Tiểu luận Chính sách tiền tệ và sự lựa chọn của Việt Nam

Lời nói đầu Trong bối cảnh nền kinh tế hiện nay, việc lựa chọn chính sách tiền tệ sao cho hợp lý là một trong những vấn đề làm đau đầu các nhà hoạch định kinh tế của mỗi quốc gia. Làm thế nào để có một tỷ lệ tăng trưởng cao mà hạn chế được tối đa lạm phát cho xã hội? Làm sao để đồng tiền của mình giữ vững được thế ổn định trên thị trường? Mỗi quốc gia có mỗi cách làm riêng, phù hợp với hoàn cảnh kinh tế xã hội của các nước đó. Việt Nam cũng không ngoại lệ, là một nước đang phát triển, Việt Nam cần lắm những sự lựa chọn đúng đắn để đưa đất nước đi lên. Là một quốc gia mới thực hiện đổi mới, cải cách kinh tế được hơn 20 năm, Việt Nam đã và đang từng bước đặt chân vào vòng xoay kinh tế của thế giới, nơi mà những sai sót nhỏ trong tính toán cũng có thể trở thành một thảm họa cho nền kinh tế. Nhận thức được tầm quan trọng của việc hoạch định chính sách tiền tệ, và sự ảnh hưởng trong việc điều hành nó tới từng lĩnh vực của đời sống, em đã chọn đề tài “ chính sách tiền tệ và sự lựa chọn của Việt Nam ” làm tiểu luận cho bộ môn Tài chính - Tiền tệ. Tiểu luận được hình thành với mục đích có một cái nhìn cơ bản về chính sách tiền tệ , đồng thời phân tích, đánh giá các mục tiêu, chính sách mà nước ta đã, đang thực hiện và kết quả thực tiễn của những chính sách ấy. Bên cạnh đó, đưa ra ý kiến, quan điểm phân tích tình hình tài chính trong nước của một số cá nhân và người viết. Với sự hạn chế về mặt kinh nghiệm và nhận thức, bài tiểu luận chắc chắn không tránh khỏi những sai sót. Em rất mong nhận được sự góp ý từ quý thầy cô và các bạn sinh viên để bài tiểu luận được hoàn thiện hơn. Xin chân thành cảm ơn ! Mục lục Lời nói đầu Phần I : Chính sách tiền tệ I. Vai trò . II. Mục tiêu 1. Mục tiêu cuối cùng 2. Mục tiêu trung gian . 3. Mối quan hệ giữa các mục tiêu . III. Công cụ 1. Công cụ trực tiếp 2. Công cụ gián tiếp 3. Một số công cụ khác Phần II: Sự lựa chọn của Việt Nam . I. Chính sách tài chính - tiền tệ với mục tiêu cân bằng kinh tế đối ngoại và hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam qua 20 năm đổi mới . 1. Chính sách tài chính 2. Chính sách tiền tệ II. Chính sách tài chính - tiền tệ với mục tiêu kiềm chế lạm phát kết hợp tăng trưởng kinh tế thời kì WTO 1. Giai đoạn 2005-2006: ưu tiên tăng trưởng .1 2. Giai đoạn 2007-2008: kiềm chế lạm phát 3. Quý IV-2008 : thắt chặt hay nới lỏng CSTT 4. Định hướng mục tiêu năm 2012 Chính sách tiền tệ và sự lựa chọn của Việt Nam : Thực trạng và giải pháp

pdf29 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 3322 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Chính sách tiền tệ và sự lựa chọn của Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
rái phiếu Nhà nước thường mang tính chất bắt buộc d/ Phát hành tiền trực tiếp cho ngân sách và cho đầu tư Khi ngân sách bị thiếu hụt, NHTW có thể phát hành tiền để đáp ứng nhu cầu chi tiêu của ngân sách. Biện pháp này dễ đưa đến lạm phát, thông thường biện pháp này được áp dụng để phát hành tiền cho đầu tư phát triển xem như là ứng trước cho sản xuất. Tóm lại, trong nền kinh tế thị trường các công cụ trực tiếp thường được áp dụng trong những trường hợp nhất định. NHTW thường sử dụng các công cụ gián tiếp để điều hành chính sách tiền tệ 2. Các công cụ gián tiếp a/ Quy định tỷ lệ dự trữ bắt buộc Là phương thức quản lý khối lượng tiền trong lưu thông bằng các quy định tỷ lệ mà các NHTM được phép cho vay khi nhận được 1 khối lượng tiền gửi, tỷ lệ dự trữ pháp định là tỷ lệ % trên số tiền gửi mà một NHTM nhận được phải gửi vào tài khoản tại NHTW hoặc 9 giữ tại ngân hàng theo quy định (cụ thể là tiền dự trữ bắt buộc của NHTM nằm tại kho bạc nhà nước). Với biện pháp này NHTW nắm được khối lượng tín dụng mà các NHTM và các tổ chức tín dụng khác cung cấp và có khả năng cung cấp cho nền kinh tế. Do đó NHTW có thể tác động trực tiếp đến khối lượng tín dụng bằng cách tăng hay giảm tỷ lệ dự trữ pháp định. Đi kèm với công cụ trên là giới hạn khối lượng tín dụng trên số tiền gửi nhận được: NHTW quy định giới hạn tỷ lệ tín dụng mà các NHTM có thể cung cấp khi nhận được 1 lượng tiền gửi, thông thường NHTW thường quy định tỷ lệ dư nợ tín dụng của các NHTM không được vượt qua bao nhiêu nhiêu lần so với vốn tự có. Biện pháp này có ưu điểm quy định được 1 khối lượng tín dụng vừa phải theo yêu cầu phát triển kinh tế có tính đến mối quan hệ giữa tiết kiệm và đầu tư. b/ Công cụ thị trường mở Nội dung của biện pháp này là NHTW tiến hành mua và bán các giấy tờ có giá trên thị trường tiền tệ theo mục tiêu của chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ. Trong trường hợp NHTW muốn tăng khối lượng tiền trong lưu thông NHTW sẽ mua vào 1 lượng chứng khoán nhất định, việc các NHTM bán chứng khoán cho NHTW sẽ làm tăng dự trữ cho các NHTM nhờ vào lượng tiền nhận được từ NHTW. Ngược lại, nếu NHTW muốn thu hẹp khối lượng tiền tệ NHTW sẽ bán ra 1 lượng chứng khoán nhất định . Ưu điểm là tác động trực tiếp đến dự trữ của các NHTM buộc các NHTM phải gia