấm sự kỳ
thị đồng tính), nghĩa là hướng đến sự bình
đẳng ngay trong cùng một giới. Như vậy,
quan niệm về bình đẳng giới phải rộng hơn,
không chỉ bó hẹp trong mối quan hệ bình
7 Nguồn: Trương Hồng Quang (2012), "Nhận thức về người đồng tính và quyền của người đồng tính", Tạp chí Nhà nước
và Pháp luật (Viện Nhà nước và Pháp luật), (3), tr. 25-34, 44.
đẳng giữa nam và nữ. Các nước cũng thể
hiện thái độ khác nhau đối với bình đẳng về
xu hướng tính dục, ví dụ như có nước cấm
sự kỳ thị nhưng có nước lại cấm hiện tượng
đồng tính (44 quốc gia trên thế giới), cấm
tuyên truyền về đồng tính (ví dụ như thành
phố Saint Petersburg của Nga), xem đồng
tính là tội phạm hình sự (ví dụ như ở Sudan,
Yemen)7. Việc ghi nhận nguyên tắc cấm
sự kỳ thị về xu hướng tính dục, bản dạng
giới là điều hoàn toàn phù hợp với xu hướng
nhân quyền hiện nay. Chính điều đó sẽ làm
cho quan niệm về bình đẳng giới được toàn
diện hơn nữa.
1.6 Pháp luật hiện hành về quyền
của LGBT chưa đảm bảo được năng
lực thực hiện quyền của các chủ thể có
liên quan
Thứ nhất, người LGBT Việt Nam hiện
nay chưa được ghi nhận một số quyền cơ
bản mặc dù thực tế cho thấy đây là nhu cầu
chính đáng, nên gây khá nhiều hậu quả trong
thực tiễn. Hiện nay, người LGBT tại Việt
Nam chưa được ghi nhận một số quyền như
sau: Quyền kết hôn/kết hợp dân sự giữa hai
người cùng giới tính; Quyền nhận con nuôi
chung của cặp đôi cùng giới; Quyền được
nhờ người mang thai hộ cho cặp đôi LGBT;
Các quyền sở hữu tài sản chung, đại diện
cho nhau trong quá trình sống chung của cặp
đôi cùng giới,...
Thứ hai, một số quyền mặc dù được
ghi nhận chung cho tất cả các công dân trong
xã hội nhưng trong quá trình thực thi bộc lộ
nhiều hạn chế đối với người LGBT. Ví dụ
như quyền về hình ảnh, bí mật đời tư, quyền
trong lĩnh vực tư pháp hình sự, quyền tiếp
cận pháp luật, quyền được trợ giúp pháp lý
(TGPL) miễn phí Ví dụ, vì hầu hết người
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
27Số 14(342) T7/2017
LGBT sống khép kín nên khó liệt kê được
đầy đủ những vấn đề mà cộng đồng LGBT
cần TGPL. Theo những quan sát, tìm hiểu
và tham vấn một số người LGBT của chúng
tôi, những vấn đề chính mà họ có thể gặp
và cần sự trợ giúp pháp luật như: phẫu thuật
chuyển giới và xác định lại giới tính khác
nhau như thế nào? bồi thường thiệt hại về
tổn thương danh dự, nhân phẩm, sức khỏe,
tính mạng; các quy định về hôn nhân, gia
đình, con nuôi; chế độ tài sản; đặc biệt là
vấn đề phân biệt đối xử, kỳ thị; bạo lực gia
đình Nếu coi khung pháp luật, chính sách
là công cụ để thực hiện TGPL thì có một
vấn đề dễ thấy là chúng ta đang thiếu công
cụ để thực hiện TGPL đối với cộng đồng
LGBT. Tính đến thời điểm hiện nay, các quy
định pháp luật, chính sách đối với cộng đồng
LGBT là một khoảng trống khá lớn tại Việt
Nam. Vai trò của việc TGPL cho đối tượng
LGBT không chỉ dừng lại ở việc trợ giúp
những vấn đề, lĩnh vực cụ thể mà còn phải
nhìn nhận trên phạm vi rộng hơn, bao gồm
cả việc thúc đẩy xây dựng, sửa đổi pháp luật
liên quan đến cộng đồng LGBT...
Thứ ba, công tác thực thi pháp luật
cũng bộc lộ những hạn chế nhất định. Chính
vì thiếu kiến thức về LGBT, quyền LGBT
cũng như áp dụng sai pháp luật nên trước
đây đã có những trường hợp xử phạt/ngăn
cản các đám cưới cùng giới (mặc dù pháp
luật chỉ cấm đăng ký kết hôn cùng giới
(Luật HN&GĐ năm 2000) và hiện nay là
không thừa nhận hôn nhân cùng giới (Luật
HN&GĐ năm 2014)). Ví dụ, đám cưới của
hai người đồng tính nam tại Kiên Giang
năm 2012 đã bị Ủy ban nhân dân xử phạt
hành chính8.
