MỤC LỤC
I. Khái quát
II. Nội dung
1. Khái niệm và đặc trưng cơ bản của văn bản
1.1. Khái niệm văn bản
1.2. Đặc trưng cơ bản của văn bản
1.2.1. Tính chỉnh thể
1.2.2. Tính liên kết
1.2.3. Tính mục đích
2. Các loại văn bản
3. Đặc điểm ngôn ngữ của văn bản báo chí và một số lưu ý trong quá trình biên tập
3.1. Đặc điểm ngôn ngữ của văn bản báo chí
3.2. Một số lưu ý trong quá trình biên tập
3.2.1. Biên tập là gì?
3.2.2. Một số lưu ý trong quá trình biên tập
III. Kết luận
TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. Khái quát
Trong thời đại thông tin bùng nổ, vai trò của người biên tập ngày càng quan trọng. Xã hội phát triển, trình độ của mỗi người nâng cao, nhu cầu về tinh thần trong đó có nhu cầu thưởng thức các tác phẩm ngày càng cao. Do đó, với một tác phẩm thuộc bất kì loại văn bản nào cũng cần có những con người cần mẫn chỉ ra từng lỗi sai dù nhỏ nhất để đưa tới người đọc với chất lượng cao nhất. Vì thế, việc chỉ ra từng đặc điểm của mỗi loại văn bản và cách biên tập từng loại văn bản là vấn đề trở nên cấp thiết.
Vì điều kiện không cho phép nên trong bài tiểu luận này chúng tôi không thể phân tích kĩ đặc điểm của từng loại văn bản và cách biên tập cho từng loại, mà chúng tôi chỉ dẫn ra những đặc trưng của văn bản và kể tên các loại văn bản mà các tác giả đã phân chia. Sau đó, chúng tôi đi vào đào sâu đặc điểm của một loại văn bản là văn bản báo chí. Để phân tích đặc điểm loại văn bản này, chúng tôi đã tiến hành khảo sát trên một số báo (Tiền Phong, Thanh Niên, Hạnh Phúc Gia Đình) để lấy dẫn chứng minh hoạ cho từng luận điểm đưa ra. Từ những đặc điểm đó chúng tôi đưa ra một số lưu ý trong quá trình biên tập một tác phẩm nói chung mà cụ thể là tác phẩm báo chí.
21 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2365 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Các loại văn bản và một số lưu ý trong quá trình biên tập, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Các loại văn bản và một số lưu ý trong quá trình biên tập
I. Khái quát
Trong thời đại thông tin bùng nổ, vai trò của người biên tập ngày càng quan trọng. Xã hội phát triển, trình độ của mỗi người nâng cao, nhu cầu về tinh thần trong đó có nhu cầu thưởng thức các tác phẩm ngày càng cao. Do đó, với một tác phẩm thuộc bất kì loại văn bản nào cũng cần có những con người cần mẫn chỉ ra từng lỗi sai dù nhỏ nhất để đưa tới người đọc với chất lượng cao nhất. Vì thế, việc chỉ ra từng đặc điểm của mỗi loại văn bản và cách biên tập từng loại văn bản là vấn đề trở nên cấp thiết.
Vì điều kiện không cho phép nên trong bài tiểu luận này chúng tôi không thể phân tích kĩ đặc điểm của từng loại văn bản và cách biên tập cho từng loại, mà chúng tôi chỉ dẫn ra những đặc trưng của văn bản và kể tên các loại văn bản mà các tác giả đã phân chia. Sau đó, chúng tôi đi vào đào sâu đặc điểm của một loại văn bản là văn bản báo chí. Để phân tích đặc điểm loại văn bản này, chúng tôi đã tiến hành khảo sát trên một số báo (Tiền Phong, Thanh Niên, Hạnh Phúc Gia Đình) để lấy dẫn chứng minh hoạ cho từng luận điểm đưa ra. Từ những đặc điểm đó chúng tôi đưa ra một số lưu ý trong quá trình biên tập một tác phẩm nói chung mà cụ thể là tác phẩm báo chí.
II. Nội dung
1. Khái niệm và đặc trưng cơ bản của văn bản
1.1. Khái niệm văn bản
Văn bản là sản phẩm của hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ. Nó vừa là sản phẩm vừa là phương tiện của hoạt động gia tiếp. Văn bản được dùng để chí sản phẩm giao tiếp ở cả dạng nói và dạng viết. Nhưng thường nó chỉ biểu hiện ở dạng viết.
Văn bản thường bao gồm tập hợp nhiều câu được liên kết với nhau theo những phương thức nhất định. Trong trường hợp đặc biệt nó có thể chỉ gồm một câu.
1.2. Đặc trưng cơ bản của văn bản
1.2.1. Tính chỉnh thể
Một văn bản dù dài hay ngắn nhưng đều là một thể thống nhất, hoàn chỉnh cả về nội dung và hình thức
Về nội dung: Văn bản phải trình bày một vấn đề trọn vẹn có tính nhất quán (có khả năng đặt tiêu đề) khiến người khác có thể hiểu được sự việc hay tư tưởng, tình cảm... mà anh muốn trình bày.
Tính trọn vẹn về nội dung có tính chất tương đối phụ thuộc vào nhiều nhân tố của hoạt động giao tiếp và hoàn cảnh giao tiếp
Về hình thức: Đối với một văn bản lớn, tính hoàn chỉnh về hình thức bộc lộ ở kết cấu, có đủ các phần: Tiêu đề, phần mở, phần thân, phần kết.
Đối với văn bản hành chính: Phần mở đầu và kết thúc không thể hiện rõ mà chỉ có dấu hiệu về chữ viết. Hoặc nó có thể được nhận diện bằng dấu hiệu: không cần thêm vào trước hoặc sau văn bản một câu hay một bộ phận nào khác vì văn bản đã hoàn chỉnh.
1.2.2. Tính liên kết
Đó là mối quan hệ chặt chẽ giữa các câu, giữa các đoạn, giữa các phần, các bộ phận của văn bản.
