Tiểu luận Bản chất, ưu nhược điểm của các phương thức giải quyết tranh chấp thương mại

A. ĐẶT VẤN ĐỀ: Tranh chấp thương mại là một hiện tượng khá phổ biến xảy ra trong nền kinh tế, nó làm chậm quá trình lưu thông hàng hóa, quá trình thanh toán,vv tác động xấu đến sự phát triển của nền kinh tế chính vì vậy vấn đề đặt ra là cần có các phương thức giải quyết tranh chấp thương mại một cách hiệu quả và được pháp luật công nhận. Pháp luật Việt Nam mà cụ thể là Luật thương mại năm 2005 đã ghi nhận sự tồn tại của bốn phương thức giải quyết tranh chấp thương mại đó là: thương lượng, hòa giải, trọng tài thương mại và tòa án. Dưới đây là bản chất, ưu điểm và nhược điểm của từng phương thức A. ĐẶT VẤN ĐỀ B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ: I. MỘT SỐ KHÁI NIỆM: 1. Khái niệm tranh chấp thương mại 2. Phương thức giải quyết tranh chấp thương mại II. PHƯƠNG THỨC THƯƠNG LƯỢNG 1.Bản chất của phương thức thương lượng 2. Ưu điểm của phương pháp thương lượng 3.Nhược điểm của phương pháp thương lượng III. PHƯƠNG THỨC HÒA GIẢI 2. Phân tích bản chất của phương pháp hòa giải 2. Ưu điểm của phương thức hòa giải 3.Nhược điểm của phương thức hòa giải IV. PHƯƠNG THỨC TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI 1.Bản chất của phương thức trọng tài thương mại 2. Các ưu điểm của phương thức trọng tài thương mại 3. Nhược điểm của phương thức trọng tài thương mại V. PHƯƠNG THỨC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP THƯƠNG MẠI THÔNG QUA TÒA ÁN 1. Bản chất của phương thức giải quyết tranh chấp thương mại thông qua tòa án 2. Ưu điểm của phương thức tòa án 3. Hạn chế của phương thức tòa án KẾT LUẬN

doc14 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 6653 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Bản chất, ưu nhược điểm của các phương thức giải quyết tranh chấp thương mại, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
A. ĐẶT VẤN ĐỀ:           Tranh chấp thương mại là một hiện tượng khá phổ biến xảy ra trong nền kinh tế, nó làm chậm quá trình lưu thông hàng hóa, quá trình thanh toán,vv…tác động xấu đến sự phát triển của nền kinh tế chính vì vậy vấn đề đặt ra là cần có các phương thức giải quyết tranh chấp thương mại một cách hiệu quả và được pháp luật công nhận. Pháp luật Việt Nam mà cụ thể là Luật thương mại năm 2005 đã ghi nhận sự tồn tại của bốn phương thức giải quyết tranh chấp thương mại đó là: thương lượng, hòa giải, trọng tài thương mại và tòa án. Dưới đây là bản chất, ưu điểm và nhược điểm của từng phương thức. B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ:          I. MỘT SỐ KHÁI NIỆM:           1. Khái niệm tranh chấp thương mại:           Tranh chấp thương mại là những mâu thuẫn( bất đồng hay xung đột) về quyền và nghĩa vụ giữa các bên trong quá trình thực hiện các hoạt động thương mại. Các tranh chấp thương mại chủ yếu phát sinh giữa các thương nhân.           2. Phương thức giải quyết tranh chấp thương mại:           Giải quyết tranh chấp thương mại là việc các bên tranh chấp thông qua hình thức, thủ tục thích hợp tiến hành các giải pháp nhằm loại bỏ những mâu thuẫn, xung đột, bất đồng về lợi ích trong hoạt động thương mại nhằm bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của mình. Trên thế giới cũng như ở Việt Nam , tồn tại bốn phương thức giải quyết trah chấp thương mại phổ biến bao gồm thương lượng, hòa giải, trọng tài thương mại và tòa án. II. PHƯƠNG THỨC THƯƠNG LƯỢNG: Thương lượng là phương thức giải quyết tranh chấp thông qua việc các bên tranh chấp cùng nhau bàn bạc, tự dàn xếp, tháo gỡ những bất đồng phát sinh để loại bỏ tranh chấp mà không cần có sự trợ giúp hay phán quyết của bất kì bên thứ ba nào. Với những ưu điểm như đơn