tăng hay giảm khối lượng tín dụng. Nhược điểm chỉ thực hiện được trong điều kiện các khoản tiền trong lưu thông đều nằm tại các NHTM. Công cụ này sẽ có hiệu quả cao hơn ở những nước có thị trường tài chính hoàn chỉnh, cơ chế thanh toán không dùng tiền mặt phát triển cao. c/ Biện pháp chiết khấu, tái chiết khấu và cho vay của NHTW Là hình thức cung cấp tín dụng của NHTW cho các NHTM trong điều kiện có thế chấp, chiết khấu, tái chiết khấu các giấy tờ có giá của các NHTM. Việc ấn định lãi suất cho vay, lãi suất chiết khấu, tái chiết khấu cao hay thấp có tác động đến khả năng cho vay của các NHTM và do đó làm cho khối cung tiền tệ tăng lên hay giảm đi. Ưu điểm: các khoản cho vay của NHTW đảm bảo thu được về. Việc cho vay gắn liền với 10 yếu cầu phát triển kinh tế, do sự tác động của quy luật cung cầu. Nhược điểm việc vay hay không vay phụ thuộc vào các NHTM. d/ Giới hạn khối lượng tín dụng trên số tiền gửi nhận được: NHTW quy định giới hạn tỷ lệ tín dụng mà các NHTM có thể cung cấp khi nhận được 1 lượng tiền gửi, biện pháp này thường được đi kèm bằng biện pháp quy định tỷ lệ dự trữ ổn định, NHTW thông thường quy định tỷ lệ dư nợ tín dụng của các NHTM không được vượt qua bao nhiêu nhiêu lần so với vốn tự có. Biện pháp này có ưu điểm quy định được 1 khối lượng tín dụng vừa phải theo yêu cầu phát triển kinh tế có tính đến mối quan hệ giữa tiết kiệm và đầu tư. 3. Một số công cụ khác a/ Dự đính công trái bắt buộc Là việc NHTW quy định 1 tỷ lệ trên số tiền gửi mà một NHTM nhận được phải dùng vào việc mua công trái bắt buộc nhằm hạn chế khối lượng tín dụng của các NHTM và làm công cụ của NHTW thông qua việc chiết khấu các công trái này, khi các NHTM cần vốn thông qua đó NHTW có thể sử dụng công cụ thị trường mở để điều tiết khối lượng tiền tệ trong lưu thông b/ Dự đính công trái tự nguyện Ngoài việc buộc các NHTM mua công trái bắt buộc, NHTW còn kích thích các NHTM mua thêm công trái khi số tiền cho vay không hết. c/ Phát hành giấy bạc, cho phép lưu thông các công cụ thay tiền mặt Thông thường khi các công cụ thay tiền mặt được sử dụng thì lưu thông tiền tệ sẽ nhanh hơn tiết kiệm được chi phí lưu thông và đặc biệt làm tăng khả năng tín dụng của các NHTM bởi vì khi mọi khoản tiền đều được thanh toán qua ngân hàng bằng các công cụ thay tiền mặt như séc, thẻ tín dụng, lệnh chuyển khoản... sẽ làm cho toàn bộ hệ thống ngân hàng gần như không bao giờ mất khả năng cung cấp tín dụng cho nền kinh tế. 11 PHẦN II: SỰ LỰA CHỌN CỦA VIỆT NAM I. Chính sách tài chính - tiền tệ với mục tiêu cân bằng kinh tế đối ngoại và hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam qua 20 năm đổi mới Định hướng mô hình phát triển kinh tế của Việt Nam là xây dựng một nền kinh tế thị trường, mở hướng về xuất khẩu. Trong thời gian qua, chính sách tài chính – tiền tệ đã có những đổi mới rất quan trọng để tạo ra những yếu tố tiền đề tác động hỗ trợ và thúc đẩy hội nhập kinh tế quốc tế, bảo đảm ổn định và phát triển kinh tế trong nước, cân bằng quan hệ kinh tế đối ngoại. 1. Chính sách tài chính Trong chính sách tài chính, chính sách thuế giữ một vị trí đặc biệt quan trọng tác động đến hoạt động thương mại và sự vận động của các luồng vốn quốc tế, đồng thời có ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng cạnh tranh và xuất khẩu của các doanh nghiệp trong nước - điều kiện cốt tử để cho hội nhập đạt hiệu quả cao nhất đối với mỗi quốc gia. Hệ thống thuế quan của Việt Nam bắt đầu được ban hành năm 1988 theo danh mục hàng hóa của khối Hội đồng Tương trợ kinh tế (khối SEV) mà không theo hệ thống danh mục hàng hóa hài hòa (HS) của Hội đồng Hải quan thế giới. Thực hiện chính sách đổi mới, mở cửa, Việt Nam đã dần từng bước điều chỉnh lại hệ thống thuế quan cho phù hợp với thông lệ quốc tế Năm 1996, thực hiện cam kết với Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), Việt Nam đã giảm thuế suất, nhập khẩu của một số mặt hàng có thuế suất trên 60% và được điều chỉnh nhiều lần cho phù hợp với tình hình phát triển kinh tế trong từng giai đoạn. Năm 1999, Việt Nam áp dụng Luật sửa đổi một số điều của Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu năm 1991. Theo quy định của Luật thuế này, thuế suất, thuế nhập khẩu của Việt Nam gồm 3 loại: thuế suất thông thường, thuế suất ưu đãi và thuế suất ưu đãi đặc biệt. Ngày 1 tháng 7 năm 2003, Chính phủ ban hành Nghị định 78/CP về việc ban hành danh mục hàng hóa và thuế suất của Việt Nam để thực hiện Hiệp định CEPT cho các năm 2003-2006. Trong đó có trên 5000 dòng thuế được giảm xuống 0%-5% vào năm 2006. Những đổi mới và hoàn thiện Luật thuế nói chung, Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu nói riêng ở Việt Nam thời gian qua là hoàn toàn phù hợp với chủ trương phát triển một nền kinh tế thị trường mở và hội nhập kinh tế quốc tế. Việc cắt giảm thuế nhập khẩu theo lộ trình của các Hiệp định làm cho nguồn thu Ngân sách nhà nước từ thuế nhập khẩu giảm xuống nhưng lại được bù đắpt bởi tăng nguồn thu từ nội địa do mở rộng đối tượng nộp thuế và mặt hàng chịu thuế. Các