8 Xem: Tiến Trình, Hồng Cúc (2012), Bị phạt vì tổ chức đám cưới đồng tính, nguồn:
pages/20120528/bi-phat-vi-to-chuc-dam-cuoi-dong-tinh.aspx, truy cập ngày 29/5/2012.
9 Xem: Eric Hobsbawm (1992) (Birkbeck College), Terence Ranger (University of Oxford), The Invention of Tradition,
Cambridge University Press.
2. Một số khuyến nghị nhằm nâng cao
phương pháp tiếp cận dựa trên quyền
trong xây dựng, thi hành pháp luật về
quyền của người LGBT thời gian tới
2.1. Thay đổi cách tiếp cận trong việc
xây dựng, thi hành pháp luật về quyền của
người LGBT
(1) Cần có cách tiếp cận dựa trên
quyền một cách đúng đắn và toàn diện
Thời gian tới không nên chỉ chú trọng
việc ghi nhận quyền sẽ ảnh hưởng như thế
nào đến xã hội. Ngược lại, cần xem xét nếu
không ghi nhận quyền này thì sẽ ảnh hưởng
như thế nào đến chủ thể đó. Ví dụ như ở đây
quyền của LGBT là những quyền đã được
thừa nhận theo tiêu chuẩn quốc tế/nhiều
quốc gia ghi nhận/đang xem xét ghi nhận.
Bên cạnh đó, việc ghi nhận một quyền cần
đi kèm theo các yếu tố đảm bảo chủ thể có
quyền có khả năng thực hành quyền đó
(2) Cần có sự đổi mới trong quan niệm
về truyền thống, văn hóa
Bản chất của yếu tố văn hóa, truyền
thống mang tính bối cảnh, mang tính chính
trị và vì vậy luôn biến đổi không ngừng.
Chúng ta có thể tạo truyền thống mới và điều
này diễn ra ở mọi lúc, mọi nơi9. Chính vì
vậy, không thể dùng truyền thống, văn hóa
để biện minh cho sự kỳ thị, phân biệt đối xử
đối với người LGBT. Xã hội Việt Nam đang
ngày càng tiếp cận với nền văn hóa hiện đại
của thế giới nên chúng tôi cho rằng, thái độ
của xã hội đối với cộng đồng LGBT sẽ dần
tích cực hơn. Từ đó, những giá trị mới sẽ dần
được định hình rõ nét trong xã hội cũng như
đời sống pháp luật nước ta. Các nhà lập pháp
cũng cần nhìn nhận mọi vấn đề dưới góc độ
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
28 Số 14(342) T7/2017
toàn diện và nhân văn hơn; tích cực hơn trong
việc thừa nhận những yếu tố mới trong quá
trình phát triển của quyền con người.
(3) Đổi mới quan niệm về bình đẳng
giới
Đã đến lúc cần có sự đổi mới quan
niệm về bình đẳng giới như đã nêu ở phần
trên, theo đó phải là sự bình đẳng giữa các
xu hướng tính dục và bản dạng giới. Cũng
có thể có ý kiến cho rằng, đề xuất này là
không cần thiết vì Hiến pháp đã ghi nhận
mọi người đều bình đẳng trước pháp luật.
Tuy nhiên, theo chúng tôi, trong bối cảnh
xã hội và nhận thức ngày càng phát triển,
mở rộng, việc hoàn thiện quan niệm về bình
đẳng giới là hợp lý. Quy định của Hiến pháp
cũng cần được cụ thể hoá, làm sâu sắc và
phù hợp với đời sống hơn nữa10. Dưới góc
độ tâm lý xã hội, cũng có thể có ý kiến cho
rằng nếu đưa vấn đề bình đẳng trong cùng
một giới thì dễ gây ra tâm lý bị tổn thương
cho bản thân những người LGBT. Tuy vậy,
điều đó chỉ xảy ra khi đồng tính, song tính hay
chuyển giới là những giới tính khác biệt, còn
thực chất như đã nêu ở trên, họ chỉ khác nhau
ở xu hướng tính dục, bản dạng giới.