giản, ít tốn kém, không bị ràng buộc bởi các thủ tục pháp lý, bảo đảm được uy tín cũng như bí mật kinh doanh…thương lượng là phương pháp giải quyết tranh chấp xuất hiện sớm nhất, thông dụng và phổ biến nhất đươc các bên tranh chấp áp dụng rộng rãi để giải quyết mọi tranh chấp phát sinh trong hoạt động thương mại. 1.Bản chất của phương thức thương lượng: Bản chất của phương thức thương lượng trong giải quyết tranh chấp thương mại được thể hiện qua các đặc trưng cơ bản sau: Thứ nhất là phương thức giải quyết tranh chấp này được thực hiện bởi cơ chế tự giải quyết thông qua việc các bên tranh chấp gặp nhau bàn bạc, thỏa thuận để tự giải quyết những bất đồng phát sinh mà không cần có sự hiện diện của bên thứ ba để trợ giúp hay phán quyết. Thứ hai là quá trình thương lượng giữa các bên cũng không chịu sự ràng buộc của bất kì nguyên tắc pháp lí hay những quy định mang tính khuôn mẫu nào của pháp luật về thủ tục giải quyết tranh chấp. Pháp luật của Việt Nam mới chỉ dừng lại ở việc ghi nhận thương lượng là một phương thức giải quyết tranh chấp thương mại mà không có bất kì quy định nào chi phối đến cơ chế giải quyết trạnh chấp thương mại bằng thương lượng. Thứ ba là việc thực thi kết quả thương lượng hoàn toàn phụ thuộc vào sự tự nguyện của mỗi bên tranh chấp mà không có bất kì cơ chế pháp lí nào đảm bảo việc thực thi đối với thỏa thuận của các bên trong quá trình thương lượng. -Quá trình thương lượng để giải quyết tranh chấp thương mại có thể được thực hiện bằng nhiều cách thức: thương lượng trực tiếp, thương lượng gián tiếp và kết hợp thương lượn trực tiếp với thương lượng gián tiếp. +Thương lượng trực tiếp là cách thức mà các bên tranh chấp trực tiếp gặp nhau bàn bạc, trao đổi và đề xuất ý kiến của mỗi bên nhằm tìm kiếm giải pháp loại trừ tranh chấp. +Thương lượng gián tiếp là cách thức các bên tranh chấp gửi cho nhau tài liệu giao dịch thể hiện quan điểm và yêu cầu của mình nhằm tìm kiếm giải pháp loại trừ tranh chấp. Ưu điểm của phương pháp thương lượng trực tiếp so với thương lượng gián tiếp là thông qua những cuộc đàm phán , tiếp xúc trực tiếp,các bên nhanh chóng hiểu biết được quan điểm, thái độ, hợp tác và thiện chí của mỗi bên và có sự điều chỉnh thích hopự để ý chí của các bên sớm được gặp nhau nhằm tiến tới một giải pháp chung nhất có thể lựa chọn để giải quyết vụ tranh chấp. Tuy nhiên, thương lượng trực tiếp có thể gặp những trở ngại nhất định so với thương lượng gián tiếp như: nếu các bên ở xa nhau thì việc đi lại gặp nhiều khó khăn, chi phí cho việc ăn ở, đi lại cao, nhất là khi một bên thiếu sự hợp tác và tính thiện chí không cao trong quá trình đàm phán. Ngoài ra, sự thành công của thương lượng trực tiếp còn phụ thuôc vào thái độ và kĩ năng đàm phán của đại diện mỗi bên. Kết quả thương lượng sẽ không thành công nếu một bên đàm phán không biết lắng nghe, không có sự kiên trì, bình tĩnh, mềm dẻo cũng như không có khả năng thuyết phục đối tác. Tuy nhiên, các trở ngại trên lại có thể được khắc phục, bổ trợ bằng thương lượng gián tiếp.  Quan điểm, thái độ và ý chí của mỗi bên thể hiện qua ngôn từ đã được trau chuốt, gọt giũa bởi văn phong viết trong đàm phán gián tiếp nên tính chặt chẽ, thuyết phục thường cao hơn, ít gây ức chế về mặt tâm lý. Tuy nhiên, hạn chế của phương pháp này là dễ bị kéo dài, bế tắc khi các bên tranh chấp chưa có sự hiểu biết nhất didnhj về nhau, quan điểm, thái độ, ý chí còn nhiều khác biệt. Bởi vậy các bên cần có sự vận dụng linh hoạt hoặc kết hợp cả hai phương thức này để tăng sự hiệu quả cũng như khả năng thành công của thương lượng 2. Ưu điểm của phương pháp thương lượng: Ưu điểm nổi bật nhất chính là sự thuận tiện, đơn giản, nhanh chóng, tính linh hoạt, hiệu quả và