chính sách ưu đãi về thuế đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài và việc bãi bỏ thuế thu nhập đối với kiếu hối của người Việt Nam ở nước 12 ngoài đã làm cho luồng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và kiều hối tăng cao, tài trợ tích cực cho thâm hụt cán cân thanh toán vãng lai. 2. Chính sách tiền tệ. Trong chính sách tiền tệ, chính sách tỷ giá có vai trò lớn, tác động trực tiếp đến cán cân thanh toán quốc tế và tiềm lực tài chính trong quan hệ kinh tế đối ngoại. Về chính sách tỷ giá, có thể xem xét sự ảnh hưởng của chính sách này đến mục tiêu cân bằng kinh tế đối ngoại của Việt Nam qua các giai đoạn. Trong những năm 1988-1991, tỷ giá hối đoái của Việt Nam từ chế độ đa tỷ giá chuyển sang chế độ tỷ giá thống nhất được xác định theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước. Sự điều chỉnh hợp lý tỷ giá hối đoái danh nghĩa phối hợp với việc thắt chặt cung tiền, cắt giảm chi tiêu Chính phủ, hạn chế tín dụng, tăng lãi suất… và những chính sách kinh tế khác đã chặn đứng được lạm phát, đưa nền kinh tế Việt Nam ra khỏi suy thoái và bước vào thời kỳ phát triển. Từ năm 1992 đến năm 1997, chính sách tỷ giá hối đoái được điều chỉnh để chống lạm phát và thu hút đầu tư nước ngoài. Để thực hiện mục tiêu chống lạm phát, chính sách tỷ giá được điều hành cố gắng duy trì sự ổn định của tỷ giá hối đoái danh nghĩa. Vì vậy, nếu so sánh chỉ số CPI của Mỹ và CPI của Việt Nam, các nhà kinh tế tính toán cho rằng, tỷ giá hối đoái thực tế đã bị giảm tới hơn 20%. Sự ổn định tỷ giá hối đoái danh nghĩa những năm này đã tạm thời góp phần tích cực vào việc kiềm chế lạm phát, thu hút đầu tư nước ngoài, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế với tốc độ cao trên 8% năm. Nhưng việc duy trì tỷ giá hối đoái danh nghĩa gần như cố định trong điều kiện lạm phát đã được kiềm chế song vẫn cao hơn lạm phát của Mỹ (nước có đồng tiền chiếm tỷ trọng chủ yếu trong giỏ ngoại tệ để xác định tỷ giá của Việt Nam) và các nước có quan hệ thương mại chủ yếu của Việt Nam, đồng thời đồng USD có xu hướng tăng giá từ năm 1995 đã làm cho VNĐ có xu hướng ngày càng bị đánh giá cao hơn thực tế. Điều này đã tạo ra và tích luỹ những nhân tố gây mất ổn định và kìm hãm sự phát triển kinh tế. Do tỷ giá hối đoái thực tế giảm xuống, VND được đánh giá cao đã làm suy giảm sức cạnh tranh quốc tế của hàng hóa, dịch vụ của Việt Nam, làm cán cân thương mại và cán cân thanh toán chuyển trạng thái từ thặng dư năm 1991-1992 sang trạng thái thâm hụt, bắt đầu tích luỹ sự mất cân đối bên ngoài và dần chuyển sang gây mất ổn định và mất cân đối bên trong nền kinh tế. Bởi vì, về bản chất, tỷ giá hối đoái không chỉ tác động đến những vấn đề kinh tế đối ngoại mà nó còn tác động đến các vấn đề kinh tế đối nội thông qua sự tác động của tỷ giá đến thị trường tiền tệ và thị trường vốn. Tỷ giá hối đoái danh nghĩa ổn định đã có tác dụng tích cực trong việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, nhưng do ngoại tệ được đánh giá rẻ nên đã khuyến khích các nhà đầu tư vay ngoại tệ để đầu tư vào các ngành sử dụng nhiều vốn và nguyên liệu nhập khẩu – một nguồn lực được coi là khan hiếm ở Việt Nam. Điều này đã đi ngược với chiến lược 13 phát triển kinh tế dựa trên cơ sở khai thác có hiệu quả các nguồn lực sẵn có và những lợi thế so sánh của đất nước, đó là nguồn lực lao động. Một yếu tố khác càng làm trầm trọng hơn tác động tiêu cực của tỷ giá hối đoái giai đoạn này là việc phá giá đồng NDT 50% vào năm 1994 của Trung Quốc. Việc phá giá NDT đã làm cho hàng hóa, dịch vụ của Trung Quốc quá rẻ đã tràn ngập thị trường Việt Nam qua con đường buôn bán mậu dịch và buôn lậu, gây khó khăn cho sản xuất trong nước và tăng nhập siêu của Việt Nam từ Trung Quốc. Từ năm 1997 đến nay, chính sách tỷ giá hối đoái được điều hành nhằm chống đỡ tác động của cuộc khủng hoảng tài chính – tiền tệ khu vực và khắc phục tình trạng đánh giá cao VND thời gian trước đó. Tháng 7 năm 1997, cuộc khủng hoảng tài chính – tiền tệ khu vực Đông Nam á đã làm cho một loạt đồng tiền của các nước trong khu vực giảm giá mạnh so với đồng USD và VND. Điều đó cũng có nghĩa là, VND đã bị đánh giá cao hơn nữa, trong bối cảnh các nước trong khu vực là bạn hàng chủ yếu và quan trọng của Việt Nam, đã làm cho xuất khẩu của Việt Nam giảm sút nhanh chóng. Phân tích những nguyên nhân và bài học từ cuộc khủng hoảng tài chính – tiền tệ khu vực cho thấy, mặc dù thị trường tài chính – tiền tệ của Việt Nam chưa phát triển đầu đủ và mở cửa nên không bị kéo ngay vào làn sóng của cuộc khủng hoảng, nhưng Chính phủ và NHNN Việt Nam đã nhận thấy tính chất nghiêm trọng của ổn định chế độ tỷ giá danh nghĩa kéo dài – một nguyên nhân quan trọng tạo ra cuộc khủng hoảng nên đã có những biện pháp xử lý tương đối hợp lý, ngăn chặn được những cú sốc không cần thiết đối với nền kinh tế. Vì vậy tháng 10 năm 1997, NHNN đã quyết định mở rộng biên độ giao dịch giữa tỷ giá chính thức và tỷ giá giao dịch tại các thị trường liên ngân hàng từ (+) (-) 5% lên (+) (-)10%. Nới rộng biên