2.2 Đổi mới một số lĩnh vực pháp luật
về quyền của người LGBT11
(1) Thừa nhận một hình thức pháp lý về
quyền sống chung của cặp đôi cùng giới
Qua nghiên cứu cho thấy, việc ban
10 Xem: Trương Hồng Quang (2014), Người đồng tính, song tính, chuyển giới tại Việt Nam với nhu cầu đổi mới hệ thống
pháp luật, Sách chuyên khảo, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
11 Đối với các quyền khác có thể tham khảo một số nghiên cứu của chúng tôi: "Các vấn đề xã hội và pháp lý về cộng đồng
người đồng tính, song tính và chuyển giới tại Việt Nam hiện nay", Tạp chí Nhà nước và Pháp luật (Viện Nhà nước và
Pháp luật), số tháng 6/2013; "Người chuyển giới tại Việt Nam dưới góc nhìn pháp lý", Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp,
số 21, tháng 11/2013; "Một số kiến nghị bảo vệ quyền của người đồng tính tại Việt Nam", Tạp chí Nhà nước và Pháp
luật, số tháng 11/2013; Tìm hiểu một số vấn đề dưới góc độ pháp lý về đồng tính, song tính và chuyển giới tại Việt Nam
hiện nay, Sách tham khảo, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, tháng 11/2013; "Quyền kết hôn của người đồng
tính", Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 4, tháng 2/2014; Người đồng tính, song tính, chuyển giới tại Việt Nam với nhu
cầu đổi mới hệ thống pháp luật, Sách chuyên khảo, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2014; "Các quy định về
quyền nhân thân trong Dự thảo BLDS (sửa đổi)", Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 5/2015;
12 Tuy câu chữ khác nhau nhưng thực chất đều chưa thừa nhận quyền kết hôn của một cặp đôi cùng giới.
hành các quy định mới trong luật pháp ở Việt
Nam để hợp pháp hóa quan hệ sống chung
của người đồng tính là thực sự rất cần thiết.
Điều này sẽ có tác dụng góp phần ổn định
xã hội, đáp ứng nhu cầu của người đồng
tính được sống chung (có sự bảo hộ của Nhà
nước), làm cho người đồng tính sống có trách
nhiệm với bản thân và đời sống chung hơn.
Bên cạnh đó, Việt Nam là quốc gia vẫn còn
khá nặng nề trong việc gìn giữ quan niệm
phổ biến, truyền thống về hôn nhân, gia đình
và thực sự khó để thay đổi ngay trong một
thời gian ngắn. Hơn nữa, mối quan hệ đồng
giới, các nghiên cứu về quan điểm liên quan
đến hôn nhân cùng giới vẫn chưa thực sự rõ
nét và người đồng tính chưa thực sự là mối
quan tâm của nhiều người trong xã hội Việt
Nam. Chính vì vậy, dù Luật HN&GĐ mới
được ban hành năm năm 2014 nhưng chúng
tôi vẫn đề nghị thời gian tới nên công nhận
hình thức sống chung có đăng ký (kết hợp
dân sự) đối với cặp đôi đồng tính tại Việt
Nam. Đây có thể là một bước đệm để tạo
điều kiện xem xét, đánh giá thêm mối quan
hệ đồng giới trước khi công nhận hôn nhân
bình đẳng đối với cặp đôi đồng tính trong
thời gian tới.
Như đã nêu, khuyến nghị này xuất
phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau.
Trong đó, việc không quy định cấm nhưng
cũng quy định không thừa nhận gây sự hiểu
nhầm nhất định12. Nhiều người cho rằng
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
29Số 14(342) T7/2017
quy định như vậy là nửa vời. Quy định của
Luật HN&GĐ hiện hành không thực sự đáp
ứng yêu cầu đang đặt ra của xã hội về nhu
cầu sống chung có đăng ký của người đồng
tính, từ đó liên quan đến các quyền về nhân
thân, tài sản, con cái. Nếu không hợp pháp
hóa quan hệ sống chung của người đồng
tính dưới hình thức có đăng ký sẽ dễ gây
bất ổn trong xã hội và thực thi pháp luật.
Việc không công nhận quan hệ sống chung
có đăng ký của cặp đôi đồng tính cũng dễ
dẫn đến sự kỳ thị trong xã hội và sự cẩu thả
trong hoạt động thi hành pháp luật. Hơn nữa,
không công nhận mối quan hệ sống chung
có đăng ký sẽ tiếp tục khiến cho nhiều người
đồng tính vì sức ép từ gia đình, vì sự kỳ thị
mà phải cưới người dị tính. Và do vậy, mục
đích và nguyên tắc của hôn nhân sẽ không
thực sự được đảm bảo.
