Chất lượng nhân văn. Việc phân tích,
giải thích luật để có căn cứ áp dụng luật
trong việc giải quyết một vấn đề pháp lý có
thể được thực hiện bằng nhiều phương pháp
khoa học. Không loại trừ khả năng việc sử
dụng các phương pháp khác nhau trong việc
phân tích, giải thích cùng một điều luật lại
cho ra kết quả khác nhau. Trong điều kiện
luật quy định không rõ, thiếu sót hoặc mâu
thuẫn, thì giải pháp được thẩm phán xây
dựng cho vấn đề đặt ra phải thoả mãn tiêu
chí kép để có thể được coi là khuôn mẫu:
phù hợp với ý chí của nhà làm luật và hợp
với đạo lý, lẽ công bằng. Cách lập luận là:
nếu người làm luật dự kiến được tình huống
mà thẩm phán đang xử lý ở thời điểm làm
luật, thì hẳn với quan điểm làm luật được thể
hiện trong điều luật, người làm luật sẽ quy
định như thế để đặt cơ sở giải quyết vấn đề
đặt ra trong tình huống. Mặt khác, giải pháp
đề ra phải thể hiện sự đề cao công lý và lẽ
phải.
Án lệ số 3/2016/AL dẫn trên có thể
được coi là đạt yêu cầu về chất lượng nhân
văn: trong điều kiện luật vừa không quy
định rõ, vừa thiếu sót, thì cần áp dụng như
thế nào để tạo điều kiện thuận lợi cho giao
lưu dân sự, bảo đảm thoả mãn lợi ích chính
đáng của các bên và không gây thiệt hại cho
Nhà nước, cho chủ thể khác.
Trái lại, giải pháp tại dự thảo án
lệ theo Quyết định giám đốc thẩm số
363/2014/DS-GĐT ngày 16/9/2014
của Toà Dân sự TANDTC về vụ án dân sự
“tranh chấp quyền sử dụng đất giáp ranh”
không thể được coi là đạt chất lượng nhân
văn. Anh E lấn ranh đất của bà B và bà B
sau đó lấn ranh đất của bà C. Bà C kiện bà
B đòi lại phần đất bị lấn chiếm. Toà án cho
rằng, người lấn chiếm đất nếu chưa xây
dựng nhà kiên cố thì phải trả lại phần đất đã
lấn chiếm; đối với phần đất lấn chiếm đã xây
dựng nhà kiên cố không thể tháo dỡ thì phải
trả lại bằng giá trị theo giá thị trường tại thời
điểm xét xử sơ thẩm. Giải pháp này trước
hết không đạt chất lượng kỹ thuật vì không
dựa vào một điều luật nào mà chỉ nói suông,
theo cảm tính của thẩm phán. Giải pháp
cũng không đạt chất lượng nhân văn, bởi nó
có tác dụng bao che cho người có hành vi
xâm phạm tài sản của ngưởi khác. Giải pháp
tạo tiền lệ xấu và có nguy cơ dẫn đến hệ quả
đặc biệt nghiêm trọng một khi được áp dụng
theo kiểu dây chuyền trong trường hợp đất
phân lô, tạo ra hiệu ứng domino có thể khiến
một nạn nhân nào đó trong dây chuyền lấn
ranh đất có thể không còn đủ đất để sử dụng,
do phải chấp nhận hậu quả tích hợp của các
vụ lấn ranh trước đó
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 20/01/2022 | Lượt xem: 205 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiêu chí nhận dạng và đề xuất xây dựng án lệ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tóm tắt:
Án lệ được hiểu là cách giải quyết của toà án đối với vấn đề pháp lý
đặt ra trong khuôn một vụ án áp dụng được trong các trường hợp tương
tự. Ở các nước theo luật thành văn, cách giải quyết ấy trước hết là kết
quả phân tích, giải thích một hoặc nhiều quy định của pháp luật. Ở các
nước theo thông luật, đó là kết quả sự tích hợp nhận thức của thẩm phán
đối với các chuẩn mực khách quan chi phối quan hệ tranh chấp được
xem xét. Dù được hình thành trong hệ thống nào, thì để được coi là án
lệ, cách giải quyết ấy phải thoả mãn một loạt điều kiện, bao gồm tính
phức tạp và tính tiêu biểu của vấn đề, cũng như tính có chất lượng của
giải pháp đề ra.
