Tiểu luận Biện pháp khắc phục ngoại vi tiêu cực của việc xả thải ở thành phố Hồ Chí Minh

MỤC LỤC CHƯƠNG MỘT: CƠ SỞ LÝ THUYẾT I. Khái niệm yếu tố ngoại vi Trang 3 II. Phân loại yếu tố ngoại vi Trang 3 III. Sự tác động của yếu tố ngoại vi tiêu cực Trang 3 IV. Định lý Ronal Coase và sự thất bại của thị trường tư nhân Trang 4 V. Hệ thống biện pháp khắc phục sự tác động ngoại vi Trang 4 CHƯƠNG HAI: THỰC TRẠNG CỦA VIỆC XẢ THẢI Ở CÁC KHU CÔNG NGHIỆP Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH I. Thực trạng của việc xả thải ở các khu công nghiệp ở TP HCM: Trang 8 II. Những tác hại của chất thải: Trang 12 CHƯƠNG BA: ĐỀ XUẤT MỘT SỐ BIỆN PHÁP KHẮC PHỤC NGOẠI VI TIÊU CỰC CỦA VIỆC XẢ THẢI Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH I. Biện pháp kinh tế Trang 16 II. Biện pháp về hành chính và pháp luật: Trang 16 III. Các biện pháp khác Trang 18 LỜI MỞ ĐẦU Trong quá trình công nghiệp hóa , hiện đại hóa đất nước các ngành công nghiệp sản xuất luôn đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế. Các ngành công nghiệp gắn liền với các khu công nghiệp và khu chế xuất công nghệ cao, ở đó tập hợp nhiều doanh nghiệp sản xuất và dịch vụ gần như khép kín, làm cho chi phí vận chuyển cũng như lợi thế sản xuất quy mô và vị trí. Đi liền với những thuận lợi và thành tựu đó, vấn nạn ô nhiễm do việc xả thải quá mức không qua xử lý, cũng như các hành vi xử lý chất thải không đến nơi đến chốn của các doanh nghiệp trong các khu công nghiệp nói chung và khu vực thành phố Hồ Chí Minh nói riêng có những tác động ngoại vi rất tiêu cực đến môi trường xung quanh cũng như chất lượng môi trường bị giảm đi nghiêm trọng. Với thực trạng đang diễn ra ngày một phức tạp thì nhóm đã lấy đề tài này để nghiên cứu và đề xuất một số giải pháp góp phần cải thiện tình trạng hiện nay.

doc22 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 3145 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Biện pháp khắc phục ngoại vi tiêu cực của việc xả thải ở thành phố Hồ Chí Minh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN .. LỜI MỞ ĐẦU Trong quá trình công nghiệp hóa , hiện đại hóa đất nước các ngành công nghiệp sản xuất luôn đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế. Các ngành công nghiệp gắn liền với các khu công nghiệp và khu chế xuất công nghệ cao, ở đó tập hợp nhiều doanh nghiệp sản xuất và dịch vụ gần như khép kín, làm cho chi phí vận chuyển cũng như lợi thế sản xuất quy mô và vị trí. Đi liền với những thuận lợi và thành tựu đó, vấn nạn ô nhiễm do việc xả thải quá mức không qua xử lý, cũng như các hành vi xử lý chất thải không đến nơi đến chốn của các doanh nghiệp trong các khu công nghiệp nói chung và khu vực thành phố Hồ Chí Minh nói riêng có những tác động ngoại vi rất tiêu cực đến môi trường xung quanh cũng như chất lượng môi trường bị giảm đi nghiêm trọng. Với thực trạng đang diễn ra ngày một phức tạp thì nhóm đã lấy đề tài này để nghiên cứu và đề xuất một số giải pháp góp phần cải thiện tình trạng hiện nay. Chương một: CƠ SỞ LÝ THUYẾT I. Khái niệm yếu tố ngoại vi: Yếu tố ngoại vi được hiểu như là những hoạt động của một chủ thể nhất định nào đó gây tác động đến các đối tượng này không được đền bù hoặc không phải bị đền bù. Các chủ thể và đối tượng ở đây có thể là cá nhân hoặc các đơn vị hoạt động sản xuất kinh doanh. Sự tác động của các chủ thể này là sự tác động tốt hoặc tác động xấu. Các chủ thể này không chịu bất cứ một trách nhiệm kinh tế nào về sự tác động của họ, cũng như họ không đòi hỏi một sự đền bù nào. Như vậy, yếu tố ngoại vi là một sự thể hiện mối quan hệ sản xuất – sản xuất, sản xuất – tiêu dùng và tiêu dùng – tiêu dùng. Hoạt động của người này tác động ảnh hưởng đến hoạt động của người khác. Kết quả hoạt động của người này chịu ảnh hưởng bởi kết quả hoạt động của người khác. Tóm lại, khi có sự tương tác với nhau giữa các hoạt động của các chủ thể và đối tượng khác nhau trong nền kinh tế, có thể tạo ra sự khác biệt giữa giá trị xã hội và giá trị thị trường, lợi ích