độ giao dịch đã làm cho tỷ giá thị trường tăng mạnh. Mặc dù tỷ giá tăng, nhưng giá cả trên thị trường không có những biến động đáng kể. Việc điều chỉnh tỷ giá của NHNN trên đây đã có tác động tích cực đối với xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu của Việt Nam, giảm nhập siêu trong các năm 1997-1999, cán cân tài khoản vãng lai và cán cân thanh toán cũng giảm dần thâm hụt, mặc dù đầu tư nước ngoài suy giảm mạnh trong các năm này. Nhưng điều chỉnh tỷ giá như trên cũng có những tác động tiêu cực đến nền kinh tế, bởi vì khi VND giảm giá đã làm tăng thêm gánh nặng nợ nước ngoài của cả chính phủ và các doanh nghiệp có vốn vay nước ngoài, giảm đầu tư trực tiếp nước ngoài. Vì vậy có thể thấy rằng, đó cũng chính là cái giá phải trả khi lựa chọn chính sách tỷ giá thiên về cố định bằng cách duy trì sự ổn định của tỷ giá danh nghĩa quá lâu. Và một khi duy trì tỷ giá cố định càng dài thì cái giá phải trả càng lớn. Để tránh những hậu quả tương tự, chính sách tỷ giá phải được điều chỉnh linh hoạt, phản ánh đúng với quan hệ cung cấp về ngoại hối, sở thích của người tiêu dùng, lạm phát, lợi tức của tài sản nội, ngoại tệ… để chống đỡ được các cú sốc của nền kinh tế. Vì vậy, từ năm 1999, NHNN chấm dứt công bố tỷ giá chính thức, mà chỉ công bố tỷ giá giao dịch 14 bình quân trên thị trường liên ngân hàng, đồng thời biên độ giao dịch dao động cũng giảm xuống chỉ còn (+) (-) 0,1%. Việc can thiệp của Nhà nước đối với tỷ giá được thực hiện chủ yếu thông qua hoạt động mua bán ngoại tệ của NHNN trên thị trường ngoại hối, xoá bỏ phương thức quản lý mang nặng tính chất hành chính chủ quan trước đây. Từ đó cho đến nay, tỷ giá hối đoái đã được hình thành theo cơ chế thị trường, bám sát sự biến động của thị trường thế giới, phản ánh tương đối sát quan hệ kinh tế quốc tế giữa đồng nội tệ và ngoại tệ, nên đã cải thiện cơ bản cán cân thương mại và cán cân thanh toán quốc tế của Việt Nam. Tóm lại, chính sách tài chính và chính sách tiền tệ với những đổi mới, hoàn thiện các công cụ của nó đã tác động tích cực tới quá trình phát triển kinh tế ở Việt Nam trong những năm qua. Chính sách tài chính và chính sách tiền tệ đã duy trì sự ổn định và tăng trưởng nhanh của nền kinh tế, vượt qua sự ảnh hưởng tiêu cực của những tác động của cuộc khủng hoảng tài chính – tiền tệ khu vực, tạo cơ sở vững chắc cho Việt Nam mở cửa và hội nhập vào cộng đồng kinh tế khu vực và thế giới an toàn và hiệu quả. ( trích Ths. Nguyễn Hồng Phong TCCN kì I tháng 12/2005 trang 29) II. Chính sách tài chính - tiền tệ với mục tiêu kiềm chế lạm phát kết hợp tăng trưởng kinh tế thời kì WTO 1. Giai đoạn 2005-2006 : ưu tiên tăng trưởng kinh tế 1.1 Toàn cảnh kinh tế Ngay từ khi thị trường có những biểu hiện của lạm phát, Ngân hàng Nhà nước đã có những phân tích tỉnh táo từ chiều hướng, nguyên nhân lạm phát để có đối sách thích hợp. Giai đoạn này, lạm phát chủ yếu không bắt nguồn từ nguyên nhân tiền tệ mà là do những cú sốc từ khách quan mang lại. Điều này đã được Ngân hàng Thế giới, Quỹ tiền tệ quốc tế đồng nhất ý kiến. Vì vậy, biện pháp giải quyết cũng chủ yếu không phải từ chính sách tiền tệ . Nếu thắt chặt tiền tệ sẽ tăng chi phí về vốn dẫn đến giá cả hàng hóa tăng, đồng thời hạn chế đầu tư phát triển. Dư âm của lạm phát 9,5%/năm của 2004 vẫn còn kéo dài tới đầu quý I 2005. Ngân hàng Nhà nước đã có động thái nâng lãi suất chiết khấu và lãi suất tái cấp vốn kể từ 15/1 để khẳng định các ngân hàng phải huy động vốn từ các nguồn trong dân cư và doanh nghiệp, giảm bớt chỗ dựa vào nguồn cho vay tái cấp vốn của ngân hàng trung ương. Để đối phó với việc tăng giá, ngân hàng nhà nước vẫn yêu cầu giữ tỷ lệ dự trữ bắt buộc, đồng thời điều chỉnh lãi suất tái cấp vốn và lãi suất chiết khấu lên 0,5%/năm cho hai loại trên. 15 Ngoài ra, tiếp tục điều chỉnh tỷ giá theo hướng giữ ổn định tỷ giá hối đoái. Bên cạnh đó, ngay từ đầu năm Ngân hàng Nhà nước đã có biện pháp để tăng trưởng tín dụng cả năm nằm trong mục tiêu kiểm soát được (không quá 25%). năm 2004 lạm phát tăng cao so với mục tiêu đề ra dẫn đến tâm lý người dân cân nhắc lựa chọn đầu tư đồng tiền nào có lợi. Đã có sự chuyển dịch đầu tư từ VND sang USD nhưng chưa phải là cú sốc về luồng vốn, vì trong tổng lượng tiền gửi của dân cư năm 2004 tỷ trọng huy động USD vẫn thấp hơn các năm trước. Hiện xu hướng tăng tiền gửi VND đang trở lại (tăng 22% so với đầu năm). Từ giữa tháng 1, Ngân hàng Nhà nước tăng lãi suất tái chiết khấu và lãi suất tái cấp vốn lên 0,5%. Lãi suất tái chiết khấu hiện là 5,5%, lãi suất tái cấp vốn là 3,5%. Năm 2004 có những vấn đề rất nhạy cảm: giá cả tăng, nhu cầu tín dụng cho nền kinh tế cũng tăng nếu làm tuỳ tiện để lãi suất cơ bản tăng không cần thiết, các tổ chức tín dụng có thể tăng nhanh lãi suất, có thể gây khó khăn cho tăng trưởng và tạo ra một làn sóng cạnh tranh về lãi suất huy động vốn. Vì vậy, chủ trương của ngân hàng nhà nước là giữ ổn định cả lãi suất chiết khấu và cả lãi suất tái cấp vốn chứ không riêng gì lãi suất cơ bản. Theo Tổng cục Thống kê, trong 6 tháng đầu