Nguyễn Ngọc Điện*
Abstract:
Case law is the set of solutions of legal issues raised within the
framework of a lawsuit and that might be cited to be applied in
similar cases. In the jurisdictions of civil law, these solutions are
acknowledged as a result of analysis and interpretation of of law
rules. In the jurisdictions of Common Law, they are known as a result
of judge’s accumulative perception of objective norms governing
the litigious relationship. Whatever is the legal system in which it is
formed, to be recognized as a part of case law, the solution of a legal
issue must meet a set of requirements, including those related to the
complexity and the typical character of the legal issue as well as the
quality of its solution.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: án lệ, tiền lệ, giải thích luật,
trường hợp tương tự,
Lịch sử bài viết:
Nhận bài: 22/09/2017
Biên tập: 02/10/2017
Duyệt bài: 09/10/2017
Article Infomation:
Keywords: case law, precedent,
interpretation of law, similar case
Article History:
Received: 22 Sep. 2017
Edited: 02 Oct. 2017
Appproved: 09 Oct. 2017
* PGS, TS, Trường Đại học Kinh tế - Luật, Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh
TIÊU CHÍ NHẬN DẠNG VÀ ĐỀ XUẤT XÂY DỰNG ÁN LỆ
1. Khái niệm và tính chất của án lệ
Ở các nước tiên tiến, án lệ được coi là
một loại chuẩn mực đặc thù hình thành từ sự
lặp đi lặp lại một giải pháp cho một vấn đề
1 Tham khảo: G. Cornu, Droit civil – Introduction.Les personnes, Les biens, Montchrestien, Paris 1990, tr. 145 và kế tiếp.
Đặc biệt đáng chú ý là định nghĩa án lệ do tác giả đưa ra: “la jurisprudence se définit comme l’habitude prise par les
tribunaux d’appliquer une règle de droit d’une certaine façon” (Án lệ là thói quen của các toà án áp dụng quy tắc pháp
lý theo một cách nào đó).
giống nhau được đặt ra trong nhiều bản án
khác nhau. Sự lặp đi lặp lại ấy thể hiện sự
trùng hợp trong suy nghĩ của các quan toà
về cách hiểu và áp dụng luật trong những
trường hợp tương tự1.
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
8 Số 20(348) T10/2017
Các nước theo luật thành văn, như
Pháp, không coi án lệ là luật, mà chỉ là cách
áp dụng luật của thẩm phán và có thể được
các thẩm phán khác tham khảo khi xét xử vụ
án có nội dung, tính chất, tình tiết tương tự2.
Tư tưởng chủ đạo là: thẩm phán nói luật chứ
không tạo ra luật. Trong điều kiện luật có
thể được nói theo nhiều cách, thì cách thẩm
phán nói luật trở nên đáng chú ý, hay đúng
hơn là có ý nghĩa định hướng mạnh mẽ đối
với xã hội. Ở những nước này, người dân có
xu hướng dựa vào án lệ để chấn chỉnh hành
vi của mình trong giao tiếp, nhằm tránh rơi
vào thế bất lợi trong trường hợp có tranh
chấp. Nhưng án lệ không phải là luật và
không được đảm bảo thực hiện bằng pháp
luật. Thẩm phán cũng không bị buộc phải
xử theo một tiền lệ nào đó, dù tiền lệ đó đã
được nhất trí chấp nhận trong giới quan toà.
Ở các nước theo thông luật (common
law), các chuẩn mực chi phối hành vi của
con người trong quan hệ xã hội hình thành
từ các nguồn đa dạng. Trong trường hợp có
tranh chấp, xung đột, thẩm phán dựa vào các
chuẩn mực ấy để xét xử. Giải pháp của thẩm
phán đối với vấn đề pháp lý, đến lượt mình,
tạo thành một chuẩn mực riêng biệt. Chuẩn
mực đó trở thành một tiền lệ (precedent) mà
bất kỳ ai cũng có thể viện dẫn để đòi hỏi
thẩm phán cùng cấp hoặc cấp dưới phải xử
vụ việc tương tự theo cùng một cách. Quyền
viện dẫn án lệ được cho là xuất phát từ Lẽ
công bằng (Equity) ràng buộc người cầm
cân nảy mực theo quy tắc “tiền lệ phải được
tôn trọng” - stare decisis: một người đã được
hưởng cách xét xử như thế, thì không lý do
gì người khác không được hưởng cùng một
cách xét xử trong trường hợp tương tự.