Việc cho phép sống chung có đăng ký
sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho Nhà nước xem
xét, đánh giá quan hệ đồng giới một cách
chính xác, có cơ sở hơn so với việc chỉ đưa
ra quy định giải quyết hậu quả do việc sống
chung không có đăng ký. Nếu không tạo cơ
hội cho người đồng tính chứng minh sự bền
vững trong việc sống chung thì xã hội khó
đạt được tính căn bản bền vững, giá trị xã
hội của pháp luật cũng khó được đảm bảo và
phát huy. Sự thừa nhận của pháp luật sẽ cho
phép họ chung sống công khai, được đảm
bảo quyền lợi và nghĩa vụ trong mối quan
hệ và đẩy lùi một cách cơ bản những định
kiến, kỳ thị của xã hội, tạo điều kiện cho
họ sống tốt và cống hiến cho xã hội. Quan
hệ sống chung có đăng ký cũng không làm
ảnh hưởng đến chế định hôn nhân truyền
thống, chưa gây xáo trộn lớn trong đời sống
13 Xem: Nguyễn Thị Thu Nam (2012), Hôn nhân cùng giới tốt cho gia đình và xã hội, nguồn:
truy cập ngày 31/10/2012.
14 Xem: Nguyễn Thị Thu Nam, Hôn nhân cùng giới tốt cho gia đình và xã hội, tlđd.
xã hội Việt Nam. Việc quy định sống chung
có đăng ký (kết hợp dân sự này) phải được
hiểu là áp dụng cho cặp đôi gồm hai người
cùng giới tính (hai người đồng tính, song
tính hoặc cũng có thể là người chuyển giới
đã phẫu thuật và đăng ký sống chung với
người cùng có cùng giới tính sau khi phẫu
thuật).
Một số quan điểm lo ngại việc hợp
pháp hóa quan hệ sống chung (đặc biệt là
quan hệ hôn nhân) sẽ ảnh hưởng đến gia
đình và xã hội. Quan ngại này thực sự không
hoàn toàn đúng đắn. Trên thế giới, nhiều
nghiên cứu đã cho thấy điều ngược lại: hôn
nhân cùng giới tốt cho gia đình và xã hội.
Thực tế ở các nước thừa nhận quan hệ đồng
giới như Đan Mạch, Hà Lan, Na Uy... đã
chứng minh điều này13. Hôn nhân đồng giới
không ảnh hưởng đến quan niệm xã hội về
tầm quan trọng của hôn nhân truyền thống.
Hôn nhân đồng giới có tính bình đẳng tương
đối cao vì hai người ít có sự phân công lao
động hay trách nhiệm theo giới. Nghiên cứu
tiến hành trong ba năm ở Vermont, Mỹ về
chất lượng cuộc sống lứa đôi của các cặp
đồng tính sống chung có đăng ký và các cặp
kết hôn truyền thống cho thấy, các cặp đồng
tính sống chung có đăng ký có mối quan hệ
hài hòa hơn, gần gũi nhau và ít xảy ra xung
đột hơn so với các cặp kết hôn giữa nam
và nữ14. Quan sát ở các nước Bắc Âu cho
thấy, sau khi thông qua luật cho phép những
người đồng giới đăng ký chung sống, sự gắn
bó của các cá nhân có tính lâu dài bởi đăng
ký sống chung đồng nghĩa với cam kết hành
vi chung thủy và do đó giảm lây truyền các
bệnh qua đường tình dục. Sau 5 năm kể từ
khi luật kết hôn đồng giới được thông qua
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
30 Số 14(342) T7/2017
tại Canada, nghiên cứu trên một nhóm quần
thể đăng ký kết hôn đầu tiên cũng chỉ ra,
các cặp đôi này có chỉ số thỏa mãn với cuộc
sống chung tăng lên, lòng tự tin tăng lên và
sự kỳ thị giảm đáng kể15. Điều quan trọng
là sự thay đổi này không chỉ diễn ra ở các
cặp đăng ký sống chung mà còn cho cả cộng
đồng những người đồng giới nói chung.
Như vậy, các quy định luật pháp cho kết hôn
đồng giới có ảnh hưởng rất tích cực đến sức
khỏe cộng đồng và chi phí hiệu quả đối với
các vấn đề liên quan phúc lợi xã hội.