và chi phí xã hội khác biệt với lợi ích và chi phí tư nhân. Trong trường hợp này chúng ta nói rằng đã có sự tác động của các yếu tố ngoại vi. II. Phân loại yếu tố ngoại vi: Trên giác độ hiệu quả kinh tế - xã hội của các yếu tố ngoại vi đến các đối tượng tác động, người ta chia làm 2 loại: 1. Yếu tố ngoại vi tích cực: Là yếu tố ngoại vi có tác động tốt đến các đối tượng chịu tác động. Ví dụ: người nuôi ong tạo ra yếu tố ngoại vi tích cực đến người trồng táo. 2. Yếu tố ngoại vi tiêu cực: Là yếu tố ngoại vi có tác động xấu đến đối tượng chịu tác động. Ví dụ: Người hút thuốc tạo ra yếu tố ngoại vi tiêu cực đối với những người xung quanh. Ngoài ra còn có các loại yếu tố ngoại vi liên quan đến việc phân bổ nguồn lực chung. Người ta gọi đó là yếu tố ngoại vi tiêu cực tác động lẫn nhau, trong đó hoạt động của mỗi người có tác động xấu đến người khác. Ví dụ: những người cùng đánh cá chung trong một cái ao. III. Sự tác động của yếu tố ngoại vi tiêu cực: Hoạt động sản xuất tại các khu công nghiệp đã gây ra một ngoại ứng tiêu cực như gây ô nhiễm môi trường, làm ảnh hưởng tới môi trường sống và gây ảnh hưởng xấu đến sức khỏe của người dân. Để phân tích tác động tiêu cực của ngoại ứng tiêu cực, ta có thể lấy một ví dụ như sau: Giả sử khu công nghiệp A sản xuất ra mặt hàng B. Trong thị trường cạnh tranh đường cầu về sản phẩm B được minh họa như hình sau là đường D. Đường cung của sản phẩm B là đường S. Khi đó giá của sản phẩm B là PE tại giao điểm giữa đường cung và đường cầu. Khi đó sản lượng tối ưu là tại QE. Tuy nhiên việc sản xuất của các nhà máy cũng tạo ra một ngoại ứng tiêu cực là gây ô nhiễm môi trường. Giả sử việc ô nhiễm sẽ thay đổi phụ thuộc vào sản lượng B được sản xuất ra. Dự kiến chi phí để khắc phục ô nhiễm là MEC PA Q QE’ QE P MSC MEC D E A B E’ PE’ PE O S=MC Khi đó, chi phí xã hội biên (MSC) của việc sản xuất B bao gồm: Chi phí biên sản xuất sản phẩm B: MC Chi phí biên ngoại ứng của việc sản xuất sản phẩm B: MEC MSC= MC + MEC Như vậy trong trường hợp này sản lượng hiệu quả phải là QE’ tại giao điểm giữa đường cầu và đường chi phí xã hội biên. So sánh với sản lượng B được sản xuất ra trong thị trường cạnh tranh thì rõ ràng mức sản lượng được sản xuất ra là cao hơn mức sản lượng hiệu quả. Khi đó, nền kinh tế không đạt được hiệu quả, phần sản lượng vượt quá : QE-QE’ sẽ gây nên một tổn thất kinh tế vì ở đó chi phí xã hội để sản xuất 1 đơn vị sản phẩm B lớn hơn lợi ích tiêu dung do 1 sản phầm B mang lại. Tổn thất kinh tế này được biểu thị bằng diện tích EE’B. IV. Định lý Ronal Coase và sự thất bại của thị trường tư nhân Khi quyền sở hữu được xác định một cách rõ ràng (bất kể thuộc về ai) thì kết quả thương lượng giữa các chủ thể và đối tượng sẽ thành công, cả hai bên đều có lợi. Nền kinh tế ( bao gồm chủ thể và đối tượng) sẽ đạt trạng thái hiệu quả. Xuất phát từ quyền sở hữu tài sản được thừa nhận hoặc có các quy định của chính phủ, chỉ có các cá nhân, tập thể sở hữu tài sản mới có quyền hạn duy nhất đối với tài sản của họ. Do đó, họ sẽ kiểm soát và duy trì tính hiệu quả của việc khai thác, sử dụng tài sản dưới sự hướng dẫn tác động của thị trường. Sự tác động của các yếu tố ngoại vi bị ngăn chặn hoàn toàn, (bị hạn chế) hoặc được kích thích đến mức tối đa. Nói cách khác, trong những trường hợp đó, yếu tố ngoại vi có thể tự nội hóa , và đạt được hiệu quả kinh tế. Tuy nhiên,việc nội hóa tác động ngoại vi sẽ thất bại trong những trường hợp sau: - Yếu tố ngoại vi tác động đến việc cung cấp và hưởng thụ một loại hàng hóa công thuần túy mà việc loại trừ một người nào đó sẽ là không thực hiện dược hay rất tốn kém - Những yếu tố ngoại vi xuất phát từ hệ thống các quyền về tài sản. Và khi đó, chính phủ cần phải có những biện pháp can thiệp. Sự can thiệp này sẽ tiết kiệm được chi phí giao dịch của các cá nhân, tổ chức của nền kinh tế, xử lý một cách có hiệu quả các mâu thuẫn về quyền lợi giữa các cá nhân, tổ chức khi có sự tác động của yếu tố ngoại vi. V. Hệ thống các biện pháp 1. Hệ thống các biện