Ở Việt Nam, án lệ đã được định nghĩa
2 Tham khảo G. Cornu, sđd, tr. 166; F. Terré, Introduction à l’étude du droit, Dalloz, Paris, 1994, tr. 200 và kế tiếp.
chính thức trong văn bản quy phạm pháp luật.
Điều 1 Nghị quyết số 03/2015/NQ-HĐTP
ngày 28/10/2015 của Hội đồng Thẩm phán
Toà án nhân dân tối cao - TANDTC (Nghị
quyết số 03) quy định: “Án lệ là những lập
luận, phán quyết trong bản án, quyết định
đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án về một
vụ việc cụ thể được Hội đồng Thẩm phán
TANDTC lựa chọn và được Chánh án
TANDTC công bố là án lệ để các Toà án
nghiên cứu, áp dụng trong xét xử”.
Như vậy, cũng như ở các nước, ở
Việt Nam, án lệ được hình thành từ cách
xét xử của Toà án. Nhưng, khác với án lệ
các nước, án lệ ở Việt Nam ra đời theo một
quy trình chặt chẽ (và phức tạp) với vai trò
trung tâm chủ động của Hội đồng thẩm phán
TANDTC. Sự xác nhận của cơ quan này là
điều kiện cần thiết để một cách xét xử nào đó
trở thành án lệ. Nói cách khác, ở Việt Nam,
án lệ phải được chính thức hoá theo một thủ
tục chặt chẽ và có tính ràng buộc đối với
thẩm phán khác. Điều 8 khoản 2 Nghị quyết
03 khẳng định: “Khi xét xử, Thẩm phán, Hội
thẩm phải nghiên cứu, áp dụng án lệ để giải
quyết các vụ việc tương tự, bảo đảm những
vụ việc có tình tiết, sự kiện pháp lý giống
nhau phải được giải quyết như nhau”.
2. Tiêu chí nhận dạng án lệ
Điều 2 Nghị quyết 03 quy định án lệ
được lựa chọn phải đáp ứng được các tiêu
chí sau đây:
1. Chứa đựng lập luận để làm rõ quy
định của pháp luật còn có cách hiểu khác
nhau; phân tích, giải thích các vấn đề, sự
kiện pháp lý và chỉ ra nguyên tắc, đường lối
xử lý, quy phạm pháp luật cần áp dụng trong
một vụ việc cụ thể;
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
9Số 20(348) T10/2017
2. Có tính chuẩn mực;
3. Có giá trị hướng dẫn áp dụng thống
nhất pháp luật trong xét xử, bảo đảm những
vụ việc có tình tiết, sự kiện pháp lý như nhau
thì phải được giải quyết như nhau.
Dù có ít nhiều khác biệt trong quan
niệm về cách hình thành, Việt Nam và các
nước đều thừa nhận rằng án lệ có nguồn gốc
từ thực tiễn xét xử. Cụ thể, thẩm phán được
giao thụ lý một vụ việc nào đó và có trách
nhiệm ra quyết định xử lý. Nếu quyết định
ấy chỉ là kết quả áp dụng luật theo phương
pháp tam đoạn luận của logic sơ cấp, thì
không có gì đáng chú ý, bởi bất kỳ ai cũng
có thể đạt được kết quả áp dụng luật ấy một
cách dễ dàng. Khó khăn chỉ nảy sinh trong
trường hợp tình huống của vụ việc phức tạp
khiến cho việc áp dụng luật đòi hỏi những
lập luận chặt chẽ, tinh vi và nhất là có tính
thuyết phục. Từ đó, vai trò của thẩm phán
trở nên quan trọng,.
Cần nhấn mạnh rằng, trong một hệ
thống tư pháp lành mạnh, người thẩm phán
luôn được độc lập, kể cả đối với thẩm phán
toà án cấp trên, trong quá trình cân nhắc để
đi đến quyết định lựa chọn cách hiểu, cách
áp dụng pháp luật mà bản thân mình cho
đúng đắn. Sự giống nhau về nội dung của
các quyết định thường là do các thẩm phán
sử dụng các công cụ, phương pháp phân tích
như nhau trong quá trình tiếp cận tìm hiểu
luật viết, nhờ đó thu được cùng một kết quả.