(2) Hiện thực hóa quyền chuyển đổi
giới tính của người chuyển giới
Mặc dù BLDS năm 2015 đã chính
thức thừa nhận vấn đề chuyển đổi giới tính
nhưng theo chúng tôi, có một số vấn đề cần
quan tâm như sau:
- Nếu so với các quyền khác trong
Mục Quyền nhân thân thì các quyền khác
đều được ghi nhận là “quyền” trong tên
Điều luật. Trong khi đó, chỉ duy nhất vấn
đề chuyển đổi giới tính tại Điều 37 là chưa
kèm theo từ “quyền”. Bản thân nội dung
Điều 37 cũng chưa rõ ràng và mới chỉ quy
định chung là “thực hiện theo quy định của
luật”. Đánh giá một cách khách quan, quy
định mới này dù tiến bộ nhưng vẫn chưa có
sự dứt khoát. Điều này khá dễ hiểu bởi theo
chúng tôi, Ban soạn thảo cũng như các cơ
quan có liên quan cũng đã cố gắng nhưng
đây vẫn là một vấn đề khá mới trong thực
tiễn lập pháp của Việt Nam.
- BLDS năm 2015 đã bắt đầu có hiệu
lực từ ngày 1/1/2017. Chính phủ đang tổ
chức soạn thảo văn bản luật để hướng dẫn
chi tiết Điều 37 của Bộ luật này. Văn bản
này sẽ phải quy định các vấn đề về điều
kiện, quy trình, thủ tục chuyển đổi giới tính
cụ thể. Bên cạnh đó, quy định của Điều 37
15 Xem: Nguyễn Thị Thu Nam, Hôn nhân cùng giới tốt cho gia đình và xã hội, tlđd.
16 Xem: Vũ Ngân (2015), Cần xây dựng pháp luật về chuyển đổi giới tính trước khi BLDS sửa đổi năm 2015 có hiệu lực,
Cổng thông tin điện tử Bộ Tư pháp (moj.gov.vn), truy cập ngày 18/12/2015.
Bộ luật này cũng sẽ tác động đến các lĩnh
vực pháp luật khác có liên quan (nghĩa vụ
quân sự, thể thao,).
- Trong các đạo luật quy định chi tiết
và các văn bản pháp luật có liên quan, một
số vấn đề sẽ phải làm rõ hơn về quan điểm
như sau:
+ Có phải chuyển đổi giới tính 100%
(hoàn toàn) thì mới được công nhận? Ví dụ
một người chỉ phẫu thuật một phần ngực thì
người đó có thể thay đổi giới tính trên giấy
tờ hay không? Hiện nay, ở một số quốc gia
trên thế giới (Argentina, Hàn Quốc, Canada,
Đài Loan) là chỉ cần giấy xác nhận tâm lý
về giới tính và sử dụng hóc-môn liên tục ít
nhất 12 tháng là có thể thay đổi giới tính trên
giấy tờ cá nhân16.
+ Tình trạng hôn nhân của người
muốn chuyển đổi giới tính phải đang độc
thân? Pháp luật các nước trên thế giới có
cách xử lý khác nhau về quan hệ này khi
thừa nhận quyền của người chuyển giới.
Có nước đặt ra yêu cầu người đó phải đang
độc thân, không có quan hệ hôn nhân thì
mới được chuyển giới (nếu đúng là người
chuyển giới thực sự). Có nước không yêu
cầu chưa kết hôn nhưng sau đó quan hệ giữa
hai người họ sẽ chuyển thành hôn nhân cùng
giới (nếu luật đã công nhận hôn nhân cùng
giới) hoặc kết hợp dân sự (một hình thức kết
đôi khác bên cạnh hôn nhân - nếu luật đã ghi
nhận hình thức này). Đối với Việt Nam, hiện
nay chỉ thừa nhận quyền kết hôn dị tính, nếu
thừa nhận quyền chuyển đổi giới tính thì
có thể đặt ra yêu cầu là người đó đang độc
thân, hiện tại không có quan hệ hôn nhân
hoặc nếu không đặt ra yêu cầu này thì sau
khi chuyển giới bắt buộc phải hủy quan hệ
hôn nhân trước đó do không phù hợp với
pháp luật hiện hành.