pháp kinh tế a.Phạt tiền: Là biện pháp kinh tế được chính phủ áp dụng đối với các chủ thể gây ra tác động ngoại vi tiêu cực. Có 2 chế độ phạt tiền được áp dụng: Chế độ phạt tiền cố định là chế độ phạt tiền mà chính phủ áp dụng khoản tiền phạt cố định trên một đơn vị sản lượng. Khoản tiền phạt này bằng chênh lệch giữa chi phí xã hội và chi phí tư nhân biên và đúng bằng chi phí ngoại ứng tại mỗi đơn vị sản lượng. Chế độ phạt tiền này thường được chính phủ áp dụng với trường hợp tác động ngoại vi tiêu cực không được gọi là nghiêm trọng và mức độ tiêu cực thường tỷ lệ thuận với sản lượng, còn chi phí biên ngoại ứng được coi là như nhau với mỗi đơn vị. Cụ thể: - Phạt tiền trên đơn vị sản phẩm f = (MSC - MC) tại QE’ = MEC tại QE’ (PE’ - PA) Cách 2 Cách 1 -Tổng tiền phạt: F = f.QE’ = dt(PAPEE’A) Chế độ phạt tiền có ảnh hưởng đến người tiêu dùng, người sản xuất: Khoản tiền phạt mà người tiêu dùng chịu: Ftd = PE’ - PE và Ftd = ftd.QE’ = dt(PEPE’E’C) Khoản tiền phạt mà người sản xuất chịu: Cách 1: fsx = PE - PA và Fsx = fsx.QE’ = dt(PAPECA) Cách 2: fsx = f - ftd và Fsx = F - Ftd = dt(PAPE’E’A) - dt(PEPE’E’C) = dt(PAPECA) b. Chế độ phạt tiền phi tuyến: Là chế độ phạt tiền mà chính phủ áp dụng khoản tiền phạt dựa vào mức độ nghiêm trọng hoặc tính chất của tác động tiêu cực. Có 2 khoản tiền phạt: Khoản tiền phạt rất thấp (hoặc bằng không) nếu mức độ tác động tiêu cực dưới mức cho phép. Khoản tiền phạt rất cao nếu mức độ tác động tiêu cực trên mức cho phép. c.Trợ cấp: Đối với trường hợp các yếu tố ngoại vi có tác động tiêu cực nhưng để hạn chế sự tác động đó chính phủ cũng có thể dùng chính sách trợ cấp (thường thông qua thuế hoặc giá thu mua). Bằng việc trợ cấp đúng bằng sự chênh lệch giữa lợi ích biên xã hội và lợi ích biên cá nhân, chính phủ đã điều chỉnh mức độ hạn chế tác động tiêu cực đến mức hiệu quả. 2. Hệ thống biện pháp về hành chính và pháp luật: a.Biện pháp hành chính: Biện pháp hành chính đòi hỏi chính phủ phải xây dựng hệ thống các tiêu chuẩn quốc gia, ban hành các văn bản pháp luật, các quy định cụ thể buộc các cá nhân phải tuân thủ triệt để và sẽ xử lý hành chánh theo quy định khi có sự vi phạm. Thường có 2 loại: Hệ thống pháp quy về nguyên nhân: bao gồm tất cả các quy định, các tiêu chuẩn bắt buộc các cá nhân phải tuân thủ để hạn chế các nguyên nhân gây ra tác động tiêu cực. Hệ thống pháp quy về hậu quả: bao gồm tất cả các quy định, các tiêu chuẩn buộc các cá nhân phải tuân thủ để hạn chế các hậu quả các tác động tiêu cực. b. Biện pháp về luật pháp: Biện pháp về pháp luật thường giải quyết mâu thuẫn giữa chủ thể gây ra tác động và đối tượng bị tác động một cách trực diện bằng một hệ thống pháp luật tỏ ra có ưu thế. Cơ sở để giải quyết các mâu thuẫn về mặt pháp luật đòi hỏi chính phủ phải công nhận và thiết lập về quyền tài sản của các cá nhân cũng như của cộng đồng. Chương hai: THỰC TRẠNG CỦA VIỆC XẢ THẢI Ở CÁC KHU CÔNG NGHIỆP Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH: I. Thực trạng của việc xả thải: Trong quá trình công nghiệp hóa , hiện đại hóa đất nước các ngành công nghiệp sản xuất luôn đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế. Các ngành công nghiệp gắn liền với các khu công nghiệp và khu chế xuất công nghệ cao, ở đó tập hợp nhiều doanh nghiệp sản xuất và dịch vụ gần như khép kín, làm cho chi phí vận chuyển cũng như lợi thế sản xuất quy mô và vị trí. Đi liền với những thuận lợi và thành tựu đó, vấn nạn ô nhiễm do việc xả thải quá mức không qua xử lý, cũng như các hành vi xử lý chất thải không đến nơi đến chốn của các doanh nghiệp trong các khu công nghiệp nói chung và khu vực thành phố Hồ Chí Minh nói riêng có những tác động ngoại vi rất tiêu cực đến môi trường xung quanh cũng như chất lượng môi trường bị giảm đi nghiêm trọng. Thực trạng này chúng tôi xin đề cập ở 11 khu công nghiệp đang hoạt động và sản xuất tại thành phố hoa lệ này. Trong những năm gần đây thành phố Hồ Chí Minh, các khu công nghiệp được cấp phép hoạt động khoảng 11 khu công nghiệp, đây là