Tính liên kết này cũng là cơ sở để tạo nên tính chỉnh thể của văn bản. Tính liên kết thể hiện ở cả hai phương diện của văn bản là liên kết nội dung và phương tiện hình thức của sự liên kết
1.2.3. Tính mục đích
Mỗi văn bản đều hướng tới một mục tiêu nhất định. Nó trả lời cho câu hỏi: Văn bản viết ra nhằm mục đích gì? Viết để làm gì? Chính tính mục đích đã quy định việc lựa chọn chất liệu nội dung, việc tổ chức chất liệu nội dung và việc lựa chọn phương tiện ngôn ngữ và tổ chức văn bản theo cách thức nhất định.
Như vậy, văn bản là sản phẩm của hoạt động giao tiếp ngôn ngữ ở dạng viết, thường là tập hợp của các câu, có tính trọn vẹn về nội dung, hoàn chỉnh về hình thức, có tính liên kết chặt chẽ và hướng tới một mục tiêu giao tiếp nhất định
2. Các loại văn bản
Tuỳ theo từng quan điểm khác nhau, với những tiêu chí khác nhau mà mỗi tác giả có sự phân chia văn bản thành từng loại khác nhau. Ở đây, chúng tôi trích dẫn ra hai quan điểm phân loại văn bản, đó là quan điểm của các tác giả cuốn Tiếng Việt thực hành (Bùi Minh Toán, Lê A, Đỗ Việt Hùng) và quan điểm của Đinh Trọng Lạc
Trước hết theo các tác giả Bùi Minh Toán, Lê A, Đỗ Việt Hùng thì văn bản có thể được chia thành 6 loại là: văn bản khoa học, văn bản hành chính, văn bản nghị luận, văn bản báo, văn bản nghệ thuật và văn bản sinh hoạt. Cách phân chia này cũng tương đối thống nhất với cách phân chia của PGS.TS Hữu Đạt trong cuốn “phong cách học Tiếng Việt hiện đại”. Điểm khác nhau chỉ là ở cách gọi tên, tác giả Hữu Đạt gọi phong cách “khẩu ngữ tự nhiên” thay cho cách gọi “văn bản sinh hoạt” của nhóm tác giả trên. Hay tác giả Hữu Đạt gọi phong cách “hành chính công vụ” thay cho cách gọi “văn bản hành chính” ở trên. Các giả tác này phân chia văn bản theo một bộ tiêu chí đó là: Dựa trên chức năng giao tiếp, hình thức thể hiện và phạm vi giao tiếp.
Đinh Trọng Lạc chia văn bản ra làm hai nhóm lớn theo tiêu chí mô hình cấu trúc:
Nhóm thứ nhất: gồm những văn bản được xây dựng theo các mô hình nghiêm ngặt đã trở thành khuôn mẫu (đơn từ, biên lai,...)
Nhóm thứ hai: gồm những văn bản được xây dựng theo các mô hình mềm dẻo có tính chất thông dụng (bài báo, luận văn,...) hay tự do (văn bản nghệ thuật, tuỳ bút...)
3. Đặc điểm ngôn ngữ của văn bản báo chí và một số lưu ý trong quá trình biên tập
3.1. Đặc điểm ngôn ngữ của văn bản báo chí
Báo chí là lĩnh vực tác động trực tiếp tới công chúng, đồng thời đề cập và phản ánh các khía cạnh của ngôn ngữ chuẩn mực.
Nét đặc trưng bao trùm của ngôn ngữ báo chí là có tính sự kiện. Chính tính sự kiện đã tạo nên cho ngôn ngữ báo chí các tính chất cụ thể như:
Thứ nhất: Tính chính xác
Ngôn ngữ của bất kì phong cách nào cũng cần phải đảm bảo tính chính xác. Nhưng với ngôn ngữ báo chí, tính chất này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Vì báo chí có chức năng định hướng dư luận xã hội. Chỉ cần một sơ suất dù nhỏ nhất về ngôn từ cũng có thể làm cho độc giả khó hiểu hoặc hiểu sai thông tin. Từ đó có thể gây ra những hậu quả nghiêm trọng.
Ví dụ: Báo Thanh Niên số 318 (14/11/2007) có bài “Khoảng 20.000 người bị lừa với số tiền 160 tỉ đồng” có viết “Một cán bộ công an cho biết, tất cả các dự án đầu tư của công ty Trí Việt đều không có căn cứ và có thể đó là chỉ để lừa người tham gia. Công ty này đăng ký kinh doanh với nhiều ngành nghề, nhưng không có ngành nghề nào là đầu tư tài chính. Như một số công ty đầu tư tài chính qua mạng như Colony, Cally...tất cả tiền trả cho thành viên đều là tiền lấy từ thành viên mới trả cho thành viên cũ”. Khi đọc đến đây người đọc thấy rối rắm, khó hiểu. Có thể hiểu theo kiểu “công ty Trí Việt không đầu tư tài chính như công ty Colony, Cally”. Cũng có thể hiểu “công ty Colony, Cally thuộc Công ty Trí Việt không đầu tư tài chính”...Những câu văn có ý nghĩa mơ hồ này cần được chỉnh sửa để người đọc dễ tiếp nhận. Có thể diễn đạt lại những câu trên như sau: “...Công ty này đăng ký kinh doanh với nhiều ngành nghề, nhưng không có ngành nghề nào là đầu tư tài chính. Một số công ty gọi là đầu tư tài chính qua mạng như Colony, Cally...nhưng trên thực tế tất cả tiền trả cho thành viên đều là tiền lấy từ thành viên mới trả cho thành viên cũ, không hề có sự đầu tư tài chính nào.”