ít tốn kém. Măt khác thương lượng còn bảo vệ được uy tín cho các bên tranh chấp cũng như bí mật kinh doanh của các nhà kinh doanh. Các nhà kinh doanh hơn ai hết tự biết bảo vệ quyền lợi của bản thân mình, hiểu rõ những bất đồng và nguyên nhân phát sinh tranh chấp nên quá trình đàm phán thương lượng để hiểu và thông cảm với nhau hơn để có thể thỏa thuận được các giải pháp tối ưu theo đúng nguyện vọng của mỗi bên mà không phải một cơ quan tài phán nào cũng có thể làm được. Bởi vậy, một khi thương lượng thành công, các bên vừa loại bỏ được những bất đồng đã phát sinh mà mức độ phương hại đến mối quan hệ kinh doanh giữa các bên cũng thấp, tăng cường sự hiểu biết và hợp tác trong tương lai. 3.Nhược điểm của phương pháp thương lượng: Sự thành công của thương lượng phụ thuộc rất lớn vào sự hiểu biết và thái độ thiện chí, hợp tác của các bên tranh chấp. Nếu không kết quả giải quyết tranh chấp thường rất mong manh và có thể rơi vào bế tắc. Ngoài ra, kết quả thương lượng lại không được đảm bảo bằng cơ chế pháp lí mang tính bắt buộc. Do vậy, dù các ên có đạt được thỏa thuận để giải quyết vụ tranh chấp thì việc thực thi kết quả thương lượng cũng phụ thuộc rất nhiều vào sự tự nguyện của bên phải thi hành. Nếu một bên không tự nguyện thi hành thì kết quả thương lượng cũng chỉ tồn tại trên giấy mà không có một cơ chế pháp lí trực tiếp nào bắt buộc thi hành đối với kết quả thương lượng của các bên. III. PHƯƠNG THỨC HÒA GIẢI: Hòa giải là phương thức giải quyết tranh chấp với sự tham gia của bên thứ ba làm trung gian hòa giải để hỗ trợ, thuyết phục các bên tranh chấp tìm kiếm các giải pháp nhằm loại trừ tranh chấp đã phát sinh. Hòa giải được thực hiện dưới các hình thức: hòa giải ngoài thủ tục tố tụng và hòa giải trong thủ tục tố tụng. Hòa giải ngoài thủ tục tố tụng là việc hòa giải được các bên tiến hành trước khi đưa đơn khởi kiện ra tòa án hoặc trọng tài. Hòa giải trong thủ tục tố tụng là hoạt động được tiến hành tại tòa án, tại cơ quan trọng tài khi các cơ quan này giải quyết tranh chấp theo đơn kiện cảu một bên. Khác với hòa giải ngoài thủ tục tố tụng, hòa giải trong thủ tục tố tụng được tiến hành dưới sự trợ giúp của tòa án hoặc trọng tài. Khi các bên hòa giải được với nhau, tòa án hoặc trọng tài sẽ ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của đương sự và quyết định này có giá trị cưỡng chế thi hành đối với các bên. Ở Việt Nam, qua các thời kỳ phát triển kinh tế- xã hội, việc thương lượng, hòa giải nhằm giải quyết các tranh chấp phát sinh nhất là các tranh chấp thương mại luôn được coi trọng. Khi tranh chấp phát sinh các bên có thể tự thương lượng, hòa giải với nhau. Nếu thương lượng, hòa giải không thành mới đưa ra tòa án hoặc trọng tài. Và ngay cả khi giải quyết tranh chấp tại trọng tài hoặc tòa án, các bên vẫn có thể tiến hành hòa giải với nhau. 2. Phân tích bản chất của phương pháp hòa giải:           Bản chất của phương thức hòa giải được thể hiện qua các đặc trưng cơ bản sau đây: - Thứ  nhất: việc giải quyết tranh chấp thương mại bằng hòa giải đã có sự hiện diện của bên thứ ba ( do các bên tranh chấp lựa chọn) làm trung gian để trợ giúp các bên tìm kiếm giải pháp tối ưu nhằm loại trừ tranh chấp. Điểm khác biệt cơ bản giữa hòa giải và thương lượng là trong hòa giải có sự xuất hiên của bên thứ ba tham gia vào quá trình giải quyết tranh chấp còn thương lượng là sự tự giải quyết tranh chấp giữa các bên mà không có sự xuất hiện của người thứ ba. Mặc dù với vai trò là người hòa giải nhưng bên thứ ba không có quyền quyết định hay áp đặt bất cứ vấn đề gì nhằm ràng buộc các bên tranh chấp, mà họ chỉ đóng vai trò là trung gian đưa ra những hướng dẫn và trợ giúp nhất định để tạo cơ sở cho các bên trong