Là cách giải quyết được nhiều thẩm
phán lựa chọn đối với cùng một vấn đề pháp
lý, theo thời gian, án lệ được nhận ra như
một xu hướng giải thích luật của cơ quan xét
xử. Các quan toà đi theo xu hướng đó trong
3 Nếu việc xét xử chỉ đơn giản là việc áp dụng theo đúng câu chữ của một điều luật được diễn đạt rõ ràng, minh thị, thì
công việc của thẩm phán là thuần tuý cơ học, không có ý nghĩa sáng tạo: F. Terré, Introduction à l’étude du droit, Dalloz,
Paris, 1994, tr. 201.
quá trình xem xét giải quyết một vụ việc,
cũng giống như người dân tuân theo một tục
lệ khi tham gia vào một giao ước trong cuộc
sống dân sự.
Tóm lại, có thể ghi nhận rằng, một án
lệ cần hội đủ các tiêu chí sau đây: giải pháp
có tác dụng giải quyết một vụ việc phức tạp
trong điều kiện không thể có được điều luật
cần thiết được áp dụng một cách trực tiếp;
giải pháp có thể được áp dụng nhiều lần do
có nhiều trường hợp tương tự được ghi nhận
trong thực tiễn; giải pháp có chất lượng và
có tính thuyết phục cao.
2.1 Tính phức tạp
Tính phức tạp của tình huống. Tình
huống được gọi phức tạp về phương diện
xây dựng án lệ không hẳn do tính phức tạp
của việc áp dụng kết hợp nhiều điều luật. Về
mặt lý thuyết, thẩm phán phải được rèn luyện
trong quá trình đào tạo chuyên môn, về kỹ
năng phân tích luật, đặc biệt là kỹ năng sử
dụng các phương pháp phân tích của logic.
Nếu đối với một vấn đề mà việc giải quyết
cần áp dụng nhiều điều luật, nhưng phương
pháp áp dụng luật cũng như tính hợp lý của
giải pháp là rõ ràng, không thể tranh cãi, thì
không có án lệ3.
Sự phức tạp của tình huống pháp lý
dẫn đến việc xây dựng án lệ trước hết là do
sự lệch pha giữa luật và thực tiễn: luật quy
định một đàng trong khi thực tiễn lại diễn ra
một nẻo, khiến cho việc áp dụng luật để giải
quyết vấn đề thực tiễn đặc thù trở nên khó
khăn. Ở góc nhìn thực tiễn trong trường hợp
đặc thù, có thể luật quy định không rõ ràng;
cũng có thể luật thiếu hẳn quy định cần thiết.
Cũng có trường hợp luật có quy định, nhưng
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
10 Số 20(348) T10/2017
việc áp dụng quy định của luật một cách
máy móc khiến giải pháp thiếu tính thuyết
phục, không được sự đồng thuận của xã hội.
Thậm chí có trường hợp luật quy định mâu
thuẫn, khiến thẩm phán gặp khó khăn trong
việc lựa chọn quy phạm áp dụng.
Tình huống trong án lệ số 03/2016/AL
có thể được coi là tiêu biểu về tính phức tạp4.
Anh N và chị H kết hôn năm 1992 và ly hôn
năm 2009; năm 1993, vợ chồng được cha
mẹ chồng tặng cho quyền sử dụng một thửa
đất. Việc tặng cho không được công chứng,
chứng thực, nhưng bên được tặng cho đã
hoàn tất thủ tục đăng ký và được cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất. Khi ly hôn,
các bên tranh chấp đòi được chia quyền sử
dụng đối với phần đất này.
Khi tiếp nhận vụ tranh chấp như thế
này, toà án phải đặt ra và giải quyết 2 vấn đề:
1, Bên tranh chấp có hay không có quyền sở
hữu đối với tài sản chia (bởi đơn giản, người
ta chỉ có quyền yêu cầu chia những gì mình
có quyền đòi chia, chứ không thể yêu cầu
chia tài sản của người khác)? và 2, Phải chia
như thế nào cho đúng?