Sử dụng ngôn từ trong tác phẩm một cách chính xác, nhà báo không chỉ đạt hiệu quả giao tiếp cao, mà còn góp phần không nhỏ vào việc giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt. Vì số lượng người tiếp nhận các sản phẩm của báo chí rất đông. Đa phần họ lại xem các cơ quan báo chí là “ngọn đèn” chỉ dẫn trong việc dùng ngôn từ. Do vậy, ngôn ngữ báo chí càng hoàn thiện thì tiếng Việt càng có điều kiện phát triển.
Thứ hai: Tính cụ thể
Tính cụ thể của ngôn ngữ báo chí trước hết thể hiện ở chỗ cái mảng hiện thực được nhà báo miêu tả, tường thuật cụ thể, cặn kẽ tới từng chi tiết nhỏ. Có như vậy, người đọc, người nghe mới có cảm giác mình là người trong cuộc, đang trực tiếp được chứng kiến những gì nhà báo nói tới trong tác phẩm của mình.
Ví dụ: Báo Thanh Niên số 181 (30/6/2007) có bài “Báo động về độc chất trong thực phẩm” có nhiều chi tiết tác giả thống kê số liệu rất cụ thể, chi tiết như “Theo Cục Thú y, tại TP.HCM và Đồng Nai, chỉ có khoảng 50-75% lò giết mổ heo đạt chỉ tiêu yêu cầu về các loại vi khuẩn E.coli, Salmonella, S.aureus...Ngoài ra, có 57.9 mẫu không đạt tiêu chuẩn về vi sinh vật, 21/90 mẫu không đạt chỉ tiêu về tồn dư kháng sinh, kim loại nặng...” hay “Trong số 2557 mẫu rau quả tại Tây Ninh, Tiền Giang, TP.HCM, Bến Tre và Bình Dương được xét nghiệm có 107 mẫu có mức tồn dư độc chất vượt mức cho phép, đặc biệt tại Bến Tre trong 190 mẫu phân tích thì đã có 151 mẫu có tồn dư...”
Bên cạnh đó, tính cụ thể của ngôn ngữ báo chí còn nằm ở việc tạo ra sự xác định cho đối tượng được phản ánh. Như thực tế cho thấy, mỗi sự kiện được đề cập trong tác phẩm báo chí đều phải gắn liền với một không gian, thời gian xác định (có tên tuổi, nghề nghiệp, chức vụ, giới tính...cụ thể). Đây là cội nguồn của sự thuyết phục, nhờ những yếu tố đó người đọc có thể kiểm chứng thông tin một cách dễ dàng. Do đó, trong báo chí nên hạn chế tối đa việc dùng các từ ngữ, cấu trúc mơ hồ kiểu như “một người nào đó”, “ở một nơi nào đó”, “vào khoảng”, “hình như”...
Ví dụ: Báo Thanh Niên số 318 (14/11/2007) có bài “Khoảng 20.000 người bị lừa với số tiền 160 tỉ đồng” cũng thể hiện đặc tính cụ thể của ngôn ngữ báo chí “Cũng trong chiều 12-11, Cơ quan cảnh sát điều tra- PC15, Công an Hà Nội đã ra lệnh triệu tập ghi lời khai của tổng giám đốc 2 công ty có dấu hiệu lừa đảo kinh doanh tiền qua mạng: Uông Thị Đông, sinh năm 1980, quê Cốc Lếu, Lào Cai, Tổng giám đốc Công ty Thời Đại (trụ sở ở nhà CT4-1, khu đô thị mới Mễ Trì Hạ, Từ Liêm, Hà ) và Vũ Đức Thọ, sinh năm 1984 làm Chủ tịch HĐQT kiêm Tổng giám đốc Công ty cổ phần thương mại đầu tư Trí Việt (trụ sở ở 83 đường Trường Chinh, văn phòng gia dịch ở toà nhà 262 Nguyễn Huy Tưởng, Thanh Xuân, Hà Nội).”
Thứ ba: Tính đại chúng
Báo chí là phương tiện thông tin đại chúng. Tất cả mọi người trong xã hội, không phụ thuộc vào nghề nghiệp, trình độ nhận thức, địa vị xã hội...đều là đối tượng phục vụ của báo chí. Báo chí vừa là nơi mọi người tiếp nhận thông tin, vừa là nơi họ có thể bày tỏ ý kiến của mình. Chính vì thế, ngôn ngữ báo chí phải là thứ ngôn ngữ dành cho tất cả và của tất cả. Tức là nó phải có tính phổ cập rộng rãi. Tuy nhiên, phổ cập rộng rãi không có nghĩa là dễ dãi, thấp kém. Nhà ngôn ngữ báo chí nổi tiếng người Nga V.G. Kostomarov đã nói: “Ngôn ngữ báo chí phải thích ứng với mọi tầng lớp công chúng sao cho một nhà bác học với kiến thức uyên thâm nhất cũng không cảm thấy chán và một em bé có trình độ còn non nớt cũng không thấy khó hiểu”.
Vì thế, trong tác phẩm báo chí người ta ít dùng các thuật ngữ chuyên ngành hẹp, các từ ngữ địa phương, tiếng lóng cũng như các từ ngữ vay mượn từ tiếng nước ngoài.
Thứ tư: Tính ngắn gọn
Ngôn ngữ báo chí cần ngắn gọn, súc tích. Sự dài dòng có thể làm loãng thông tin, ảnh hưởng đến hiệu quả tiếp nhận của người đọc, người nghe. Hơn nữa việc viết dài dòng dễ dẫn đến mắc nhiều lỗi khác, đặc biệt là lỗi về sử dụng ngôn từ.
Tính ngắn gọn thể hiện ngay trong tít bài. Nhiều khi người đọc chỉ cần lướt qua tiêu đề là có thể hiểu nội dung toàn bài. Báo Thanh Niên số 319 (15/11/2007) có bài “Bị truy tố vì gây thất thoát tài sản Nhà Nước 2,1tỉ đồng”- chỉ với hơn 10 âm tiết nhưng người đọc lĩnh hội được rất nhiều thông tin như: hậu quả (bị truy tố), nguyên nhân (gây thất thoát tài sản Nhà Nước), số lượng (2,1 tỉ đồng) hay “Thu hồi 26 lô thuốc nhập khẩu không đảm bảo chất lượng”...