bảng thống kê các khu công nghiệp. Tại thành phố Hồ Chí Minh có 11 khu công nghiệp tập trung hoạt động với tổng số 611 nhà máy trên diện tích 1717 ha đất. Theo kết quả tính toán, hoạt động của các khu công nghiệp này cùng với 195 cơ sở trọng điểm bên ngoài khu công nghiệp, thì mỗi ngày thải vào hệ thống sông Sài Gòn - Đồng Nai tổng cộng 1.740.000 m3 nước thải công nghiệp, trong đó có khoảng 671 tấn cặn lơ lửng, 1.130 tấn BOD5 (làm giảm nhu cầu ôxy sinh hoá), 1789 tấn COD (làm giảm nhu cầu ôxy hoá học), 104 tấn Nitơ, 15 tấn photpho và kim loại nặng. Lượng chất thải này gây ô nhiễm cho môi trường nước của các con sông vốn là nguồn cung cấp nước sinh hoạt cho một nội địa bàn dân cư rộng lớn, làm ảnh hưởng đến các vi sinh vật và hệ sinh thái vốn là tác nhân thực hiện quá trình phân huỷ và làm sạch các dòng sông. TT Khu Vực Lượng nước thải (m3/ngày) Tổng lượng các chất ô nhiễm (kg/ngày) TSS BOD COD Tổng N Tổng P 1 TP. HCM 57.700 12.694 7.905 18.406 3.347 4.616 2 Đồng Nai 179.066 39.395 24.532 57.122 10.386 14.325 3 BR-VT 93.550 20.581 12.816 29.842 5.426 7.484 4 Bình Dương 45.900 10.098 6.288 14.642 2.662 3.672 5 Tây Ninh 11.700 2.574 1.603 3.732 679 936 6 Bình Phước 100 22 14 32 6 8 7 Long An 25.384 5.585 3.478 8.098 1.472 2.031 Ước tính tổng lượng nước thải và thải lượng các chất ô nhiễm trong nước thải từ các khu côngnghiệp vùng kinh tế trọng điểm phía Nam năm 2009 (Nguồn : Tổng hợp từ Trung Tâm Công Nghệ Môi Trường tháng 5/2009) Kết quả thanh tra mức độ ô nhiễm ở 7 khu công nghiệp trên địa bàn thành phố năm 2008 của chi cục bảo vệ môi trường khu vực Đông Nam Bộ, tổng cục môi trường. Đối với các cơ sở thuộc 12 tỉnh thành thuộc lưu vực sông Đồng Nai-Sài Gòn, trong đó có 6 khu công nghiệp: Bình Chiểu, Các Lái 2, Tân Phú Trung, Lê Minh Xuân,VĨnh Lộc,Tân Thới Hiệp trên địa bàn thành phố từ tháng 8/2008 đến 11/2008 cho thấy tất cả các khu công nghiệp kiểm tra đều chưa thu gom triệt để lượng chất thải phát sinh từ các doanh nghiệp trong khu công nghiệp, kết quả kiểm tra nước thải vượt tiêu chuẩn cho phép, trong đó đáng kể là một số doanh nghiệp thuộc khu công nghiệp Tân Thới Hiệp có nồng độ ô nhiễm cao như công ty trách nhiệm hữu hạn Việt Nam Northern Viking Technologies như lượng COD vượt mức cho phép 20 lần, Coliform vượt 18600 lần, công ty cổ phần bia Sai Gòn – Bình Tây tại khu công nghiệp Vĩnh Lộc với nồng độ BOD5 vượt mức cho phép 145 lần ,COD vượt 165 lần, Coliform vượt 1000 lần (nguồn : kiểm tra thanh tra về bảo vệ môi trường đối với các cơ sở , khu sản xuất , kinh doanh, dịch vụ và làng nghề trên lưu vực song Đồng Nai- Sài Gòn năm 2008- tổng cục môi trường,2009) Mới gần đây ,tháng 5/2011, thanh tra sở tài nguyên và môi trường đã công bố những khu công nghiệp trên địa bàn thành phố gây ô nhiễm. Điển hình là những khu công nghiệp Cát Lái 2, Hiệp Phước, Tân Tạo, Tân Thới Hiệp, Tây Bắc Củ Chi và Bình Chiểu, với lưu lượng nước xả thải trên 1.000 m3/ngày đêm. Với số lượng 6/11 khu công nghiệp gây ô nhiễm chiếm hơn 50% trong tổng số các khu công nghiệp. Trong đó khu công nghiệp Cát Lái 2 do Công ty TNHH MTV Dịch vụ công ích quận 2 làm chủ đầu tư là một điển hình. Đơn vị này đã đầu tư hệ thống xử lý nước thải tập trung với công suất 600m³/ngày đêm, nhưng kết quả kiểm tra vừa qua cho thấy nước thải sau xử lý chưa đạt yêu cầu. Và khu công nghệp Hiệp Phước do Công ty cổ phần KCN Hiệp Phước làm chủ đầu tư kinh doanh hạ tầng cũng đưa vào vận hành HTXLNTTT 3.000 m³/ngày đêm nhưng nước thải sau xử lý vẫn vượt quy chuẩn 1,8 – hơn 3 lần. Bên cạnh đó khu công nghiệp Tân Tạo (do Công ty CP Đầu tư và Công nghiệp Tân Tạo làm chủ đầu tư), khu công nghiệp Tân Thới Hiệp (do Công ty TNHH Xây dựng kinh doanh cơ sở hạ tầng), khu công nghiệp Tây Bắc Củ Chi (do Công ty CP Đầu tư phát triển Công nghiệp - Thương mại Củ Chi làm chủ đầu tư) và khu công nghiệp Bình Chiểu (do Tổng Công ty Bến Thành làm chủ đầu tư) cũng liên tục bị phát hiện nước thải sau xử lý đều vượt quy chuẩn cho phép 1 - 7 lần. Điều đáng nói, các đơn vị