Đối với vấn đề thứ nhất, trong điều
kiện không có ai tranh chấp về quyền sở hữu
đối với tài sản, thì toà án không cần và cũng
không có quyền truy vấn cặn kẽ về tư cách
chủ sở hữu của đương sự. Nhưng vụ tranh
chấp được xác định là phức tạp do luật có
hiệu lực ở thời điểm tranh chấp coi chiếm
hữu là một phần nội dung quyền sở hữu, chứ
không phải là một quan hệ thực tế, độc lập
với quyền sở hữu; bởi vậy, cần thẩm tra tư
cách chủ sở hữu của bên yêu cầu chia trước
khi giải quyết vấn đề chia như thế nào. Tuy
nhiên, luật lại không quy định rõ việc thẩm
4 Quyết định giám đốc thẩm số 208/2013/DS-GĐT ngày 03/5/2013 của Hội đổng Thẩm phán TANDTC, được công nhận
là án lệ theo Quyết định số 220/QĐ-CA ngày 06/4/2016 của Chánh án TANDTC.
tra dựa vào những tiêu chí nào, loại bằng
chứng nào. Trong khi đó, có một quy định
của luật theo đó, việc tặng cho quyền sử
dụng đất phải được công chứng hoặc chứng
thực; bên đương sự không thoả mãn điều
kiện này. Hậu quả là tư cách chủ sở hữu đối
với tài sản mà họ yêu cầu chia trở nên mập
mờ, đặc biệt là đối với toà án.
2.2 Tính tiêu biểu
Có nhiều trường hợp tương tự. Được
gọi là tiêu biểu một khi quyết định được đưa
ra để giải quyết một trường hợp mà người
ta có thể ghi nhận nhiều lần trong thực tiễn.
Việc xử lý trường hợp tạo ra một tiền lệ
và việc xử lý đúng đấn, thuyết phục tạo ra
khuôn mẫu để các thẩm phán tham khảo một
cách nghiêm túc mỗi khi thụ lý một vụ có
tình tiết cơ bản tương tự.
Án lệ số 03/2016/AL dẫn trên có tính
tiêu biểu, bởi rất nhiều những tình huống
tương tự, đặc biệt trong thực tiễn giao dịch
tại các vùng nông thôn: các bên chuyển dịch
quyền sử dụng đất mà không tuân theo xác
lập quyền đối với tài sản không theo các
quy định của luật về hình thức cũng như về
nội dung; nhưng bên nhận chuyển giao tiếp
nhận tài sản trên thực tế và sử dụng tài sản
trong những điều kiện bình thường, không
bị quấy nhiễu, tranh chấp.
Trái lại, trường hợp được ghi nhận tại
một dự thảo án lệ từ Quyết định Giám đốc
thẩm số 39/2006/DS-GĐT ngày 06/11/2006
của Hội đồng Thẩm phán TANDTC khó có
thể được coi là tiêu biểu để xây dựng án lệ.
Cụ K lập di chúc để tài sản lại cho ông Đ với
điều kiện nuôi dưỡng bà H (con riêng của cụ
K) cho đến suốt đời. Sau khi thừa kế được
mở, ông Đ tiếp nhận di sản theo di chúc và
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
11Số 20(348) T10/2017
thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng đối với bà H.
Tuy nhiên, bà H. yêu cầu nuôi dưỡng vượt
quá khả năng đáp ứng của ông Đ, từ đó, hai
bên xảy ra mâu thuẫn. Bà H yêu cầu không
công nhận cho ông Đ được hưởng di sản
theo di chúc và chia di sản theo pháp luật.
Tất nhiên, cũng như trong các trường hợp
luật chỉ quy định điều kiện áp dụng định tính
mà không có điều kiện áp dụng định lượng,
thẩm phán cần cân nhắc điều kiện áp dụng
định lượng tuỳ trường hợp. Trong vụ án nêu
trên, Toà án phải giải quyết vấn đề ông Đ
phải nuôi dưỡng bà H như thế nào mới gọi là
đáp ứng đòi hỏi của người lập di chúc. Tuy
nhiên, vấn đề đặt ra có vẻ quá đặc thù, ít khả
năng xuất hiện trở lại trong thực tiễn.
2.3 Tính có chất lượng của giải pháp
Một giải pháp đối với vấn đề pháp lý
do các thẩm phán đề ra sẽ được các thẩm
phán khác chú ý nghiên cứu theo hướng tiếp
thu kinh nghiệm một các tích cực để vận
dụng, một khi giải pháp đạt chất lượng theo
một tiêu chí kép: kỹ thuật và nhân văn.