Câu nói nổi tiếng của đại văn hào Nga A.P.Chekhov có lẽ chính xác hơn cả với phong cách ngôn ngữ báo chí “Ngắn gọn là chị của thành công”.
Thứ năm: Tính định lượng
Các tác phẩm báo chí có tính định lượng về ngôn từ vì chúng thường bị giới hạn trong một khoảng thời gian hay một diện tích nhất định. Vì thế, việc lựa chọn và sắp xếp các thành tố ngôn ngữ cần kĩ lưỡng, hợp lí để phản ánh được đầy đủ lượng sự kiện mà không vượt quá khung cho phép về không gian và thời gian.
Ví dụ: Qua khảo sát 20 số trên chuyên mục Kinh tế của báo Thanh Niên, chúng tôi thấy số lượng âm tiết trong mỗi bài cũng như số lượng bài phản ánh về Kinh tế trong mỗi số báo khá ổn định. Cho dù số lượng bài là bao nhiều thì mỗi số báo cũng chỉ dành đúng 1 trang cho mục này (trang 4).Trên mỗi số báo thường có từ 3 tới 6 bài. Nó có thể là 2 bài dài và một bài vừa hoặc 1 bài dài và 4 đến 5 bài ngắn, hoặc 1 bài dài và 2 đến 3 bài vừa. Bài dài từ 800 đến 1000 âm tiết, bài vừa từ 400 đến 600 âm tiết, bài ngắn khoảng 100 đến 300 âm tiết,
Số 176 có 3 bài, trong đó có 2 bài dài và một bài vừa, hai bài dài gồm 988 âm tiết ( Khoảng 20.000 người bị lừa với số tiền 160 tỉ đồng) và 900 âm tiết (Xung quanh chuyện doanh nhân “xin ở tù”), một bài vừa 570 âm tiết (“Bánh vẽ” của ông chủ dự án Vip-Việt)
Số 242 (30/8/207) có 6 bài gồm 1 bài dài 964 âm tiết (Mua nhà chung cư, phải đòi giấy “chứng nhận chất lượng”!) và 5 bài ngắn, 216 âm tiết (Chủ tịch xã tự ý cho doanh nghiệp tư nhân khai thác vàng sa khoáng), 166 âm (Hoàn thành cọc khoan cuối cùng gói thầu Cảng xuất sản phẩm), 105 âm tiết (Hơn 80 ngàn lít nước tương có 3-MCPD vẫn nằm chờ tiêu huỷ), 200 âm tiết (Xét xử phúc thẩm vụ tranh chấp thành viên tại khách sạn 5 sao Park Hyat Saigon) và 160 âm tiết (Dừng tàu hoả để cấp cứu người bị nạn).
Tính định lượng của ngôn ngữ báo chí giúp nhà báo rèn luyện được thói quen chủ động trong việc sáng tạo tác phẩm.
Thứ sáu: Tính bình giá
Các tác phẩm báo chí không chỉ đưa thông tin về các sự kiện mà còn phải thể hiện công khai thái độ của tác giả đối với sự kiện thông qua sự bình giá (trừ thể loại tin vắn, tin ngắn). Sự bình giá này có thể là tích cực hoặc tiêu cực, trong bất kì tình huống nào nó cũng được biểu đạt trực tiếp qua ngôn từ.
Có nhiều bài báo đã bộc lộ rõ thái độ, cảm xúc của tác giả ngay từ tiêu đề. Báo Thanh Niên số 176 (25/6/2007) có bài “Hàng tỉ đồng “đền bù giải toả” đi đâu?” hay “Vì sao UBND tỉnh Ninh Bình cản trở một dự án ODA lớn?” Hai bài này đều thể hiện thái độ bất bình của tác giả trước những sự việc “tiêu cực” trong thực tế.
Thứ bảy: Tính biểu cảm
Tính biểu cảm trong ngôn ngữ báo chí gắn liền với việc sử dụng các từ ngữ, lối nói mới lạ, giàu hình ảnh, in đậm dấu ấn cá nhân. Từ đó gây ấn tượng với độc giả.
Nguồn gốc của sự biểu cảm trong ngôn ngữ báo chí rất phong phú và đa dạng. Đó có thể là việc dùng các thành ngữ, tục ngữ, ca dao...hay sự vay mượn các hình ảnh, từ ngữ, cách diễn đạt từ các tác phẩm văn học nghệ thuật như: lối chơi chữ, nói lái, ẩn dụ...hoặc chỉ đơn giản là việc thể hiện sự bình giá có tính cách cá nhân
Trên báo “Hạnh phúc gia đình” số 40 (5/10/2007) có bài “Mắt liếc, tình trao, phó trọn đời” sử dụng từ ngữ rất biểu cảm như: “Yêu nhau si mê như người Việt bảo: “Còn đêm nay nữa mai đi, lạng vàng chẳng tiếc tiếc khi ngồi kề”. Hay trích thơ của của nhà thơ lớn như “Da thịt trời ơi trắng rợn mình...” (Hàn Mạc Tử).
Thứ tám: Tính khuôn mẫu
“Khuôn mẫu” chính là những công thức ngôn từ có sẵn, được sử dụng lặp đi lặp lại nhằm tự động hoá quy trình thông tin, làm cho nó trở nên nhanh chóng, thuận tiện hơn. Khuôn mẫu bao giờ cũng đơn nghĩa và mang sắc thái biểu cảm trung tính.
Giao tiếp báo chí không thể thiếu khuôn mẫu vì nó tiết kiệm thời gian và công sức cho chủ thể sáng tạo thích ứng với việc đưa tin cập nhật, tức thời.