tranh chấp thương mại đạt được sự thống nhất ý chí và đưa ra quyết định cuối cùng. - Thứ hai là quá trình hòa giải các bên tranh chấp cũng không chịu sự chi phối bởi các quy định có tính khuôn mẫu, bắt buộc của pháp luật về thủ tục hòa giải. Cũng giống như thương lượng, pháp luật hiện hành của nước ta không có quy định nào ràng buộc, chi phối đến cơ chế hòa giải ngoài các quy định có tính chất ghi nhận thương lượng, hòa giải là những phương thức giải quyết tranh chấp được các bên tranh chấp ưu tiên lựa chọn để giải quyết tranh chấp phát sinh. - Thứ ba là kết quả hòa giải thành được thực thi cũng hoàn toàn phụ thuộc vào ý chí tự nguyện của các bên tranh chấp mà không có bất kỳ cơ chế nào bảo đảm thi hành những cam kết của các bên trong quá trình hòa giải.           2. Ưu điểm của phương thức hòa giải: Giải quyết tranh chấp thương mại bằng hòa giải cũng có nhiều ưu điểm như phương thức thương lượng, bởi tính đơn giản, thuận tiện, nhanh chóng, linh hoạt, hiệu quả và ít tốn kém. Bên cạnh những ưu điểm chung, hòa giải còn có  những ưu điểm vượt trội sau: - Hòa giải có sự tham gia của người thư ba trong quá trình giải quyết tranh chấp mà bản thân thương lượng không thể có được. Bằng sự hiểu biết cũng như sự tín nhiệm của mình, người hòa giải sẽ biết cách làm cho ý chí của các bên dễ gặp nhau trong quá trình đàm phán để loại trừ tranh chấp. - Các bên hòa giải thành thì không có kẻ thắng người thua nên không gây ra tình trạng đối đầu giữa các bên và vì vậy khả năng duy trì được quan hệ hợp tác vốn có giữa các bên. - Giải quyết tranh chấp bằng hòa giải, các bên dễ dàng kiểm soát được việc cung cấp chứng cứ và sử dụng chứng cứ qua đó giữ được bí quyết kinh doanh và uy tín của các bên. - Do xuất phát từ tinh thần tự nguyện và thiện chí của các bên. Vì vậy khi đạt được phương án hòa giải, các bên thường nghiêm túc thực hiện. 3.Nhược điểm của phương thức hòa giải: Bên cạnh những ưu điểm đã trình bày ở trên, việc giải quyết tranh chấp bằng phương thức hòa giải vẫn còn một số những  hạn chế đáng chú ý sau: - Sự thành công của quá trình giải quyết tranh chấp chủ yếu phụ thuộc vào thái độ thiện chí và hợp tác của các bên tranh chấp. - Việc thực thi các kết quả đã đạt được trong quá trình giải quyết tranh chấp phụ thuộc vào sự tự nguyện thi hành của bên có nghĩa vụ phải thi hành, thỏa thuận hòa giải giữa các bên (trừ trường hợp hòa giải tại trọng tài và tòa án) không được đảm bảo thi hành bằng sức mạnh cưỡng chế của nhà nước. - Bên tranh chấp không có thiện chí có thể lợi dụng việc hòa giải để trì hoãn việc phải thực hiện nghĩa vụ. Nhiều trường hợp do muốn tìm mọi cách mà bên có quyền lợi bị vi phạm mất quyền khởi kiện tại tòa án hoặc trọng tài do hết thời hiệu khởi kiện. - Ngoài ra, trong quá trình hào giải các bên phải trao đổi, cung cấp thông tin với người thứ ba về hoạt động kinh doanh của mỗi bên liên quan đến vụ tranh chấp nên uy tín cũng như bí quyết khinh doanh của mỗi bên dễ bị ảnh hưởng hơn so với phương thức thương lượng. Bên cạnh đó, việc chi phí cho quá trình giải quyết tranh chấp thương mại bằng hòa giải cũng tốn kém hơn so với thương lượng, bởi một hoặc các bên phải trả khoản dịch vụ phí cho người thứ ba làm trung gian hòa giải. IV. PHƯƠNG THỨC TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI: Giải quyết tranh chấp trong thương mại bằng trọng tài là hình thức giải quyết tranh chấp thông qua hoạt động của trọng tài viên, với tư cách là bên thứ ba độc lập nhằm chấm dứt xung đột trong quá trình tiến hành các hoạt động thương mại bằng việc đưa ra một phán quyết buộc các bên tranh chấp phải thực hiện.           