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
31Số 14(342) T7/2017
+ Để đảm bảo “phong trào chuyển
giới” không diễn ra như e ngại của nhiều
người (dù trên thực tế không ai lại bỏ ra hàng
trăm triệu và chịu đau đớn do phẫu thuật chỉ
vì theo phong trào), chúng ta có thể tham
khảo kinh nghiệm của nhiều nước trên thế
giới xây dựng một quy trình tư vấn tâm lý
và pháp lý giúp người chuyển giới hiểu bản
thân và chuẩn bị cho cuộc sống với giới tính
mới của họ. Ví dụ, người chuyển giới cần
được tư vấn về tâm lý để họ thực sự xác định
đúng nhu cầu chuyển giới của mình, có thời
gian sống thử với giới tính mong muốn trước
khi được kê đơn sử dụng hóc-môn. Hầu hết
các bác sỹ phẫu thuật chuyển đổi giới tính
đều có yêu cầu rất nghiêm khắc và theo quy
trình trước khi đồng ý phẫu thuật cho bệnh
nhân17. Nhiều bác sỹ phẫu thuật đòi hỏi phải
có hai giấy xác nhận đánh giá của bác sỹ
tâm lý/tâm thần có hiểu biết về vấn đề giới
tính trước khi đồng ý cho phẫu thuật. Các
bản đánh giá này phải khai rằng cá nhân đã
đáp ứng đủ các tiêu chuẩn cho phẫu thuật
giới tính. Ngay cả khi đã có thư giới thiệu từ
chuyên môn tư vấn tâm lý sinh học, bác sỹ
phẫu thuật vẫn có cuộc họp mặt nói chuyện
thêm và đánh giá trước ngày phẫu thuật để
đảm bảo người chuyển giới chắc chắn việc
phẫu thuật là hoàn toàn cần thiết cho họ, vì
một khi đã phẫu thuật là không thể thay đổi
trở lại tình trạng như trước khi phẫu thuật
Việc chuyển đổi giới tính là một quá trình
rất cá nhân của người chuyển giới. Phát hiện
và hỗ trợ chuyên môn tâm lý giúp họ biết
được quá trình chuyển giới rõ ràng, cũng
như ngăn chặn chuyện chuyển giới không có
sơ sở của người không phải là người chuyển
giới. Sau đó, dịch vụ phẫu thuật và chăm sóc
hậu phẫu mới được cung cấp và thực hiện
nếu các điều kiện được thỏa mãn.
17 Xem: truy cập
ngày 26/4/2015
18 Nguồn: Đại diện người chuyển giới trong quân đội của 18 nước họp tại Mỹ,
chuyen-gioi-trong-quan-doi-cua-18-nuoc-hop-tai-my/c/15109883.epi, truy cập ngày 24/10/2014.
+ Tác động đến pháp luật về nghĩa
vụ quân sự. Hiện nay có khoảng 18 nước
trên thế giới quy định người chuyển giới có
quyền tham gia quân đội18. Tại Việt Nam
hiện nay, người chuyển giới nữ (nam giới
cho rằng mình mang giới tính nữ) vẫn phải
đi khám nghĩa vụ quân sự nếu có yêu cầu và
vẫn phải thực hiện nghĩa vụ này nếu như đủ
điều kiện (thực tế cho thấy một số trường
hợp người chuyển giới đã và đang tham gia
thực hiện nghĩa vụ này). Bản thân cơ quan
xét tuyển có thể loại người chuyển giới vì
nhiều lý do khác nhau như: trông bề ngoài
ẻo lả, mặc quần áo, trang điểm như nữ giới.
Một số ý kiến cho rằng, Thông tư liên tịch
số 36/2011/TTLT-BYT-BQP của Bộ Y tế,
Bộ Quốc phòng ngày 17/10/2011 hướng dẫn
việc khám sức khỏe thực hiện nghĩa vụ quân
sự đang quy định người chuyển giới là một
bệnh lý nên họ không phải thực hiện nghĩa
vụ quân sự. Thực tế, theo mục số 144, Phụ
lục số 1 của Thông tư liên tịch này thì nếu
một người không có dương vật sẽ được miễn
thực hiện nghĩa vụ quân sự. Có thể khi xây
dựng văn bản này, các nhà soạn thảo chỉ mới
đề cập đến đối tượng liên giới tính (không
có dấu hiệu sinh học rõ là nam hay nữ) để
liệt kê trường hợp miễn nghĩa vụ quân sự.
Tuy nhiên, nếu áp dụng quy định này thì một
người chuyển giới từ nam sang nữ, đã phẫu
thuật, dù pháp luật chưa công nhận thì họ
có quyền từ chối thực hiện nghĩa vụ quân
sự nếu được yêu cầu vì hiện tại họ không
còn dương vật. Câu chuyện quan trọng là
nếu một người chuyển giới từ nữ sang nam,
pháp luật thừa nhận thì họ có phải là một đối
tượng phải thực hiện nghĩa vụ quân sự hay
không? Điều này do các nhà lập pháp quyết
định bởi trên thế giới, không phải nước nào
cũng quy định họ có quyền/phải thực hiện
nghĩa vụ quân sự sau khi thực hiện chuyển
giới hợp pháp.