Báo Thanh Niên số 200 (19/7/2007) trong bài “Mỗi ngày có khoảng 1-2 tấn sản phẩm từ gia cầm lậu” sử dụng nhiều tính khuôn mẫu trong tin tức như “Thông tin từ Bộ Y tế ngày 18.7 cho biết, theo báo cáo của đoàn kiểm tra liên ngành về thực phẩm đang được thực hiện tại tỉnh Lạng Sơn, trong năm 2006, ước tính mỗi ngày có khoảng 5-6 tấn gia cầm nhập lậu vào Việt Nam”. Hay trong “Một trường hợp ăn gia cầm chết phải nhập viện” số 177 (26/6/2007) có viết “Hôm qua, nguồn tin từ Ban chỉ đạo phòng chống cúm gia cầm tỉnh Bạc Liêu cho biết, đã chính thức ghi nhận có nhiều đàn vịt chạy đồng bị chết hàng loạt trên địa bàn tỉnh”
Tính khuôn mẫu trong văn phong báo chí khác tính khuôn mẫu trong văn bản hành chính và văn bản khoa học. Khuôn mẫu trong phong cách báo chí không cứng nhắc, bất di bất dịch mà rất linh hoạt, uyển chuyển.
3.2. Một số lưu ý trong quá trình biên tập
3.2.1. Biên tập là gì?
Biên tập là hoạt động tổ chức biên soạn các tác phẩm (bản thảo) đồng thời góp phần hạn chế những sai sót để nâng cao chất lượng của tác phẩm.
Công việc biên tập là công việc cốt lõi, cơ bản của hoạt động xuất bản, là công việc xuyên suốt của quá trình xuất bản, từ khai thác bản thảo đến khi xuất bản phẩm phát huy tác dụng trong thực tế.
3.2.2. Một số lưu ý trong quá trình biên tập
Người biên tập một tác phẩm trong bất kì loại văn bản nào trong đó có biên tập trong văn bản báo chí cần phải tuân theo một số nguyên tắc đó là:
* Điều muốn truyền đạt phải sáng sủa, dễ hiểu
Khi soạn thảo một cái sườn thì phải lựa chọn, sắp xếp theo thứ tự và loại trừ những chi tiết không quan trọng. Đó là việc hữu ích cho việc chọn tít và lời mào đầu. Đó cũng là sự dẫn dắt chắc chắn cho một dàn bài của bài báo.
Một bài báo hay một tác phẩm thuộc loại văn bản nào cũng đều là một bức thông điệp chủ yếu và chỉ có một. Nếu không thể tóm tắt tác phẩm bằng một vài từ thì có nghĩa người viết không biết làm rõ điều người ta muốn thông tin. Nếu chủ đề gồm nhiều thông tin chính thì nên xử lí riêng biệt từng thông tin, bằng nhiều bài khác nhau.
Chính vì thế, đa phần các bài báo đều có đầu đề là sự khái quát lại nội dung của toàn văn bản.
Trên báo Tiền Phong số 155 (5/8/2005) có bài “Một triệu phú đô la từng là tù nhân”. Đây vừa là đầu đề vừa là luận điểm lớn của bài, bao gồm các luận điểm nhỏ là các tít phụ như:
Ngồi tù nhưng không quên chuyện kinh doanh
Làm lại từ hai bàn tay trắng.
Hai tít phụ này chính là sự triển khai các ý để chứng minh và làm rõ nội dung được nêu ở tít của văn bản. Nhờ có sự gắn bó chặt chẽ giữa đầu đề với phần nội dung của văn bản đã tạo nên tính logic chặt chẽ, tạo sự thuyết phục cho bài viết để thu hút sự quan tâm của độc giả.
Cũng trên báo Tiền Phong số 163 (13/8/2005) có bài “Lãng phí tiền tỷ do quy hoạch sai” có các tít phụ bám rất sát vào đầu đề và làm rõ cho từng phần của đầu đề: 1. Quy hoạch sai vị trí
2. Quy hoạch chen nhau
3. Thiệt hại vì không đồng bộ
* Bức thông điệp phải được tiếp nhận tốt
Tất cả các tác phẩm là một bức thông điệp gửi tới độc giả. Để bức thông điệp này được tiếp nhận và hiểu được thì trước hết phải rõ ràng. Cần nhớ một số nguyên tắc để bài báo được tiếp nhận tốt đó là:
+ Đối với các bài báo phải gắn với tính thời sự hoặc lợi ích của người nhận. Ví dụ: Báo Tiền Phong số 325 (21/11/2007) có đưa tin “Hôm nay (21/11), bế mạc kỳ họp thứ hai, Quốc hội khoá XII”. Như vậy, khi kì họp chưa diễn ra thì đã có tin trên báo. Điều này chứng minh tính thời sự có vai trò quan trọng đặc biệt đối với một bài báo.
+ Đối với các tác phẩm nói chung đều phải có cốt lõi: Trọng tâm của tác phẩm phải là một bức thông điệp chính và duy nhất.
+ Phải dễ đọc: Viết một tác phẩm phải để tất cả mọi người hiểu
+ Phải chính xác: Thông tin sử dụng trong tác phẩm phải chính xác nhất trong khả năng cho phép.
* Ngôn ngữ phải rõ ràng
Để ngôn ngữ trong một tác phẩm nói chung trong đó có tác phẩm báo chí được rõ ràng cần tuân theo những tiêu chuẩn rất cụ thể sau:
Thứ nhất: Hãy tôn trọng chính tả
Chính tả là một quy tắc nhưng cũng tuỳ tiện. Lỗi chính tả làm rối loạn sự tiếp nhận của độc giả. Nếu lỗi chính tả ngày càng tăng sẽ làm cho độc giả nghi ngờ về bài viết và chất lượng của thông tin.