năm 2005, tốc độ tăng trưởng kinh tế của cả nước chỉ đạt 7,6%, tăng trưởng khu nông nghiệp đạt 4,23%, tăng trưởng khu vực công nghiệp, xây dựng đạt 9,5%, tăng trưởng khu vực dịch vụ đạt 7,6%. Những con số này đều thấp hơn những chỉ tiêu đã đặt ra cho năm 2005. Nhằm hoàn thành những mục tiêu đã đề ra, ngày 20/07/2005, Chính phủ đã gửi công điện khẩn nhắc nhở các bộ ngành thực hiện nghiêm túc việc điều hành giá cả đối với các mặt hàng thiết yếu, đồng thời yêu cầu 6 tháng cuối năm phải phấn đấu đạt mức tăng trưởng thấp nhất là 9,3%, để cả nước có mức tăng trưởng kinh tế 8,5% cả năm. Điều này đã thể hiện quyết tâm của Chính phủ trong điều hành nền kinh tế theo những định hướng và mục tiêu đã được hoạch định. 1.2 Phải đánh đổi bằng lạm phát Nguồn vốn đầu tư khả dĩ nhất chỉ có thể là cung tiền của Ngân hàng nhà nước. Nhưng hậu quả tất yếu của việc tăng cung tiền là không tránh khỏi lạm phát. Một đồng tiền mới do Ngân hàng nhà nước phát hành sẽ tạo ra nhiều đồng tiền mới cho toàn nền kinh tế. Với thực tế nền kinh tế hiện nay, để giữ chỉ số tăng giá cho cả năm ở mức 6,5% trong khi 6 tháng đầu năm đã tăng 5,2% gần như là nhiệm vụ bất khả thi. Nếu phải tăng cung tiền, kích thích đầu tư thì rất khó dự đoán chỉ số giá có thể ở mức nào. Mặt khác, những vấn đề liên quan đến vụ kiện bán phá giá của EU đối với da giày Việt Nam, sự bành trướng quá mức của hàng dệt may Trung Quốc và những vấn đề khác là khó khăn cho việc đẩy mạnh xuất khẩu. 16 Do đó, để đạt được mục tiêu tăng trưởng GDP trong ngắn hạn, cụ thể là 6 tháng còn lại của năm 2005, ngoài việc tăng cung tiền, kích thích đầu tư thì hầu như không còn giải pháp nào khác. Cho đến thời điểm này, trên thế giới, hầu như chưa có ai tìm ra được giải pháp nào đó để nền kinh tế có thể đạt được mức tăng trưởng cao đột biến so với mức bình quân trước đó nhưng lại kiềm chế được lạm phát. Tăng trưởng và lạm phát luôn phải đánh đổi. Việt Nam không phải là ngoại lệ. 2. Giai đoạn 2007- 2008 : Áp lực lạm phát và ứng xử 2.1 Toàn cảnh kinh tế: Qua hai năm hội nhập, chính sách tiền tệ phải đối mặt với 3 vấn đề lớn, đó là: kiểm soát tổng lượng tiền, lãi suất, tỷ giá khi lạm phát gia tăng; ngăn chặn bất ổn do tự do hóa giao dịch vốn và đặc biệt là ảnh hưởng của xu hướng nới lỏng hay thắt chặt chính sách tiền tệ trên thế giới. Nếu như năm 2004, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu chỉ 55,261 tỷ USD thì đến 2007 lên tới 111,243 tỷ USD và con số này của nửa đầu 2008 là 75,466 tỷ USD. Cùng với đó là dòng vốn bên ngoài như đầu tư trực tiếp (FDI), đầu tư gián tiếp (FII), chuyển tiền tư nhân ngày càng lớn, nhất là đầu tư gián tiếp: năm 2006 vốn FII chỉ 1,3 tỷ USD nhưng đến 2007, FII vượt quá 6,2 tỷ USD. Ngoại tệ vào nhiều, giúp cho cán cân thanh toán tổng thể thặng dư và xét ở một góc độ khác, đó là cơ hội để Ngân hàng Nhà nước tăng dự trữ ngoại tệ, cơ sở để ổn định tỷ giá và làm an lòng các nhà đầu tư nước ngoài. Thế nhưng, sự tràn vào ồ ạt của dòng ngoại tệ trong một thời gian ngắn còn gây ra những tác động xấu khác. “Về lý thuyết cũng như thực tiễn, kết quả của cán cân thanh toán sẽ làm thay đổi tài sản “Có” ngoại tệ ròng, mà sự thay đổi tài sản “Có” ngoại tệ ròng sẽ làm thay đổi tổng phương tiện thanh toán” Ngoài ra, trong nền kinh tế đô la hóa như Việt Nam, mối quan hệ giữa tỷ giá, lãi suất nội và ngoại tệ quan hệ rất chặt chẽ với nhau. Vì thế, nếu không đảm bảo lợi tức cân bằng giữa hai loại đồng tiền này, đương nhiên sẽ có sự dịch chuyển đầu tư giữa hai thị trường này và công việc điều hành chính sách tiền tệ trở nên khó khăn hơn. Điều này đã được kiểm chứng rất rõ trong nửa đầu năm 2008 khi giá một USD trên thị trường tự do xuống tới 15.400 VND và vài tháng sau vọt lên 19.500 VND và “con ngựa 17 bất kham” này chỉ chịu đứng yên khi Ngân hàng Nhà nước tung nhiều tỷ USD dự trữ ngoại hối để bình ổn. Áp lực tiếp theo, đó là ngăn chặn bất ổn khi tự do hóa giao dịch vốn. Khi đã chấp nhận hội nhập, sẽ không thể cưỡng lại xu thế tự do hóa tài khoản vốn. Và cùng với quá trình này là các rào cản giao dịch vốn phải gỡ bỏ, dòng vốn ngoại có thể “vào - ra” bất cứ lúc nào, với bất cứ quy mô nào. Chính thực tế này, đã khiến cho Ngân hàng Nhà nước rất lúng túng trong việc điều hành giữa một bên là duy trì ổn định tỷ giá hỗ trợ xuất khẩu và bên kia là mối nguy lạm phát khi mở rộng cung tiền. Cuối cùng, khi hội nhập, hoạt động điều hành chính sách tiền tệ còn gặp phải một mối lo khác là những tác động tiêu cực đến từ động thái nới lỏng hay thắt chặt tiền tệ từ các quốc gia khác trên thế giới, nhất là những quốc gia có đồng tiền mạnh như Mỹ hay khối châu Âu. 2.2 Kiềm chế lạm phát Ngân hàng Nhà nước đang thực hiện chính sách chống lạm phát cả gói của Chính phủ bao gồm các chính sách về thắt chặt tiền tệ và một loạt các chính sách khác như tăng cung, kiểm soát giá cả, giảm cung ứng tín dụng vào những khu vực không hiệu quả. Tuy nhiên, NHNN tập trung chủ yếu vào bốn biện pháp căn bản : - Nới lỏng tỷ giá hối đoái để giảm áp lực đối với dòng vốn từ bên ngoài vào, tức