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
32 Số 14(342) T7/2017
+ Trong lĩnh vực thể thao, trên thế giới
cũng có nhiều quan điểm khác nhau. Một
số quốc gia không cho phép người chuyển
giới thi đấu. Tại Olympic thì người chuyển
giới thi đấu theo giới tính mới, nếu đã phẫu
thuật và đã dùng hóc-môn trong 2 năm. Một
số môn/giải đấu riêng yêu cầu xét nghiệm
nhiễm sắc thể và phải thi đấu theo nhiễm
sắc thể XX/XY (người chuyển giới sau khi
phẫu thuật thì không thay đổi nhiễm sắc
thể). Gần đây, Liên đoàn Bóng đá thế giới
(FIFA) cũng đã bắt đầu cho phép các cầu
thủ chuyển giới thi đấu theo giới tính mới
của mình. Năm 2015, Liên đoàn Bóng đá
Việt Nam (VFF) khẳng định sẽ không cho
những người chuyển giới tham gia giải Vô
địch quốc gia nữ dù FIFA đã từng công nhận
và động viên những cầu thủ chuyển giới19.
Lý do được đưa ra là để đảm bảo tính cạnh
tranh công bằng của giải đấu, đồng thời giúp
bóng đá nữ Việt Nam phát triển.
Thực chất, Luật Thể dục, thể thao năm
2006 và các văn bản hướng dẫn thi hành chỉ
nghiêm cấm hành vi gian lận giới tính trong
thi đấu thể thao, chưa có quy định nghiêm
cấm người đã chuyển giới được thi đấu thể
thao. Có thể khi xây dựng các văn bản này,
các nhà lập pháp chưa biết đến đối tượng
người chuyển giới? Hiện nay, pháp luật Việt
Nam cho phép chuyển giới, thừa nhận quyền
của người chuyển giới thì có thể nghiên cứu,
xem xét vấn đề tham gia thi đấu thể thao của
họ cụ thể hơn (thi đấu theo giới tính mới/
nhiễm sắc thể/giải đấu riêng). Theo chúng
tôi, nếu quy định tiến bộ nhất là cho thi đấu
theo giới tính mới nhưng có lẽ đôi khi gây
ra sự không công bằng (ví dụ chuyển giới
từ nam sang nữ); còn quy định có thể khả
dĩ nhất là thi đấu theo nhiễm sắc thể/có giải
đấu riêng.
+ Trong tương lai xa hơn, có thể mở
19 Xem: VFF “cấm cửa” cầu thủ chuyển giới,
bld, truy cập ngày 30/01/2015.
rộng phạm vi của vấn đề mang thai hộ. Hiện
nay, việc mang thai hộ chỉ được thực hiện ở
mức độ: một người họ hàng, thân thích cùng
hàng có thể tiến hành mang thai hộ cho cặp
vợ chồng đó. Tuy vậy, như đã nêu, người
chuyển giới sau khi phẫu thuật sẽ không còn
khả năng sinh sản. Sau này, pháp luật nên
quy định trước khi họ phẫu thuật họ có thể
gửi tinh trùng/trứng của mình vào ngân hàng
lưu giữ. Sau khi phẫu thuật có thể nhờ người
mang thai hộ (kết hợp trứng/tinh trùng của
mình với tinh trùng/trứng được xin trong
ngân hàng). Như vậy, người chuyển giới có
thể có con đẻ của mình. Việc mở rộng phạm
vi mang thai hộ như vậy sẽ thể hiện tính
nhân văn rất lớn của pháp luật.
- Cần chỉ định một số cơ sở y tế có
thẩm quyền thực hiện các thủ tục y khoa
liên quan đến chuyển đổi giới tính của người
chuyển giới. Các cơ sở y tế này cần có sự
chuẩn bị kỹ lưỡng trong việc tiếp thu, học
hỏi kinh nghiệm của các quốc gia khác, nhất
là về kỹ thuật phẫu thuật (trong đó, chuyển
giới từ nữ sang nam sẽ phức tạp hơn so với
trường hợp chuyển giới từ nam sang nữ).
Các cơ sở y tế này có thể kế thừa từ các cơ
sở y tế đang thực hiện kỹ thuật xác định lại
giới tính cho người liên giới tính hiện nay.
Bên cạnh hai vấn đề nêu trên, cần quan
tâm đến một số vấn đề khác như: Quyền về
con cái và mang thai hộ của cặp đôi LGBT;
Quyền tiếp cận pháp luật, được TGPL; Tích
cực nâng cao kiến thức về quyền con người,
quyền của nhóm đối tượng dễ bị tổn thương,
LGBT; Phương pháp thực hành quyền con
người cho các tầng lớp xã hội; Cần có những
biện pháp tuyên truyền phù hợp đối với mỗi
đối tượng, môi trường khác nhau; Đổi mới
quy trình xây dựng pháp luật, tích cực thúc
đẩy sự tham gia của công chúng vào quá
trình xây dựng, thi hành pháp luật;...