nêu trên có lưu lượng nước xả thải rất lớn, trên 1.000 m³/ngày đêm nên nguy cơ gây ô nhiễm nguồn nước rất cao. Dòng nước kênh đen ngòm sau xử lý tại KCN Tân Tạo Tình trạng gây ra ô nhiễm nguồn nước tại các khu công nghiệp do các khu công nghiệp thiếu các trạm xử lý nước thải tập trung. Hiện nay tỷ lệ các khu công nghiệp đã đi vào hoạt động có trạm xử lý nước thải tập trung chỉ chiếm 43%. Nhiều khu công nghiệp đã có trạm xử lý chất thải tập trung nhưng tỷ lệ đấu nối của các doanh nghiệp trong khu công nghiệp còn thấp. Thực trạng trên dẫ đến việc phần lớn nước thải của các khu công nghiệp khi thải ra ngoài môi trường đều có các chất thải độc hại vượt quá giới hạn cho phép. Kết quả phân tích nước thải tại điểm xả chung của một số khu công nghiệp các tỉnh phía Nam năm 2008 (Nguồn: Sở Tài Nguyên và Môi Trường Đồng Nai năm 2009). Qua những số liệu được thu nhập qua một số khu công nghiệp khu vực thành phố Hồ Chí Minh cho thấy tình trạng ô nhiễm ở các khu công nghiệp đang ở mức báo động, và những ảnh hưởng của tình trạng này đối với môi trường sống của sinh vật cũng như con người là hết sức phức tạp. Cụ thể: II. Tác hại của việc xả nước thải vào nguồn nước: Việc xả nước thải chưa qua xử lý trực tiếp vào môi trường, cụ thể là đổ xuống các con sông lớn ở các khu công nghiệp tại TP.HCM đã ảnh hưởng xấu đến đời sống, đến sức khỏe của người dân trong khu vực và các khu vực lân cận, gây ra nhiều tổn thất kinh tế cho người dân và cho xã hội. Đối với người dân + Đời sống: Nước thải từ các khu công nghiệp không được xử lý gây ô nhiễm nước mặt và nước ngầm, từ đó ảnh hưởng đến chất lượng nguồn nước cung cấp và thông qua chuỗi thức ăn gây ảnh hưởng xấu tới sức khỏe con người. Theo nghiên cứu đánh giá ảnh hưởng của kim loại chì được thải ra từ nước thải khu công nghiệp dệt nhuộm, tẩy mạ,..trong nước kênh của TP.HCM đến chất lượng rau thủy sinh như rau muống, ngó sen, cần nước,..cho thấy hàm lượng chì có trong rau muống tương đối cao(so với các tiêu chuẩn trong Nghị định số 73/CP ngày 01/11/1995 và Nghị định số 82/CP ngày 08/12/1994 thì có 16/25 mẫu rau có hàm lượng chì cao hơn qui định) Nước trong các ruộng được dẫn từ kênh vào có mức độ ô nhiễm chì cao hơn nước trong kênh rạch. Việc xả nước thải chưa qua xử lý ở các khu công nghiệp TP.HCM đã làm tăng việc nhiễm kim loại nặng, từ đó ảnh hưởng đến sức khỏe người tiêu dùng, đặc biệt là trẻ em. (Nguồn: Báo cáo tóm tắt Hội thảo khoa học kỷ niêm 30 năm thực hiện công tác An toàn Vệ sinh lao động của Phân viên Bảo hộ Lao động tại TP.HCM ) Bên cạnh đó, nước thải từ các khu công nghiệp chứa một lượng lớn các kim loại như chì, asen,kẽm, crom, mangan, nitrat,…; các hợp chất hữu cơ như etylen diclorua, α-Naphtylamin, 4,4-Metylenbis (2 cloanilin),… đã gây ra nhiều bệnh tật nguy hiểm cho sức khỏe con người. Kim loại, hợp chất Nguồn thải Tác hại Mn Chất thải công nghiệp Tác động lên hệ thần kinh trung ương, gây tổn thương thận và bộ máy tuần hoàn, phổi As(asen) Chất thải hóa học Rất độc, gây ung thư Cr(crom) Mạ kim loại Nguyên tố cần ở dạng vết, gây ung thư Pb (chì) Công nghiệp xăng, hệ thống ống dẫn Gây thiếu máu, bệnh thận, rối loạn thần kinh, phá hủy môi trường Zn(kẽm) Chất thải công nghiệp mạ kim loại, hệ thống ống dẫn Độc ở nồng độ cao α-Naphtylamin Chất chống oxi hóa. Sản xuất phẩm màu, phim màu. Gây ung thư bàng quang 4-nirtophenyl Phân tích hóa học Gây ung thư bàng quang 3,3-Diclobenzidin, Bis(clometyl)ete, β-Naphthylamin Sản xuất phẩm màu Sản xuất nhựa trao đổi ion Sản xuất thuốc nhuộm thuốc thử Chất gây ung thư nổi tiếng Gây ung thư phổi Gây ung thư bàng quang Etylenimin Sản xuất chất dẻo Chất gây ung thư nổi tiếng Bảng giới thiệu một số chất trong nước ô nhiễm và tác hại của nó Nguồn: Giáo trình hóa học môi trường, NXB Khoa học kỹ thuật. + Sinh hoạt: Cùng với nước thải sinh hoạt từ các khu dân cư, nước thải công nghiệp đã đóng góp làm cho tình trạng ô nhiễm tại các sông, kênh, rạch, hồ trở nên trầm trọng, nhiều nơi không thể sử dụng cho bất kì mục đích nào. Không