Chất lượng kỹ thuật. Chất lượng kỹ
thuật của giải pháp thể hiện trước hết trong
việc lựa chọn điều luật và lựa chọn phương
pháp phân tích luật. Áp dụng pháp luật để
xét xử là quá trình hoạt động trí tuệ của thẩm
phán; việc lựa chọn điều luật phù hợp cũng
như lựa chọn phương pháp phân tích luật
đúng đắn cho phép thu được giải pháp vừa
hợp lý, vừa hợp với mục tiêu áp dụng pháp
luật mà người làm luật mong muốn là đòi
hỏi mà nhà chức trách, xã hội đặt ra đối với
hoạt động trí tuệ ấy.
Án lệ số 03/2016/AL nêu trên có thể
được thừa nhận là giải pháp đạt chất lượng
5 Xem G. Cornu, sđd, tr. 134; F. Terré, sđd, tr. 398.
6 Quyết định giám đốc thẩm số 27/2010/DS-GĐT ngày 08/7/2010 của Hội đổng Thẩm phán TANDTC, được công nhận
là án lệ theo Quyết định số 220/QĐ-CA ngày 06/4/2016 của Chánh án TANDTC.
kỹ thuật. Để trả lời câu hỏi liệu đương sự có
tư cách để yêu cầu chia tài sản, toà án đánh
giá minh chứng (giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất) sau đó là căn cứ để cấp gíấy
này (giao dịch tặng cho). Để đánh giá tính
hợp pháp của căn cứ cấp giấy, toà án dựa
vào một quy định của BLDS năm 1995 về
điều kiện có giá trị của giao dịch tặng cho
quyền sử dụng đất (Điều 463). Quy định của
luật theo đó việc tặng cho quyền sử dụng
đất phải được công chứng hoặc chứng thực
mới có giá trị đã không được tôn trọng. Về
mặt lý thuyết, giao dịch trong trường hợp cụ
thể của án lệ phải bị vô hiệu. Tuy nhiên, toà
án xét thấy các bên đều tự nguyện, có đầy
đủ năng lực và đã xác lập giao dịch với đầy
đủ ý thức về việc mình làm; hơn nữa, việc
đặt ra các điều kiện về công chứng, chứng
thực giao dịch cũng nhằm đạt mục tiêu ấy
- bảo đảm sự tự nguyện của bên giao dịch
và ngăn ngừa tranh chấp. Một khi các mục
tiêu ấy đã đạt được mà không cần áp dụng
luật thì việc áp dụng luật cũng bị loại trừ.
Đó cũng là cách áp dụng luật theo nguyên
tắc “luật ngừng lại ở nơi ngừng lại của lý lẽ”
- cessante ratione legis cessat ejus dispositio
- được thừa nhận rộng rãi trong học thuyết
pháp lý của các nước phương Tây5.
Trái lại, án lệ số 02/2016/AL là một ví
dụ về giải pháp pháp lý không đạt chất lượng
kỹ thuật6. Bà Th (Việt kiều Hà Lan) nhờ
ông T (em ruột) đứng tên để nhận chuyển
nhượng quyền sử dụng một miếng đất. Sau
đó ông T chuyển nhượng quyền sử dụng
đất cho công ty MC với giá 1.260.000.000
đồng. Bà Th kiện ông T đòi lại số tiền này.
Toà án quyết định chia đôi số tiền giữa ông
T và bà Th với lý do ông T có công đầu tư
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
12 Số 20(348) T10/2017
làm tăng giá trị sử dụng đất. Lập luận của
Toà án như sau: giao dịch giữa ông T (người
đứng tên) và người chuyển nhượng quyền
sử dụng đất cho bà Th (gọi là người chuyển
nhượng) là vô hiệu do giả tạo (theo Điều 129
BLDS năm 2005); giao dịch giữa bà Th và
người chuyển nhượng cũng vô hiệu do vi
phạm điều cấm của pháp luật (theo Điều 128
BLDS). Và một khi giao dịch vô hiệu thì các
bên phải trả lại cho nhau những gì đã nhận
bằng hiện vật hoặc bằng tiền (theo Điều 137
BLDS). Nhưng đã lập luận như thế, thì ông
T phải trả lại số tiền (tương ứng với giá trị
quyền sử dụng đất theo tình trạng lúc chuyển
nhượng) cho người chuyển nhượng, rồi
người chuyển nhượng trả số tiền đó lại cho
bà Th. Nếu gọi người chuyển nhượng ra toà
với tư cách người có quyền và nghĩa vụ liên
quan, thì toà án có điều kiện thẩm định tình
trạng của tài sản lúc chuyển nhượng, từ đó
có điều kiện thẩm định công sức đầu tư của
ông T. Toà án dẫn điều luật phù hợp, nhưng
phân tích luật thiếu cơ sở khoa học, từ đó đã
đưa ra giải pháp chia đôi thiếu thuyết phục.