Qua khảo sát 3 số báo (Số 8 ngày 23 /2 /2007; Số 40 ngày 5/10/ 2007; Số 44 ngày 2/11/ 2007) trên “Hạnh phúc gia đình” chúng tôi đã thống kê được 121 lỗi sai về chính tả (số liệu cụ thể trong bài giữa kì “Sửa lỗi sai về các vấn đề chính tả”). Như vậy, riêng về phương diện chính tả trung bình mỗi số báo đã có tới 40 lỗi sai. Đó là con số quá lớn đối với một tờ báo được nhiều người biết đến như báo “Hạnh phúc gia đình”.
Trong các lỗi sai về chính tả thì lỗi sai về vần có số lượng nhiều nhất (56 lỗi, chiếm 46% tổng số lỗi sai).
Ví dụ: bắtÒ bất (Em bị đau ruột thừa, anh trở thành thân nhân bắt đắc dĩ cho em ngày hôm đó... trong “Cầu thang không dành cho hai người”).
ThẳmÒ Thảo (Thẳm nào những tối thứ bảy Liên đều vắng mặt... trong “Tình yêu hay sự ngộ nhận”)
Tiếp theo là lỗ sai về thanh điệu, có 24 lỗi sai, ví dụ: chứÒ chữ (Kỵ bước chân chứ bát)
Lỗi sai về phụ âm đầu có 16 lỗi.
Ví dụ: chọnÒtrọn (Liên vẫn đến tiễn Dũng và mong đợt công tác của anh không kéo dài để tiệc cưới của cô được chọn vẹn hơn... trong “Tình yêu hay sự ngộ nhận”);
xótÒsót (Có bạn còn lý sự rằng, “nhầm còn hơn bỏ xót”... trong “Cuồng ghen tình tan vỡ”)
phốiÒ khối (điều khiển xe phân phối lớn... trong “Đừng để cảm xúc đánh lừa tình yêu”)
Lỗi sai về viết hoa có 14 lỗi. Lỗi về phiên âm tiếng nước ngoài tương 6 lỗi. Ngoài ra, có 3 loại lỗi khác...
Thứ hai: Hãy chú ý đến ngữ pháp
Trong ngôn ngữ, cấu trúc thông thường của câu là chủ ngữ, vị ngữ, bổ ngữ, đó là cấu trúc dễ hiểu và dễ “đồng hoá” nhất. Đôi khi thay đổi cấu trúc cũng có những tác dụng bất ngờ nhưng sử dụng cấu trúc không thông thường đô khi làm cho việc tiếp nhận thông tin phức tạp hơn.
Trong các bài báo, tít bài thường có sự thay đổi cấu trúc nên rất tạo ấn tượng cho người đọc. Đó có thể là một danh ngữ, động ngữ, hay tính ngữ mà không cần đầy đủ các bộ phận trong cấu trúc câu.
Ví dụ:
Tít là một danh ngữ:
“Ông chủ lò trên vùng lũ quét” (Tiền Phong số 228 ngày 16/11/2005).
“Làng của những tỉ phú trẻ” (Tiền Phong số 19 ngày 27/01/2005).
“Nước mắt người nuôi vịt” (Tiền Phong số 223 ngày 11/11/2005).
Tít là một động ngữ:
“Kiếm hàng triệu đô la từ bèo” (Tiền Phong số 152 ngày 2/8/2005).
“Bỏ phố lên rừng thành tỷ phú” (Tiền Phong số 246 ngày 16/12/2005).
“Làm giàu mùa nước nổi” (Tiền Phong số 181 ngày 10/9/2005).
Tít là một tính ngữ:
“Nhức nhối hàng lậu” (Tiền Phong số 193 ngày 28/9/2005).
“Buồn mất mùa, vui được giá” (Tiền Phong số 116 ngày 13/6/2005).
“Đắt hàng phân chim mùa dịch cúm” (Tiền Phong số 222 ngày 10/11/2005).
Thứ ba: Hãy viết những câu ngắn
Kinh nghiệm cho thấy, trong một câu dài trung bình từ 20 đến 30 âm tiết thì độc giả tiếp nhận nửa sau kém hơn phần trước. Đối với những câu khoảng 40 âm tiết thì phần hay của câu không được nhớ nữa. Điều đó đủ để chúng ta có thể phản đối viết những câu dài 50 tới 60 âm tiết và hơn nữa. Nếu như mỗi câu độc giả đều phải đọc lại thì phản xạ hàng ngày của họ sẽ bị bỏ rơi. Nhưng như thế cũng không có nghĩa là người ta chấp nhận một kiểu viết nhát gừng với những câu dưới 10 từ như một số nhà báo vẫn làm. Vì vậy, cần phải xen kẽ giữa những câu thật ngắn và câu dài nhất. Nhưng tối đa là 40 từ trong một câu. Đa phần báo chí hiện này đã tuân theo nguyên tắc này, nó tạo sự giả hứng thú với người đọc vì họ thấy dễ hiểu.
Báo Thanh Niên số 194 (13/7/2007) có bài “Nguyễn Văn Mười Hai làm lại cuộc đời” tác giả viết những câu ngắn xen với những câu vừa... “Mỗi lần nhắc lại chuyện nước hoa, Nguyễn Văn Mười Hai dều nói rằng: “Cái tay nghề nó vẫn nằm ở trong đầu.(23 âm tiết) Tôi đam mê, đam mê lắm”.(6 âm tiết) Nhưng khi được hỏi liệu ông có kế hoạch gầy dựng lại thương hiệu Thanh Hương, Nguyễn Văn Mười Hai cứ trầm ngâm rồi hỏi ngược lại chúng tôi: “Tôi có thể làm lại được không? Có thể được không?” (40 âm tiết)
hay“Thực ra, trong hoàn cảnh bây giờ mà ngồi gợi lại chuyện làm nước hoa, chúng tôi cũng rất sợ ông bị ám ảnh bởi quá khứ và sẽ nói “xin các anh đừng nhắc lại chuyện cũ”. (38 âm tiết) Nhưng riêng chuyện này thì chúng tôi đã dự đoán sai. (11 âm tiết) Ông trở nên rất sôi nổi và thậm chí không giấu giếm những chuyện đời mình”. (16 âm tiết).