Tại khoản 1 điều 3 luật trọng tài thương mại năm 2010 cũng quy định: “ Trọng tài thương mại là phương thức giải quyết tranh chấp do các bên thỏa thuận và được tiến hành theo quy định của luật này.” 1.Bản chất của phương thức trọng tài thương mại:           Về bản chất, trọng tài thương mại là phương thức giải quyết tranh chấp thương mại không mang ý chí quyền lực nhà nước ( không nhân danh quyền lực nhà nước như phán quyết của toà án ) mà chủ yếu được giải quyết dựa trên phán quyết của trọng tài thương mại (được các bên lựa chọn) theo thủ tục linh hoạt, mềm dẻo.Ngoài ra, phương thức giải quyết tranh chấp thương mại này còn đảm bảo tối đa uy tín cũng như bí mật của các bên tranh chấp , góp phần củng cố và duy trì mối quan hệ hợp tác lâu dài giữa các bên. Điều này được thể hiện qua các đặc điểm sau: -Trọng tài thương mại là một loại hình tổ chức phi Chính phủ, hoạt động theo  luật trọng tài năm 2010 và quy chế trọng tài thương mại quốc tế. Nó có quyền phán quyết như tòa án và quyết định của trọng tài được cưỡng chế thi hành. Tính chất phi chính phủ của phương thức này được thể hiện: + Hội đồng trọng tài, tổ chức trọng tài không phải được thành lập bởi Nhà nước mà được thành lập theo sáng kiến của trọng tài viên sau khi được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép; + Hội đồng trọng tài, các tổ chức trọng tài và các trọng tài viên không nằm trong hệ thống cơ quan quản lý nhà nước, cũng ko thuộc hệ thống cơ quan xét xử nhà nước. + Các tổ chức trọng tài hoạt động theo nguyên tắc tự trang trải mà không được cấp kinh phí hoạt động trong ngân sách nhà nước. + Trọng tài viên hoặc hội đồng trọng tài không  nhân danh quyền lực nhà nước mà nhân danh người thứ ba để ra phán quyết. + Hoạt động trọng tài vẫn luôn đặt dưới sự quản lý và hỗ trợ của nhà nước, nhà nước ban hành các văn bản pháp luật tạo cơ sở pháp lý cho việc tổ chức và hoạt động như cấp, thay đổi, bổ sung, thu hồi giấy phép thành lập, giấy đăng ký hoạt động của các trung tâm trọng tài. Nhà nước hỗ trợ các hoạt động của tố tụng trọng tài như: hỗ trợ chỉ định, thay đổi trọng tài viên, cưỡng chế thi hành quyết định trọng tài. - Cơ chế giải quyết tanh chấp bằng trọng tài là sự kết hợp giữa hai yếu tố thỏa thuận và tài phán. Thỏa thuận làm tiền đề cho phán quyết và không thể có phán quyết thoát ly những yếu tố đã được thỏa thuận. Do đó, về nguyên tắc thẩm quyền của trọng tài không bị giới hạn bởi pháp luật, các đương sự có thể lựa chọn bất kì lúc nào, bất cứ trọng tài ad-hoc nào hoặc bất cứ trung tâm trọng tài nào trên thế giới. Tuy nhiên để bảo vệ lợi ích của nhà nước (lợi ích công), một số nước trên thế giới chỉ thừa nhận thầm quyền của trọng tài trong lĩnh vực luật tư; ở Việt Nam tuy không phân biệt luật công và luật tư nhưng pháp luật nước ta cũng chỉ thừa nhận thẩm quyền của trọng tài trong lĩnh vực thương mại và một số lĩnh vực nhất định(Điều 2 luật trọng tài năm 2010). - Hình thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài đảm bảo quyền tự định đoạt của các đương sự rất cao: Các bên có quyền lựa chọn trọng tài viên, lựa chọn quy tắc trọng tài, luật áp dụng để giải quyết tranh chấp. Luật trọng tài năm 2010 của nước CHXHCN Vệt Nam tại điều 14 đã quy định:“ 1. Đối với tranh chấp không có yếu tố nước ngoài, Hội đồng trọng tài áp dụng pháp luật Việt Nam để giải quyết tranh chấp; 2. Đối với tranh chấp có yếu tố nước ngoài, Hội đồng trọng tài áp dụng pháp luật do các bên lựa chọn; nếu các bên không có thỏa thuận về luật áp dụng thì Hội đồng trọng tài quyết định áp dụng pháp luật mà Hội đồng trọng tài cho là phù hợp nhất; 3. Trường hợp pháp luật Việt Nam, pháp luật do các bên lựa chọn không có quy định cụ thể liên quan đến nội dung tranh chấp thì Hội đồng trọng tài được áp dụng tập quán quốc tế để giải quyết tranh chấp