Chất lượng nhân văn. Việc phân tích,
giải thích luật để có căn cứ áp dụng luật
trong việc giải quyết một vấn đề pháp lý có
thể được thực hiện bằng nhiều phương pháp
khoa học. Không loại trừ khả năng việc sử
dụng các phương pháp khác nhau trong việc
phân tích, giải thích cùng một điều luật lại
cho ra kết quả khác nhau. Trong điều kiện
luật quy định không rõ, thiếu sót hoặc mâu
thuẫn, thì giải pháp được thẩm phán xây
dựng cho vấn đề đặt ra phải thoả mãn tiêu
chí kép để có thể được coi là khuôn mẫu:
phù hợp với ý chí của nhà làm luật và hợp
với đạo lý, lẽ công bằng. Cách lập luận là:
nếu người làm luật dự kiến được tình huống
mà thẩm phán đang xử lý ở thời điểm làm
luật, thì hẳn với quan điểm làm luật được thể
hiện trong điều luật, người làm luật sẽ quy
định như thế để đặt cơ sở giải quyết vấn đề
đặt ra trong tình huống. Mặt khác, giải pháp
đề ra phải thể hiện sự đề cao công lý và lẽ
phải.
Án lệ số 3/2016/AL dẫn trên có thể
được coi là đạt yêu cầu về chất lượng nhân
văn: trong điều kiện luật vừa không quy
định rõ, vừa thiếu sót, thì cần áp dụng như
thế nào để tạo điều kiện thuận lợi cho giao
lưu dân sự, bảo đảm thoả mãn lợi ích chính
đáng của các bên và không gây thiệt hại cho
Nhà nước, cho chủ thể khác.
Trái lại, giải pháp tại dự thảo án
lệ theo Quyết định giám đốc thẩm số
363/2014/DS-GĐT ngày 16/9/2014
của Toà Dân sự TANDTC về vụ án dân sự
“tranh chấp quyền sử dụng đất giáp ranh”
không thể được coi là đạt chất lượng nhân
văn. Anh E lấn ranh đất của bà B và bà B
sau đó lấn ranh đất của bà C. Bà C kiện bà
B đòi lại phần đất bị lấn chiếm. Toà án cho
rằng, người lấn chiếm đất nếu chưa xây
dựng nhà kiên cố thì phải trả lại phần đất đã
lấn chiếm; đối với phần đất lấn chiếm đã xây
dựng nhà kiên cố không thể tháo dỡ thì phải
trả lại bằng giá trị theo giá thị trường tại thời
điểm xét xử sơ thẩm. Giải pháp này trước
hết không đạt chất lượng kỹ thuật vì không
dựa vào một điều luật nào mà chỉ nói suông,
theo cảm tính của thẩm phán. Giải pháp
cũng không đạt chất lượng nhân văn, bởi nó
có tác dụng bao che cho người có hành vi
xâm phạm tài sản của ngưởi khác. Giải pháp
tạo tiền lệ xấu và có nguy cơ dẫn đến hệ quả
đặc biệt nghiêm trọng một khi được áp dụng
theo kiểu dây chuyền trong trường hợp đất
phân lô, tạo ra hiệu ứng domino có thể khiến
một nạn nhân nào đó trong dây chuyền lấn
ranh đất có thể không còn đủ đất để sử dụng,
do phải chấp nhận hậu quả tích hợp của các
vụ lấn ranh trước đó
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
13Số 20(348) T10/2017
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tieu_chi_nhan_dang_va_de_xuat_xay_dung_an_le.pdf