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
33Số 14(342) T7/2017
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trương Hồng Quang (2014), Người đồng tính, song tính, chuyển giới tại Việt Nam với nhu cầu đổi mới
hệ thống pháp luật, Sách chuyên khảo, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
2. Hồng Khánh (2006), Người chuyển đổi giới tính phải được thừa nhận,
su/nguoi-chuyen-doi-gioi-tinh-phai-duoc-thua-nhan-2072247.html, truy cập ngày 27/10/2006.
3. Nguyễn Thị Thu Nam (2012), Hôn nhân cùng giới tốt cho gia đình và xã hội, nguồn:
com.vn/xa-hoi/phap-luat/hon-nhan-dong-gioi-tot-cho-gia-dinh-va-xa-hoi/a78291.html, truy cập ngày
31/10/2012.
4. Tiến Trình, Hồng Cúc, Bị phạt vì tổ chức đám cưới đồng tính, nguồn:
pages/20120528/bi-phat-vi-to-chuc-dam-cuoi-dong-tinh.aspx, truy cập ngày 29/5/2012.
5. Định nghĩa gia đình, truy cập
ngày 10/1/2013.
6.
truy cập ngày 26/4/2015.
7. VFF “cấm cửa” cầu thủ chuyển giới,
gioi-292864.bld, truy cập ngày 30/1/2015.
8. Eric Hobsbawm (Birkbeck College), Terence Ranger (University of Oxford), The Invention of Tradition,
Cambridge University Press, 1992./.
đe dọa lớn nhất đối với pháp nhân là sự mất
mát lợi nhuận.
Thứ năm, giống với nhiều nước,
BLHS năm 2015 quy định biện pháp đình
chỉ hoạt động có thời hạn. Biện pháp này
được hiểu là việc hạn chế hoạt động của
pháp nhân trong một khoảng thời gian nhất
định, thường được áp dụng để xử lý các
hành vi vi phạm nghiêm trọng pháp luật lao
động hoặc pháp luật về môi trường do pháp
nhân thực hiện và gây ra hậu quả. Do biện
pháp đình chỉ hoạt động có thời hạn ít nhiều
có ảnh hưởng đến người lao động làm việc
trong pháp nhân (giảm lương, mất lương,
không có việc làm trong thời gian pháp nhân
bị đình chỉ hoạt động), nên trong quá trình
áp dụng biện pháp này cần phải cân nhắc kỹ
lưỡng và cần tính đến hiệu quả của việc áp
dụng biện pháp này.
Thứ sáu, khác với pháp luật hình sự
nhiều nước, BLHS năm 2015 không quy
định về biện pháp công bố các quyết định
hoặc lệnh công khai là biện pháp trừng
phạt đối với hoạt động tội phạm của pháp
nhân. Thực tiễn của nhiều nước cho thấy,
các biện pháp này cũng có tác dụng răn đe
quan trọng bởi vì các thiệt hại ngẫu nhiên
nếu được công khai sẽ gây tác động tiêu cực
đến hoạt động kinh doanh của pháp nhân.
Tuy nhiên, việc áp dụng biện pháp này có
thể kéo theo những thiệt hại khác như: đóng
cửa cơ sở sản xuất, kinh doanh đình trệ, gây
ảnh hưởng tới người lao động.
Trên cơ sở nghiên cứu, so sánh BLHS
năm 2015 với pháp luật hình sự một số
nước, có thể khẳng định được rằng, xu thế
xác định TNHS của pháp nhân là xu thế tất
yếu và ngày càng được nhiều nước ủng hộ.
Việc nghiên cứu hệ thống hình phạt và các
biện pháp tư pháp cũng giúp để củng cố và
làm rõ nhận định rằng, pháp nhân phạm tội
vẫn có thể bị xử lý hình sự bằng bất kỳ biện
pháp nào, thậm chí cả biện pháp được hiểu
như là tước đi quyền sống, quyền tự do như
đối với cá nhân phạm tội.
Dù mới lần đầu tiên được quy định
trong BLHS năm 2015, chế định TNHS của
pháp nhân, về cơ bản, vẫn đáp ứng và theo
kịp pháp luật hình sự các nước trên thế giới
(Tiếp theo trang 64)
HÌNH PHẠT VÀ CÁC BIỆN PHÁP ...
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
34 Số 14(342) T7/2017
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tiep_can_du_tren_quyen_trong_viec_xay_dung_thi_hanh_phap_lua.pdf