nếu việc áp dụng hoặc hậu quả của việc áp dụng đó không trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam.” Ngoài ra một trong các nguyên tắc khi giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài thương mại là phiên họp giải quyết tranh chấp không diễn ra công khai trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác, nguyên tắc này đã thể hiện được sự tôn trọng tối đa quyền tự định đoạt của các bên tranh chấp trong giải quyết tranh chấp. - Phán quyết của trọng tài có giá trị chung thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị và có hiệu lực thi hành đối với các bên. Nếu một trong các bên không thi hành thì bên kia có quyền yêu cầu tòa án công nhận và cho thi hành phán quyết trọng tài (Khoản 5 điều 61 và điều 66 luật trọng tài thương mại năm 2010). - Phương thức trọng tài thương mại có sự hỗ trợ của tòa án. Sở dĩ cần sự hỗ trợ của tòa án  bởi vì phán quyết của trọng tài không mang tính quyền lực nhà nước. Do đó, cần phải có một cơ quan nhà nước hỗ trợ, đó là tòa án. Theo luật trọng tài năm 2010 của nước ta quy định thì tòa án hỗ trợ để đảm bảo thi hành thỏa thuận trọng tài, hỗ trợ cho trọng tài trong việc chỉ định trọng tài viên, áp dụng các biện pháp khẩn cấp, kiểm tra, giám sát đối với các quyết định của trọng tài, hủy quyết định trọng tài. - Trọng tài tồn tại dưới hai hình thức cơ bản: trọng tài vụ việc( trọng tài ad-hoc) và trọng tài thường trực. + trọng tài vụ việc (Trọng tài ad-hoc): là hình thức trọng tài được lập ra để giải quyết các tranh chấp cụ thể khi có yêu cầu và tự giải thể khi giải quyết xong tranh chấp đó. Đặc điểm cơ bản của trọng tài vụ việc là không có trụ sở, không có bộ máy giúp việc và không lệ thuộc vào bất cứ một quy tắc xét xử nào. Các bên khi yêu cầu trọng tài ad-hoc xét xử có quyền lựa chọn thủ tục, các phương thức tiến hành tố tụng. Đây là hình thức tổ chức đơn giản, khá linh hoạt, mềm dẻo về phương thức hoạt động nên nói chung phù hợp với những tranh chấp ít tình tiết phức tạp, có nhu cầu giải quyết nhanh chóng và các bên tranh chấp có kiến thức và hiểu biết về pháp luật, cũng như kinh nghiệm tố tụng. Trên thực tế, số lượng tranh chấp thương mại được giải quyết bằng trọng tài ad-hoc không nhiều. + Trọng tài thường trực là những tổ chức trọng tài có hình thức tổ chức, trụ sở ổn định, có danh sách trọng tài viên và hoạt động theo điều lệ riêng. Việc thành lập, tổ chức và hoạt động chịu sự điều chỉnh của pháp luật mà chủ yếu là luật trọng tài năm 2010 và luật doanh nghiệp năm 2005. 2. Các ưu điểm của phương thức trọng tài thương mại: Thứ nhất phán quyết của trọng tài thương mại có tính chung thẩm: đa số các quyết định trọng tài không bị kháng cáo, chỉ trừ trường hợp một bên trong tranh chấp yêu cầu và có một trong các căn cứ quy định tại khoản 2 điều 68 luật trọng tài năm 2010 thì quyết định trọng tài bị hủy theo quyết định của tòa án. Thứ hai các quyết định trọng tài được công nhận quốc tế thông qua một loạt các công ước quốc tế được kí kết đặc biệt là công ước New York năm 1958 về thi hành quyết định trọng tài nước ngoài, hiện nay có khoảng 120 quốc gia là thành viên của công ước này. Thứ ba là cơ quan trọng tài hoàn toàn trung lập, các trọng tài viên có trình độ chuyên môn cao. Để trở thành trọng tài viên thì cá nhân phải đáp ứng những yêu cầu mà pháp luật quy định, theo luật trọng tài của nước CHXHCN Việt Nam năm 2010 thì người đáp ứng đủ các yêu cầu quy định tại điều 20 thì có thể làm trọng tài viên. Thứ tư là trọng tài thương mại mang tính linh hoạt, đảm bảo tốt hơn quyền tự định đoạt của các bên. Nghĩa là các bên có quyền tự quyết định chọn hình thức tổ chức trọng tài cũng như trọng tài viên mà mình ưa thích; có quyền lựa chọn địa