những vậy, mùi hôi thối bốc lên từ nguồn nước ô nhiễm đã làm cho đời sống của người dân không được ổn định. Người dân buộc phải sống chúng với ô nhiễm, thậm chí họ phải bán nhà để đi nơi khác để bảo vệ sức khỏe của mình. Ô nhiễm nước gây thiếu hụt nước ngọt trầm trọng. Người dân trong thành phố sinh hoạt chủ yếu là từ nguồn nước máy. + Sản xuất: Nước thải ô nhiễm gây ảnh hưởng lớn đến hoạt động sản xuất. Tại TP.HCM có 8 tuyến kênh chính phục vụ tưới tiêu cho 8.000 ha đất sản xuất nông nghiệp thuộc năm xã của huyện Bình Chánh và Hóc Môn bị ô nhiễm trầm trọng: kiến, cá chết, cây cối đổi màu,… ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của người dân. Nguồn nước ô nhiễm làm giảm thiếu năng suất cây trồng, có những khu đất phải bỏ trống vì ô nhiễm nặng. Trong khi ấy, các cơ quan chức năng lại bất lực đứng nhìn,chưa tìm ra phương thuốc đặc trị hữu hiệu nào để cứu đất, cứu lúa. Tóm lại, việc môi trường ô nhiễm sẽ làm người dân bỏ thêm tiền để chăm sóc sức khỏe và thời gian, năng suất lao động, năng suất nông nghiệp, thủy sản giảm, đó là chưa kể các chi phí phải bỏ ra để sửa chữa, bồi thường cho việc khôi phục môi trường bị suy thoái, bị hủy hoại… Thiệt hại kinh tế trung bình cho mỗi người dân trong một năm ở vùng chịu tác động của nhà máy cao gấp 3,5 lần so với nơi không chịu tác động. Đối với xã hội Ô nhiễm nguồn nước không chỉ làm giảm sức khỏe, ảnh hưởng đến đời sống sản xuất, sinh hoạt của người dân, đem lại thiệt hại kinh tế cho người dân, mà nó còn đem lại thiệt hại kinh tế cho toàn xã hội. Việc ô nhiễm nguồn nước nói riêng và ô nhiễm môi trường nói chúng làm biến đổi khí hậu, ảnh hưởng trực tiếp đến môi trường tự nhiên, hệ sinh thái, làm thiệt hại kinh tế cho xã hội. Bên cạnh đó, việc ô nhiễm nguồn nước cũng góp phần rất lớn vào ô nhiễm môi trường nói chúng, làm giảm chất lượng cuộc sống của nhân dân, làm giảm năng suất sản xuất, tăng chi phí khắc phục và do đó làm cho sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước bị chậm lại. Theo Bộ trưởng Bộ Tài nguyên – Môi trường Phạm Khôi Nguyên: “những thách thức chất thải công nghiệp nếu không được giải quyết tốt sẽ gây ra thảm họa về môi trường và biến đổi khí hậu, tác động nghiêm trọng đến đời sống, sức khỏe cộng đồng hiện tại và tương lai, phá hỏng những thành tựu công nghiệp nói riêng và triển kinh tế, tiến bộ xã hội nói chung ở Việt Nam.” Chương ba: BIỆN PHÁP KHẮC PHỤC NGOẠI VI TIÊU CỰC CỦA VIỆC XẢ THẢI Ở CÁC KHU CÔNG NGHIỆP THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH: I. Các biện pháp kinh tế: 1. Thu thuế, phí xả thải: Thuế và phí ô nhiễm được hiểu như là giá cả mà những người gây ô nhiễm phải chi trả cho mỗi đơn vị ô nhiễm mà họ thải ra môi trường; điều đó có nghĩa là người gây ô nhiễm phải trả cho các yêu cầu về các “dịch vụ môi trường” tuy không đươc biểu hiện nhưng lẽ ra cũng phải được đưa vào một khoản mục trong tính toán chi phí – lợi ích của cá nhân người gây ô nhiễm. Theo lý thuyết, thuế hay phí ô nhiễm đánh trên một đơn vị ô nhiễm được xác định ở mức bằng đúng với chi phí của ngoại ứng gây ra bởi đơn vị ô nhiễm đó. Nếu định ra được một mức phí như vậy, nó sẽ tạo ra hiệu ứng riêng biệt của mỗi doanh nghiệp/cơ sở gây ô nhiễm một cách cụ thể và thích hợp. Về lý thuyết, phí xả thải có một số ưu điểm: - Khuyến khích các cơ sở sản xuất giảm ô nhiễm liên tục với chi phí thấp hơn so với chi phí cho CAC; - Kích thích cơ sở sản xuất đầu tư vào công nghệ kiểm soát ô nhiễm mới; - Tạo ra nguồn thu nhập để tài trợ và nâng cao các hoạt động giám sát và cưỡng chế thực hiện; - Ngoài ra, các phí xả thải có thể bù đắp, ít nhất là một phần cho các phí tổn không được thanh toán như chi phí môi trường phát sinh từ những chất ô nhiễm trong mức thải cho phép tuy nhiên vẫn gây tổn hại cho môi trường xung quanh. Cùng với những ưu điểm nổi trội của nó, phương pháp thu phí xả thải hay đánh thuế trên đơn vị xả thải đã được áp dụng khá phổ biến trên thế giới, tuy nhiên ở Việt Nam thì vẫn còn là một biện pháp mới mẻ, chưa áp