là giảm áp lực cung ứng tiền để mua ngoại tệ. - Tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc để hạn chế tăng trưởng tín dụng ở mức trên dưới 30%. - Phát hành tín phiếu hay hối phiếu của Ngân hàng Trung ương để hút tiền từ lưu thông về. - Tăng cường thanh tra giám sát về cung ứng tín dụng trong khu vực bất động sản và chứng khoán. Tuy nhiên, chính sách thắt chặt tiền tệ cũng đang bộc lộ một số vấn đề mà cần phải có nghiên cứu sâu hơn và điều hành một cách thật là thận trọng. Ví dụ như nới lỏng tỷ giá hối đoái thì dẫn đến đồng Việt Nam tăng giá và điều này ảnh hưởng tới xuất khẩu vì 90% hàng xuất khẩu của Việt Nam được thanh toàn bằng đồng USD. 18 Vấn đề nữa là khi lãi suất tăng lên khá cao cộng với giá đầu vào tăng cao cũng gây khó khăn lớn cho các doanh nghiệp xuất khẩu. Ngân hàng Nhà nước biết điều đó nên phải tìm cơ hội khi lạm phát có dấu hiệu giảm thì mới nới lỏng các biện pháp thắt chặt tiền tệ để tránh ảnh hưởng xấu tới doanh nghiệp. Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Nguyễn Văn Giàu: Trong những tháng đầu năm 2008, trước bối cảnh kinh tế thế giới suy giảm và tình hình kinh tế trong nước diễn biến phức tạp, Chính phủ đã thống nhất xác định nhiệm vụ trọng tâm là: “Kiềm chế lạm phát, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo an sinh xã hội và tăng trưởng bền vững, trong đó kiềm chế lạm phát là mục tiêu ưu tiên hàng đầu” và đề ra 8 nhóm giải pháp để triển khai thực hiện. Thực hiện chỉ đạo của Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã triển khai đồng bộ các giải pháp điều hành tiền tệ, ngân hàng với các biện pháp chủ yếu như sau: (1) Rút bớt tiền từ lưu thông thông qua điều chỉnh tăng dự trữ bắt buộc, phát hành tín phiếu bắt buộc; chủ động kiểm soát tốc độ tăng tổng phương tiện thanh toán và tín dụng mức ở hợp lý để kiềm chế mức tăng tổng cầu và giá tiêu dùng. (2) Đổi mới cơ chế điều hành lãi suất, điều chỉnh tăng hợp lý các mức lãi suất cơ bản, lãi suất tái cấp vốn, tái chiết khấu nhằm tạo hành lang lãi suất phù hợp với định hướng kiểm soát tốc độ tăng trưởng dư nợ tín dụng và từng bước đảm bảo lãi suất thực dương cho người gửi tiền. (3) Điều hành chính sách tỷ giá theo nguyên tắc linh hoạt và có kiểm soát, thông qua mở rộng biên độ mua bán ngoại tệ của các ngân hàng thương mại (NHTM) so với tỷ giá giao dịch bình quân trên thị trường liên ngân hàng từ +1% lên +2% ; can thiệp trên thị trường ngoại hối, phối hợp với các cơ quan chức năng tiến hành kiểm tra và xử lý các hoạt động đầu cơ, kinh doanh ngoại tệ trái pháp luật trên thị trường nhằm ổn định thị trường ngoại hối. (4) Tăng cường hỗ trợ vốn ngắn hạn cho các tổ chức tín dụng (TCTD) thông qua nghiệp vụ thị trường mở và các công cụ tái cấp vốn khác, tập trung ưu tiên vốn cho phát triển sản xuất, xuất khẩu, các dự án kinh tế trọng điểm quốc gia và cho phát triển sản xuất nông nghiệp, nông thôn. (5) Tăng cường giám sát thị trường tiền tệ, thiết lập hệ thống thông tin nhanh để đánh giá diễn biến thị trường để có biện pháp can thiệp phù hợp. Tăng cường thanh tra, giám sát hoạt động các TCTD, đặc biệt là các NHTM nhỏ, để chấn chỉnh việc quản trị, điều hành, 19 việc chấp hành các quy định về đảm bảo an toàn hoạt động kinh doanh. Cho đến nay, hoạt động kinh doanh của các TCTD đều đảm bảo an toàn. Hầu hết các NHTM đều có hệ số an toàn vốn lớn hơn mức quy định tối thiểu. Ngân hàng Nhà nước... "ra quân", ngân hàng thương mại gặp khó khăn Đầu năm 2008, thị trường ngân hàng đứng trước một biến cố hiếm thấy: hàng loạt ngân hàng thương mại như Techcombank, ABBank, SHB, Southernbank... bước vào cuộc đua lãi suất huy động vốn. Trong khi các ngân hàng khác chỉ tăng lãi suất huy động kỳ hạn 12 tháng ở mức 9,6%/năm thì VPBank đã đón đầu tăng lãi suất huy động lên mức kỷ lục: 10,5% đối với kỳ hạn 12 tháng. Ông Lê Đắc Sơn, Tổng giám đốc VPBank cho biết: "Sở dĩ VPbank buộc phải nâng lãi suất huy động phần lớn các kỳ hạn từ 0,6%/năm - 1%/năm là do chúng tôi dự đoán chỉ trong một vài tuần tới, mặt bằng lãi suất sẽ được thiết lập ở mức như chúng tôi ấn định hiện nay và VPBank buộc phải đi trước một bước". Ông Vũ Đức Nhuận, Tổng giám đốc Ngân hàng Thương mại Cổ phần Hàng hải (Maritimebank) cho biết: "Trong lúc này tình hình rất căng thẳng, các ngân hàng thương mại đang nhốn nháo đi tìm vốn và việc huy động vốn ở Maritimebank diễn ra không hề dễ dàng. Do thiếu tiền mặt, nên dù chưa phải dừng cho vay nhưng đối với một số dự án, Maritimebank phải hạn chế cho vay khách hàng mới, chỉ tập trung vào một số khách hàng truyền thống". Còn ông Đặng Trung Dũng, Phó tổng giám đốc SHB nói: "SHB chưa đến mức dừng cho vay như một số ngân hàng thương mại khác nhưng tình trạng chung trên thị trường ngân hàng là thiếu tiền mặt VND". Trên thực tế, một số ngân hàng thương mại đã dừng hẳn cho vay. Sự việc căng thẳng đến nỗi, để đấu giá chỉ 100 tỷ đồng trên thị trường liên ngân hàng, lãi suất đã bị đẩy lên mức 30%/năm! Với quyết định 187/2008/QĐ - Ngân hàng Nhà nước, điều chỉnh tăng dự trữ bắt buộc từ 10% lên 11% đối với