điểm, thời gian sao cho tiện với doanh nghiệp. Như vậy so với tòa án, các công việc đó do thẩm phán có thẩm quyền quyết định và doanh nghiệp phải tuân theo thì hình thức trọng tài thương mại tạo cho các bên tranh chấp có thể chủ động hơn. Thứ năm là trọng tài thương mại mang tính bí mật: các phiên họp giải quyết tranh chấp của trọng tài không được tổ chức công khai và chỉ có các bên nhận được quyết định. Đây là một ưu điểm lớn của phương thức trọng tài khi các tranh chấp liên quan đến các bí mật thương mại và phát minh. Thứ sáu là giải quyết tranh chấp thương mại bằng phương thức trọng tài có thế giúp các bên tiết kiệm được thời gian và chi phí hơn so với phương thức thông qua tòa án. Trọng tài có thể tiến hành rất nhanh trong vòng vài tuần hoặc vài tháng nếu các bên mong muốn. Trong hợp đồng với tổ chức trọng tài,  các bên có thể thỏa thuận giới hạn thời gian cần thiết để đưa ra quyết định trọng tài. 3. Nhược điểm của phương thức trọng tài thương mại: Thứ nhất là các trọng tài viên có thể gặp khó khăn trong quá trình điều tra, xác minh và thu thập chứng cứ và triệu tập nhân chứng vì tuy pháp luật có ghi nhận các quyền này tại điều 45, 46 và 47 luật trọng tài năm 2010 nhưng quyền của họ chỉ dừng lại ở mức được “yêu cầu” còn việc có cung cấp chứng cứ hay không phải dựa vào sự tự nguyện và thiện chí của các bên và người làm chứng. Thứ hai  là trọng tài ad-hoc phải phụ thuộc hoàn toàn vào thiện chí của các bên. Nếu một bên không có thiện chí, quá trình tố tụng sẽ luôn có nguy cơ bị trì hoãn, và nhiều khi không thể thành lập được Hội đồng Trọng tài bởi vì không có quy tắc tố tụng nào được áp dụng và không có tổ chức nào giám sát việc tiến hành trọng tài và giám sát các Trọng tài viên. Vì vậy, kết quả phần lớn phụ thuộc vào việc tiến hành tố tụng và khả năng kiểm soát quá trình tố tụng của các Trọng tài viên. Cả Trọng tài viên và các bên sẽ không có cơ hội nhận được sự ủng hộ và trợ giúp đặc biệt từ một tổ chức trọng tài thường trực trong trường hợp phát sinh sự kiện không dự kiến trước và trong trường hợp các Trọng tài viên không thể giải quyết được vụ việc. Sự hỗ trợ duy nhất mà các bên có thể nhận được là từ các Tòa án. Thứ ba là hình thức Trọng tài quy chế có nhược điểm là tốn kém nhiều chi phí. Rõ ràng giải quyết tranh chấp tại Trọng tài quy chế, ngoài việc phải trả chi phí thù lao cho các Trọng tài viên, các bên còn phải trả thêm các chi phí hành chính để nhận được sự hỗ trợ của các trung tâm trọng tài. Ngoài ra trong một số trường hợp quá trình giải quyết tranh chấp bị kéo dài mà Hội đồng Trọng tài các các bên bắt buộc phải tuân thủ vì phải tuân theo các thời hạn theo quy định của Quy tắc tố tụng trọng tài làm giảm hiệu quả của việc giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài. V. PHƯƠNG THỨC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP THƯƠNG MẠI THÔNG QUA TÒA ÁN: Tòa án là phương thức giải quyết tranh chấp tại cơ quan xét xử nhân danh quyền lực nhà nước, được tiến hành theo trình tự, thủ tục nghiêm ngặt, chặt chẽ và bản án hay quyết định của tòa án về vụ tranh chấp nếu không có sự tự nguyện tuân thủ sẽ được bảo đảm thi hành bằng sức mạnh cướng chế của nhà nước. Do đó, các đương sự thường tìm đến sự trợ giúp của tòa án như một giải pháp cuối cùng để bảo vệ có hiệu quả các quyền, lợi ích của mình khi họ thất bại trong việc sử dụng cơ chế thương lượng hoặc hòa giải và cũng không muốn vụ tranh chấp giữa họ được giải quyết bằng con đường trọng tài. 1. Bản chất của phương thức giải quyết tranh chấp thương mại thông qua tòa án: Về bản chất, phương thức giải quyết tranh chấp thương mại tại tòa án là một phương thức mang ý chí quyền lực nhà nước, tòa án nhân danh quyền lực nhà nước