Thứ tư: Sử dụng từ ngữ dễ hiểu
Sử dụng từ ngữ không thông dụng là một trở ngại khó khăn đối với độc giả, thính giả cũng như khán giả. Nếu như câu nào cũng vướng mắc thì coi như bỏ đi. Sử dụng những từ thông dụng hàng ngày tốt hơn là dùng những từ cao siêu.
Cần giải thích những từ viết tắt chữ đầu.
So sánh một con số với độ lớn mà người ta biết được là những phản xạ sơ đẳng và không thể thiếu của nhà báo cũng như nhà biên tập.
Một nguyên tắc vàng trong mọi trường hợp đó là không bao giờ sử dụng một từ mà chính người sử dụng không thật hiểu.
Thứ năm: Những nguyên tắc chấm câu
Dấu phẩy: Được dùng ở bên trong của một câu, giúp người đọc hay người nghe dừng lại một chút giữa những thành phần không gắn liền với nhau bằng các từ nối hoặc các liên từ.
Dấu phẩy cũng dùng để tách những từ trong câu có cùng vai trò ngữ pháp và đặc biệt trong những trường hợp liệt kê.
Dấu chấm phẩy: Sử dụng giữa hai thành phần của câu có cùng bản chất và tương đối dài. Thực tế nó làm cho câu nhẹ nhàng và dễ đọc. Các nhà báo thường thích dùng dấu chấm thay cho dấu chấm phẩy. Tác dụng chính của dấu chấm phẩy là dùng để tách các từ liệt kê khi đã được phân biệt rõ ràng.
Dấu hai chấm: được sử dụng để đưa lời nói của một nhân vật vào hoặc dẫn câu. Để đưa đến một sự giải thích, một ví dụ và sự diễn giải...
Dấu chấm hỏi: Dùng trong trường hợp kết thúc các câu hỏi trực tiếp. Người ta không dùng dấu chấm hỏi sau một câu hỏi gián tiếp.
Dấu chấm than: Dùng kết thúc ở các câu biểu thị sự ngạc nhiên, thán phục, sự an ủi và sự phẫn nộ. Nó thường được dùng với những từ cảm thán (này! a!), những hô ngữ, những mệnh lệnh mà qua đó người ta muốn nhấn mạnh.
Cần tránh lạm dụng dấu chấm than vì như vậy nó sẽ làm giảm đi những gì người ta muốn thể hiện và sẽ không có khả năng bộc lộ hết mọi suy nghĩ của họ với các từ.
Dấu chấm lửng: Kết thúc hoặc bỏ lửng một câu còn chưa kết thúc vì một vài lí do như ngắt quãng, do dự, xúc cảm, điều ẩn ý hoặc muốn kéo dài những ý nghĩ không muốn nói ra...
Dấu ngoặc kép được dùng trong những trường hợp: Trích lời dẫn và những lời nói sử dụng nguyên văn trong bài báo; Những từ hoặc cụm từ mà tác giả không muốn chịu trách nhiệm; Những từ mới, những từ hoặc cụm từ mà người ta muốn chỉ rõ đây là những từ nói lóng, ít người biết đến, từ kĩ thuật hoặc những nghĩa ít dùng.
Dấu ngoặc đơn dùng để tách một từ hoặc một câu mà nó có thể thiéu được trong nghĩa chung của câu, nó cung cấp một sự chính xác, một sự giải thích và nhắc lại làm cho người ta hiểu hơn.
Dấu ngoặc vuông là những dấu ngoặc đơn mở rộng. Trong báo chí, người ta sử dụng nó để phân biệt những lời bình luận tóm tắt của toà soạn sau một thông tin, một bức thư của độc giả...
Dấu ngoặc đơn và dấu ngoặc vuông cũng sử dụng để khép những gì mà người ta không muốn nói ra. Ví dụ: “không phải chúng tôi bỏ rơi anh ấy (chính anh ấy đã xa lánh chúng tôi)”
Dấu gạch nối, ngược lại với dấu ngoặc đơn (thu nhỏ lại), nó mở rộng thêm nghĩa của từ và đoạn văn. Ví dụ: “Sau tất cả-tôi đã chiến thắng-họ không có bất cứ một bằng chứng nào”.
Khi dấu gạch nối thứ hai đặt ở cuối câu, người ta không sử dụng nó mà thay bằng dấu chấm. Dấu gạch nối cũng được sử dụng để chỉ sự thay đổi của người nói trong một cuộc đối thoại và để đánh dấu những thành phần của một số đếm.
Xuống dòng dùng để nghỉ lâu hơn dấu chấm sau khi đã phát triển những ý kiến hoặc thông tin. “Xuống dòng” là một phương tiện hiệu quả giúp cho độc giả nghỉ ngơi và thể hiện được sự phát triển liên tục của bài báo.
* Luật gần xa.
Trước hết, mỗi người đều quan tâm đến những gì liên quan đến họ, ở gần họ. Chính vì lẽ đó mà trong nghề báo, người ta nhấn mạnh đến “luật ở gần”. “Ở gần” được thể hiện dưới những khía cạnh sau:
+ Gần về thời gian.
Trên báo Thanh Niên số 318 (14/11/2007) có bài “Khoảng 20.000 người bị lừa với số tiền 160 tỉ đồng” đã phản ánh sự kiện xảy ra vào trước thời gian tờ báo phát hành một ngày “Ngày 13.11, Cục Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự quản lý kinh tế và chức vụ, Bộ Công an đã phối hợp với công an các tỉnh, thành phố...đồng loạt tấn công vào các tổ chức hoạt động phạm tội lừa đảo tiền qua mạng, đặc biệt là chi nhánh trong hệ thống lừa đảo đầu tư tài chính “Colony Invest”.