dụng phổ biến trong xã hội. Cần nhiều hơn nữa các công trình nghiên cứu, đánh giá tác động và hiệu quả kinh tế để biện pháp này thực sự đi vào cuộc sống. 2. Giấy phép xả thải có thể chuyển nhượng được: Giấy phép xả thải có thể chuyển nhượng được hay còn gọi là “Côta gây ô nhiễm” là một loại giấy phép xả thải chất thải mà thông qua đó, nhà nước công nhận quyền các nhà máy, xí nghiệp, v.v... được phép thải các chất gây ô nhiễm vào môi trường. Nhà nước xác định tổng lượng chất gây ô nhiễm tối đa có thể cho phép thải vào môi trường, sau đó phân bổ cho các nguồn thải bằng cách phát hành những giấy phép thải gọi là côta gây ô nhiễm và chính thức công nhận quyền được thải một lượng chất gây ô nhiễm nhất định vào môi trường trong một giai đoạn xác định cho các nguồn thải. Khi có mức phân bổ côta gây ô nhiễm ban đầu, người gây ô nhiễm có quyền mua và bán côta gây ô nhiễm. Họ có thể linh hoạt chọn lựa giải pháp giảm thiểu mức phát thải chất gây ô nhiễm với chi phí thấp nhất: Mua côta gây ô nhiễm để được phép thải chất gây ô nhiễm vào môi trường hoặc đầu tư xử lý ô nhiễm để đạt tiêu chuẩn cho phép. Nghĩa là những người gây ô nhiễm mà chi phí xử lý ô nhiễm thấp hơn so với việc mua côta gây ô nhiễm thì họ sẽ bán lại côta gây ô nhiễm cho những người gây ô nhiễm có mức chi phí cho xử lý ô nhiễm cao hơn. Như vậy, sự khác nhau về chi phí đầu tư xử lý ô nhiễm sẽ thúc đẩy quá trình chuyển nhượng côta gây ô nhiễm. Thông qua chuyển nhượng, cả người bán và người mua côta gây ô nhiễm đều có thể giảm được chi phí đầu tư cho mục đích bảo vệ môi trường, đảm bảo được chất lượng môi trường. Có thể nói, việc sử cota gây ô nhiễm xét về phương diện đạo đức là một điều có hại cho xã hội và không nên làm vì việc chính quyền công nhận quyền gây ô nhiễm của các nhà máy xí nghiệp như một điều hiển nhiên và xã hội đành phải chấp nhận hậu quả của nó như là một sự thật không thể tránh khỏi tất nhiên là chỉ trong một giới hạn cho phép. Tuy nhiên, trong thực tế biện pháp này lại là phương án lựa chọn mang lại hiệu quả xã hội cao hơn so với các biệc pháp khác vì với phương pháp quản lý theo số lượng giấy phép xả thải được cấp phép, công tác giám sát sẽ được giảm tải đi rất nhiều và công việc của nhà chức trách cũng đơn giản hơn, đỡ tốn chi phí hơn. Ngoài ra, động lực chính để các chủ thể kinh tế lựa chọn chính là lợi ích kinh tế mà họ nhận được. Với khả năng có thể chuyển nhượng được của giấy phép, doanh nghiệp sẽ tìm cách tối thiểu hóa chi phí xử lý nước thải của mình bằng cách chọn lựa phương án có lợi nhất là đầu tư vào công nghệ xử lý hay đi mua giấy phép để được xả thải… Cũng chính từ đó, nguồn lực xã hội sẽ được phân bổ hiệu quả hơn. 3. Trợ cấp: Trợ cấp là việc chính phủ sử dụng ngân sách của mình để hỗ trợ doanh nghiệp gây ô nhiễm đầu tư vào cải tiến, nâng cao công nghệ trong xử lý nước thải, cải tiến quy trình sản xuất mang lại năng suất cao hơn, nhưng đồng thời chi phí cũng rẻ hơn và quan trọng là thải ít chất thải hơn ra môi trường. Cũng giống như giấy phép xả thải và phí ô nhiễm, phương pháp này còn khá mới mẻ với chúng ta và có lẽ chỉ thích hợp với những nước giàu, chính phủ có ngân sách lớn, sẵn sàng tiến hành trợ cấp cho doanh nghiệp như ở Anh, Mỹ, Canada… II. Các biện pháp hành chính: 1. Xây dựng, hoàn thiện dần luật môi trường và các quy định tiêu chuẩn xả thải ra môi trường: Hiện nay luật môi trường của Việt Nam nói chung và môi trường nước nói riêng vẫn còn mang tính mới mẻ, chưa được chặt chẽ và đây là kẽ hở để những công ty sản xuất vì theo đuổi lợi nhuận tối đa mà sẵn sàng lợi dụng để luồn lách, tìm cách vi phạm để xả thải trực tiếp nguồn nước thải chưa qua xử lý ra môi trường, gây ô nhiễm sông ngòi, kênh rạch, làm ảnh hưởng nghiêm trọng tới đời sống dân cư xung quanh nhà máy, khu công nghiệp, gây ra những hệ lụy nghiêm trọng về môi trường, có thể phải mất hàng thập kỷ để khắc phục mà sự kiện của công ty Vedan vừa qua cũng là một ví dụ. Do đó, cần tăng cường hoàn thiện khung pháp lý và các quy định về tiêu