tiền gửi nội tệ và ngoại tệ không kỳ hạn và dưới 12 tháng, sẽ có khoảng 70 nghìn tỷ đồng bị "giam" vào trong kho. Ngày 1/2/2008, Ngân hàng Nhà nước tiếp tục thắt chặt hơn cho vay đầu tư kinh doanh chứng khoán bằng Quyết định 03/QĐ/NHNN, Quyết định 306/QĐ - NHNN điều chỉnh tăng thêm 1%/năm đối với lãi suất tái cấp vốn và 1, 5%/năm đối với lãi suất tái chiết khấu và ngày 13/2/2008, Ngân 20 hàng Nhà nước tung ra Quyết định số 346/QĐ - NHNN bán tín phiếu bắt buộc nhằm thu về 20.300 tỷ đồng từ các ngân hàng thương mại. Phó tổng giám đốc Ngân hàng S. phân tích thêm: "Ngoài nguyên nhân từ chính sách điều hành, còn có các nguyên nhân khác như thị trường vàng, bất động sản đang sốt, chứng khoán tụt dốc (và đó là thời điểm tốt để mua vào)... đã chia sẻ bớt dòng vốn chảy vào ngân hàng thương mại. Chưa kể, năm 2007, tăng trưởng dư nợ tín dụng quá nóng đã để lại sự hụt hẫng khá lớn về tiền đồng đối với các ngân hàng thương mại". Trả lời cho hiện tượng này, nguyên một lãnh đạo cấp vụ của Ngân hàng Nhà nước cho rằng, đó là hệ quả của hàng loạt yếu tố bất thường trên thị trường tiền tệ trong thời gian gần đây và chủ yếu xuất phát từ chính sách thắt chặt tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước, nhằm đối phó với lạm phát đang phi mã. 2.3 Tác dụng của kiềm chế lạm phát đến tháng 10-2008 Tốc độ tăng trưởng GDP trong 9 tháng ước đạt 6,52%, tuy còn thấp hơn tốc độ tăng GDP cùng kỳ năm 2007 nhưng trong bối cảnh kinh tế thế giới có nhiều biến động bất lợi và kinh tế trong nước còn gặp nhiều khó khăn thì đây là kết quả khả quan, phù hợp với các nhóm giải pháp kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô của Chính phủ. Các ngành dịch vụ đạt kết quả khá tốt, đã góp phần nâng mức tăng trưởng chung của nền kinh tế (giá trị tăng của ngành dịch vụ 9 tháng đầu năm tăng 7,23%, cao hơn mức tăng GDP). Trong điều kiện cạnh tranh gay gắt về thị trường và giá cả nhưng kim ngạch xuất khẩu 9 tháng vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng cao (48,6 tỷ USD), tăng 39% so với cùng kỳ , với 10 nhóm mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu đạt trên 1 tỷ USD, trong đó dầu thô đạt 8,8 tỷ USD, dệt may đạt 6,83 tỷ USD; nhập siêu giảm dần (riêng tháng 9 chỉ nhập siêu 500 triệu USD- mức thấp nhất trong 9 tháng đầu năm). Thu hút vốn đầu tư ngước ngoài đạt được nhiều kết quả tốt, so với 9 tháng cùng kỳ năm 2007, số vốn đầu tư nước ngoài thực hiện tăng 37%; vốn đăng ký cấp mới và tăng thêm tăng 5 lần. Bên cạnh những kết quả nổi bật, sản xuất nông nghiệp đạt kết quả khá cả về giá trị sản xuất và giá trị tăng thêm. Dự kiến sản lượng lúa năm 2008 cả nước đạt khoảng 38,6 triệu tấn, tăng 2,6 triệu tấn so với năm 2007. Tổng thu ngân sách nhà nước đến hết 15/9 đạt 292,3 nghìn tỷ đồng, bằng 90,5% dự toán năm. Trong tháng 9, tình hình tiền tệ dần đi vào ổn định, nhiều ngân hàng thương mại đã hạ mức lãi suất huy động và cho vay. Đáng chú ý là chỉ số giá tiêu dùng tháng 9 so với tháng 8 trước đó chỉ tăng 0,18%, mức tăng thấp nhất trong 17 tháng gần đây. Giá tiêu dùng tháng 9 tăng chậm lại do giá thị trường thế giới của một số hàng hoá nước ta nhập khẩu đã giảm và sản xuất nông nghiệp trong nước được mùa, nhưng yếu tố quan trọng nhất là do những nỗ lực của các cấp, các ngành trong việc thực hiện 8 nhóm giải pháp của Chính phủ. 21  Vậy, Chính sách tiền tệ đã có tác dụng nhất định đến nền kinh tế. - Thứ nhất, trong lĩnh vực tiền tệ, khả năng thanh toán của các ngân hàng đã tốt hơn, tỷ giá được giữ vững hơn, điều chỉnh linh hoạt hơn, lãi suất đang theo xu hướng điều chỉnh xuống kể cả huy động và cho vay.Thị trường chứng khoán sau một chu kỳ giảm điểm kéo dài đã đứng lại và đang có xu hướng đi lên. Thị trường bất động sản không bị vỡ ra. - Thứ hai là lòng tin của dân, của nhà đầu tư nước ngoài dần được củng cố vững vàng thông qua việc tuyên bố công khai minh bạch, thông qua một số chính sách ra đời và có kết quả, đặc biệt là thông qua những tín hiệu tích cực của tăng trưởng và chống lạm phát. - Thứ ba, tăng trưởng vấn được duy trì và có xu hướng đi lên. Tốc độ tăng trưởng GDP của chúng ta vẫn ở mức cao trên thế giới: trong 6 tháng, GDP tăng trưởng 6,5% thì đến tháng 8 là vào khoảng 7,0%. Cuối cùng, mục tiêu chống lạm phát là hướng chúng ta đang tăng cường và đã có kết quả. Tốc độ tăng CPI tháng sau đã thấp hơn so với tháng trước. Đáng quý là trong khi lạm phát đang được kiềm chế hiệu quả thì tăng trưởng vẫn duy trì được ở mức cao. Bằng những điểm nổi bật đó, có thể thấy hướng thoát ra của nền kinh tế nay đã có kết quả và đã xuất hiện những nhân tố mới, tích cực. 3. Quý IV năm 2008 : thắt chặt hay nới lỏng chính sách tiền tệ ? 3.1 Rủi ro về tăng trưởng Nền kinh tế VN mặc dù đã có dấu hiệu khởi sắc, song vẫn chứa đựng nhiều rủi ro và Chính phủ vẫn cần phải tiếp tục điều hành linh hoạt các giải pháp đã mang lại hiệu quả kiềm chế lạm phát để ổn định bền vững. Đó là những ý kiến được đưa ra tại "Diễn đàn kinh tế 2008: Giải pháp và thách thức để ổn định kinh tế vĩ mô" do Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế T.