Cũng trên báo Thanh Niên số 319 (15/11/2007) có bài “Bị truy tố vì gây thất thoát tài sản Nhà nước 2,1 tỉ đồng” phản ánh “Ngày 14.11 Viện KSND tỉnh Bình Định cho biết vừa tống đạt cáo trạng và ra quyết định truy tố trước TAND cùng cấp đối với...”
+ Gần về không gian
Trên các bài báo chúng ta dễ dàng bắt gặp những địa điểm rất gần gũi với chúng ta, đó có thể là tên đất nước, tên thủ đô, tên thành phố, tên bất cứ tỉnh nào trong nước, thậm chí cả tên đất nước khác nhưng quen thuộc với chúng ta.
Báo Thanh Niên số 319 (15/11/2007) có bài “Tấn công Website công ty, 5 phút là xong!” đã viết “Website của doanh nghiệp Việt Nam hiện nay, thậm chí của cơ quan nhà nước, rất dễ xâm nhập để thay đổi dữ liệu.”
Hay “Theo trung tâm an ninh mạng Bkis Đại học Bách khoa Hà Nội...”;
“Tại hội thảo về bảo mật trong công nghệ thông tin do hãng bảo mật quốc tế Mcafee tổ chức ngày 13.11 tại TP.HCM...”;
“Tại công ty của anh Thắng, thật bất ngờ, chúng tôi gặp lại Bùi Minh Trí, học sinh lớp 12 ở Vĩnh Long...”
“Phó chủ tịch Mcafee khu vực Đông Nam Á, Úc, New Zealand và Ấn Độ cho biết...”
Người ta cũng có thể đưa ra những cách khác trong luật gần gũi như:
+ Gần về mặt xã hội
+ Sự gần về mặt cảm xúc hoặc lợi ích con người
+ Sự nổi tiếng
+ Sự hiếm hoi
III. Kết luận
Như trên đã trình bày, văn bản văn bản là sản phẩm của hoạt động giao tiếp ngôn ngữ ở dạng viết, thường là tập hợp của các câu, có tính trọn vẹn về nội dung, hoàn chỉnh về hình thức, có tính liên kết chặt chẽ và hướng tới một mục tiêu giao tiếp nhất định. Văn bản có ba đặc trưng chính là: Tính chỉnh thể, tính liên kết và tính mục đích. Dựa trên tiêu chí về chức năng giao tiếp, hình thức thể hiện và phạm vi giao tiếp các tác giả đã chia văn bản thành 6 loại: văn bản khoa học, văn bản hành chính, văn bản nghị luận, văn bản báo, văn bản nghệ thuật và văn bản sinh hoạt.
Trong 6 loại văn bản trên, chúng tôi đi sâu phân tích đặc điểm ngôn ngữ của văn bản báo chí, có dẫn chứng cụ thể trên một số báo. Trên cơ sở đó chúng tôi đưa ra một số lưu ý trong quá trình biên tập. Văn bản báo chí bao gồm 8 đặc điểm:
1. Tính chính xác
2. Tính cụ thể
3. Tính đại chúng
4. Tính ngắn gọn
5. Tính định lượng
6. Tính bình giá
7. Tính biểu cảm
8. Tính khuôn mẫu
Có 4 nguyên tắc cần chú ý trong quá trình viết báo cũng như công tác biên tập:
Điều muốn truyền đạt phải sáng sủa, dễ hiểu
Bức thông điệp phải được tiếp nhận tốt
Ngôn ngữ phải rõ ràng
Luật gần xa.
Trong 4 nguyên tắc này thì nguyên tắc thứ ba “Ngôn ngữ phải rõ ràng” có ý nghĩa thiết thực nhất đối với mỗi người biên tập. Trong nguyên tắc này cần chú ý những vấn đề sau:
Thứ nhất: Hãy tôn trọng chính tả
Thứ hai: Hãy chú ý đến ngữ pháp
Thứ ba: Hãy viết những câu ngắn
Thứ tư: Sử dụng từ ngữ dễ hiểu
Thứ năm: Những nguyên tắc chấm câu
Bất kì ai muốn làm nhà báo hay một nhà biên tập tốt, trước hết cần nắm vững những đặc điểm của ngôn ngữ báo chí nói riêng cũng như đặc điểm của từng loại văn bản và hiểu một số quy tắc trong công tác biên tập. Nếu thực hiện tốt những vấn đề này sẽ giúp người biên tập nhanh chóng tìm ra những lỗi trong bản thảo cần sửa. Qua đó, tác phẩm sẽ chỉnh chu và hấp dẫn với người đọc.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bùi Minh Toán, Lê A, Đỗ Việt Hùng, Tiếng Việt thực hành, NXB Giáo dục, 2000.
2. Hoàng Anh, Một số vấn đề về sử dụng ngôn từ trên báo chí, NXB Lao động Hà Nội, 2003
3. Hữu Đạt, Phong cách học Tiếng Việt hiện đại, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2001
4. Hà Minh Đức, Báo chí những vấn đề lí luận và thực tiễn, NXB Giáo dục, 1994
5. Michel Voirol, Hướng dẫn cách biên tập, NXB thông tấn Hà Nội, 2003
6. Nguyễn Khánh Nồng, Để viết đúng Tiếng Việt, NXB Trẻ, 2006
7. Nguyễn Minh Thuyết, Nguyễn Văn Hiệp, Tiếng Việt thực hành, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2001
8. Nguyễn Tài Cẩn, Ngữ pháp Tiếng Việt, NXB Giáo dục, 1994
9. Vũ Quang Hào, Ngôn ngữ báo chí, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2001
10. Claudia Mast, Truyền thông đại chúng, công tác biên tập, NXB thông tấn Hà Nội, 2004
11. Trần Ngọc Thêm, Hệ thống liên kết văn bản Tiếng Việt, NXB Giáo dục, 1999
12. Tư liệu: báo Thanh Niên, Hạnh Phúc Gia Đình, Tiền Phong
MỤC LỤC
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- NN38-webtailieu.net.doc