chuẩn môi trường nước, đồng thời xây dựng chế tài xử phạt phù hợp đối với những trường hợp xả thải trái pháp luật làm ô nhiễm nghiêm trọng môi trường nước. 2. Tăng cường công tác giám sát hoạt động xả thải của các khu công nghiệp: Các cơ quan quản lý nhà nước cũng như các ban quản lý khu công nghiệp, khu chế xuất thường xuyên phối hợp với các cơ quan chức năng như phòng tài nguyên môi trường, cảnh sát môi trường… tăng cường giám sát hoạt động sản xuất, xả thải của các nhà máy xem có đúng quy trình cam kết và đạt tiêu chuẩn xả thải hay không. Đồng thời, nhanh chóng phát hiện và kiên quyết tố cáo bất kỳ nhà máy náo có hành vi cố tình vi phạm pháp luật như xả thải trực tiếp ra sông hồ,kênh rạch…để xử lý một cách nghiêm khắc, ngăn chặn hiệu ứng lan tỏa như hiệu ứng Vedan. III. Các biện pháp khác: 1. Nâng cao ý thức bảo vệ môi trường của nhân dân, cùng nhau giám sát việc xả thải của các khu công nghiệp: Cần tăng cường, đẩy mạnh hoạt động giáo dục, truyền thông, giáo dục ý thức cộng đồng về tác hại của ô nhiễm môi trường, đặc biệt là môi trường nước nhằm giúp người dân hiểu rõ hơn những hậu quả nghiêm trọng đối với sức khỏe mà ô nhiễm nguồn nước mang lại để mỗi người tự ý thức tốt hơn hành vi của mình nhằm bảo vệ một môi trường chung cho toàn xã hội, đoàn kết cùng nhau giám sát quá trình hoạt độn\, xử lý nước thải và xả thải ra môi trường tại các khu công nghiệp, cùng với chính quyền địa phương hình thành mặt trận đoàn kết trong công tác bảo vệ môi trường hướng tới một môi trường xanh sạch đẹp vì cộng đồng. 2. Khuyến khích đầu tư, đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng công tác xử lý nước thải: Để công tác bảo vệ môi trường thực sự thành công, đòi hỏi phải có cả sự hợp tác cả từ phía các doanh nghiệp. Bên cạnh việc theo đuổi lợi nhuận tối đa, các doanh nghiệp, nhà máy cũng cần phải tăng cường đầu tư vào hệ thống xử lý nước thải ngày càng hiện đại hơn, đảm bảo sao cho việc gia tăng sản xuất và theo đuổi lợi nhuận nhưng không làm đe dọa tới môi trường sống, đây cũng là một trong những khía cạnh cốt lõi của sự phát triển bền vững. KẾT LUẬN Giá trị mà các nguồn nước đem lại không chỉ dừng lại ở giá trị kinh tế: sản lượng thủy hải sản đóng góp vào GDP, vào kim ngạch xuất nhập khẩu mỗi năm,...mà còn là giá trị xã hội: môi trường sống của sinh vật, khu dân sinh,... Chúng ta không có con số chính xác rằng: cứ mỗi một tấn chất thải công nghiệp đổ xuống sông, thì bao nhiêu sản phẩm từ nguồn nước sụt giảm, cũng không có một biểu đồ cụ thể nào thể hiện rõ ràng mối tương quan giữa thiệt hại do ô nhiễm môi trường với thiệt hại về kinh tế. Tuy nhiên, hơn ai hết, chúng ta biết rõ những thiệt hại đó là vô cùng to lớn, và chúng ta đã, đang gánh lấy hậu quả của việc phát triển các khu công nghiệp, khu chế xuất một cách ồ ạt. Sụt giảm sản lượng, gia tăng bệnh tật, và sự phát triển không bền vững sẽ ngày càng sâu sắc nếu như không có biện pháp bảo vệ môi trường đúng đắn và kịp thời ngay từ bây giờ. MỤC LỤC CHƯƠNG MỘT: CƠ SỞ LÝ THUYẾT Khái niệm yếu tố ngoại vi Trang 3 Phân loại yếu tố ngoại vi Trang 3 Sự tác động của yếu tố ngoại vi tiêu cực Trang 3 Định lý Ronal Coase và sự thất bại của thị trường tư nhân Trang 4 Hệ thống biện pháp khắc phục sự tác động ngoại vi Trang 4 CHƯƠNG HAI: THỰC TRẠNG CỦA VIỆC XẢ THẢI Ở CÁC KHU CÔNG NGHIỆP Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Thực trạng của việc xả thải ở các khu công nghiệp ở TP HCM: Trang 8 Những tác hại của chất thải: Trang 12 CHƯƠNG BA: ĐỀ XUẤT MỘT SỐ BIỆN PHÁP KHẮC PHỤC NGOẠI VI TIÊU CỰC CỦA VIỆC XẢ THẢI Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Biện pháp kinh tế Trang 16 Biện pháp về hành chính và pháp luật: Trang 16 Các biện pháp khác Trang 18 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Giáo trình Kinh tế môi trường, chủ biên: Nguyễn Thuấn, 2005 Báo cáo môi trường quốc gia năm 2009: Môi trường khu công nghiệp Việt Nam

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docngo7841i tc tiu c7921c.doc
Tài liệu liên quan