để giải quyết tranh chấp trên cơ sở các quy định của pháp luật. Quyết định của tòa án có hiệu lực khiến các bên bắt buộc phải thực thi và có thể kèm theo các biện pháp cưỡng chế thi hành. Bản chất đó được thể hiện thông qua các đặc điểm sau: - Thứ nhất là cơ quan tài phán nhân danh nhà nước để giải quyết tranh chấp, do đó, phán quyết của tòa án được đảm bảo thi hành bằng sức mạnh cưỡng chế. - Thứ hai là việc giải quyết tranh chấp của tòa án phải tuân thủ nghiêm ngặt các quy định mang tính hình thức cũng như các quy định về thẩm quyền, thủ tục, các nguyên tắc giải quyết tranh chấp thương mại của pháp luật tố tụng nhất là các quy định của bộ luật tố tụng dân sự năm 2004. - Thứ ba là tòa án giải quyết tranh chấp theo nguyên tắc xét xử công khai. -  Thứ tư là việc giải quyết tranh chấp tại tòa án có thể thực hiện qua hai cấp xét xử: sơ thẩm và phúc thẩm, bản án có hiệu lực pháp luật còn có thể được xét lại theo thủ tục: giám đốc thẩm hoặc tái thẩm. -  Thứ năm là tòa án giải quyết theo nguyên tắc xét xử tập thể và quyết định theo đa số. 2. Ưu điểm của phương thức tòa án: Việc đưa tranh chấp ra xét xử tại tòa án có nhiều ưu điểm như: Trình tự, thủ tục tố tụng chặt chẽ, và hiệu lực phán quyết có tính khả thi cao hơn so với trọng tài. Do là cơ quan xét xử của Nhà nước nên phán quyết của tòa án có tính cưỡng chế cao. Nếu không chấp hành sẽ bị cưỡng chế, do đó khi đã đưa ra tòa án thì quyền lợi của người thắng kiện sẽ được đảm bảo nếu như bên thua kiện có tài sản để thi hành án. Nguyên tắc xét xử công khai có tính răn đe đối với những thương nhân kinh doanh vi phạm pháp luật. Các tòa án, đại diện cho chủ quyền quốc gia, có điều kiện tốt hơn các trọng tài viên trong việc tiến hành điều tra, có quyền cưỡng chế, triệu tập bên thứ ba đến tòa. Các bên không phải trả thù lao cho thẩm phán, ngoài ra chi phí hành chính rất hợp lý. 3. Hạn chế của phương thức tòa án: Việc lựa chọn phương thức tòa án có những nhược điểm nhất định vì thủ tục tố tụng tại tòa án thiếu linh hoạt do đã được pháp luật quy định trước đó. Phán quyết của tòa án thường bị kháng cáo. Quá trình tố tụng có thể bị trì hoãn và kéo dài, có thể phải qua nhiều cấp xét xử, ảnh hưởng đến quá trình sản xuất, kinh doanh. Nguyên tắc xét xử công khai của tòa án tuy là nguyên tắc được xem là tiến bộ, mang tính răn đe nhưng đôi khi lại là cản trở đối với doanh nhân khi những bí mật kinh doanh bị tiết lộ và uy tín trên thương trường bị giảm sút. Đối với các tranh chấp thương mại có yếu tố nước ngoài thì: + Phán quyết của tòa án thường khó đạt được sự công nhận quốc tế. Phán quyết của tòa án được công nhận tại một nước khác thường thông qua hiệp định song phương hoặc theo nguyên tắc rất nghiêm ngặt. + mặc dù thẩm phán quốc gia có thể khách quan, họ vẫn phải buộc sử dụng ngôn ngữ và áp dụng quy tắc tố tụng của quốc gia họ và thường cùng quốc tịch với một bên. A. KẾT LUẬN: Trên đây là những kiến thức cơ bản nhất về các hình thức giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại, những ưu điểm và hạn chế của từng hình thức. Không có phương thức nào là tuyệt đối và việc quyết định lựa chọn hình thức giải quyết tranh chấp nào không những phải được lựa chọn dựa trên cơ sở ưu, nhược điểm của từng hình thức mà còn phải tùy vào từng trường hợp tranh chấp để tìm ra phương pháp thích hợp nhất, có lợi nhất.                              DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1.     Luật thương mại năm 2005; 2.     Luật trọng tài năm 2010; 3.     bộ luật tố tụng dân sự năm 2004; 4.     Đại học luật Hà Nội – Giáo trình luật thương mại tập 2- NXB công an nhân dân; 5.      

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docq25.doc
Tài liệu liên quan