Ư (CIEM) tổ chức ngày 2.10. Tiến sĩ Võ Trí Thành - Trưởng ban Hội nhập kinh tế quốc tế - CIEM khẳng định: Tốc độ tăng trưởng GDP của VN trong 9 tháng đã chậm lại (6,5%) và có xu hướng ngày càng giảm, bên cạnh việc hạ chỉ tiêu tăng trưởng để ổn định kinh tế vĩ mô và kiềm chế lạm phát, thì tốc độ tăng chậm cũng phản ánh những bất cập cố hữu của nền kinh tế chưa được cải thiện. 22 Đặc biệt, trong 6 tháng, tốc độ tăng trưởng của ngành xây dựng đạt rất thấp, chỉ tăng 0,9% so với cùng kỳ 2007 và dự báo 9 tháng tốc độ tăng trưởng xây dựng đạt âm, là mức tăng thấp nhất trong gần 20 năm qua, cho thấy nền kinh tế tăng trưởng thiếu bền vững. Có 4 rủi ro về tăng trưởng được TS Thành đưa ra trong năm nay và cả năm 2009 là: Chất lượng tăng trưởng thấp (do những "nút thắt" cố hữu của hạ tầng yếu kém, chất lượng nguồn nhân lực chưa được cải thiện...); tỉ lệ tiết kiệm của VN hiện chững lại, tăng trưởng chủ yếu dựa vào các nguồn vốn bên ngoài (đầu tư trực tiếp, gián tiếp... chiếm 40% GDP). Trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế toàn cầu hiện nay, việc huy động vốn bên ngoài sẽ dẫn đến những rủi ro khó lường khi các luồng vốn đầu tư đều có thể suy giảm tác động trực tiếp đến khả năng huy động vốn. Thứ ba là về ngắn hạn, rủi ro đối với các DN đang diễn ra. Theo một điều tra chưa đầy đủ của CIEM, có khoảng 20% các DNVVN đã ngừng hoạt động và tuyên bố phá sản, 60% DN gặp khó khăn trong kinh doanh; chiếm tới 70% DN tại các làng nghề đều khó khăn trong sản xuất. Những khó khăn về tăng trưởng, sẽ dẫn đến hệ lụy là giải quyết những vấn đề xã hội do nạn thất nghiệp, đình công gia tăng. Mặc dù Chính phủ đã có nhiều nỗ lực để kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô và an sinh xã hội, song lạm phát năm nay so với cùng kỳ 2007 đã xấp xỉ 28% là mức tăng cao nhất Châu Á. Trong đó, những rủi ro có thể sẽ xảy ra khiến lạm phát chưa được "kìm cương", theo TS Thành: Tính bất định của giá thế giới tác động đến giá nhiều mặt hàng NK trong nước; việc Chính phủ chủ trương dỡ bỏ kiểm soát giá một số mặt hàng (xăng dầu và tới đây có thể là giá điện, than...) sẽ khiến giá cả khó kiểm soát. Việc dựa nhiều vào nguồn vốn nước ngoài, được bà Nguyễn Thị Hồng - chuyên gia CIEM - phân tích là cũng chứa đựng rủi ro. Vốn FDI gia tăng kéo theo nợ nước ngoài của khu vực DN gia tăng và vay theo các điều kiện thương mại với lãi suất cao hơn so với lãi suất vay ODA, thậm chí cho phép nhà đầu tư nước ngoài có thể chuyển thu nhập về nước ngay cả khi DN lỗ... (Lao Động số 228 Ngày 03/10/2008 Cập nhật: 8:45 AM, 03/10/2008) 3.2 Thách thức trong 4 tháng cuối năm 2008 Để đạt mục tiêu tăng trưởng 7% GDP năm 2008 đã được Quốc hội xem xét điều chỉnh và thông qua, GDP trong quý 4 phải đạt 8,1% - một nhiệm vụ hết sức khó khăn trong bối cảnh nền kinh tế trong nước và thế giới còn nhiều diễn biến phức tạp. Các ngành sản xuất kinh doanh đang phải đối mặt với thiếu vốn, lãi suất vay ngân hàng cao, giá nguyên liệu sản xuất đứng ở mức cao, làm tăng chi phí sản xuất, giảm hiệu quả 23 sản xuất kinh doanh. Giá tiêu dùng tháng 9 so với tháng 12/2007 tăng 21,87%, so với cùng kỳ năm trước tăng 27,9% và dự báo 3 tháng cuối năm thị trường trong nước còn tiềm ẩn những yếu tố gây biến động giá, ảnh hưởng đến sản xuất và đời sống nhân dân, đặc biệt là người nghèo. Ngoài những mục tiêu khó khăn cần phải hoàn thành, có 3 thách thức cụ thể mà chúng ta cần phải đối mặt: Thứ nhất, mỗi chính sách ngoài tác động tích cực thì còn những ảnh hưởng tiêu cực. Tác động tốt của chính sách đã phát huy nhưng vẫn còn độ trễ của nó. Và vì vậy, những ảnh hưởng tiêu cực của chính sách sẽ còn vào và vào rất nhanh, đặc biệt là trong quý 4. Thứ hai, ngoài những tác động chính sách kể trên, trong thời gian tới còn có thêm những vấn đề như thiên tai, sức ép hoàn thành kế hoạch năm… Tất cả sẽ dồn ảnh hưởng vào lạm phát. Thứ ba là nạn đầu cơ, buôn lậu, phao tin đồn nhảm rất dễ tác động đến tâm lý chưa vững chắc của người dân, mà nếu chúng ta không tích cực thực hiện công khai minh bạch thì nó sẽ tác động không tốt đến lạm phát. (trên cương vị thành viên Hội đồng tư vấn Tài chính - Tiền tệ Quốc gia, ông Cao Sỹ Kiêm) 3.3 Một số quan điểm về nới lỏng chính sách tiền tệ Rõ ràng, lãi suất cho vay có hạ xuống mức 18-19,5% thì chính sách tiền tệ vẫn đủ mức độ thắt chặt để đảm bảo lạm phát 16-18% trong vòng 12 tháng tới nếu các biện pháp cắt giảm tài khóa được thực hiện nghiêm túc. Lực cản lớn nhất để hạ lãi suất cho vay là làm sao kéo được lãi suất tiền gửi về mức 15-16% trong khi căng thẳng về vốn khả dụng vẫn còn và tăng trưởng huy động vốn của hệ thống còn thấp. Do đó, chỉ có thể hạ lãi suất khi bơm tiền ra. Tăng trưởng huy động của 7 tháng đầu năm là 9,42% trong khi tăng trưởng tổng phương tiện thanh toán và tăng trưởng tín dụng của 7 tháng đầu năm 2008 là 5,64% và 18,36% so với mức trên 60% của cả 2 chỉ tiêu trên trong cùng kỳ 2007 cho thấy mức độ thắt chặt tiền tệ rất khốc liệt trong năm 2008. Trong trường hợp có nới lỏng thận trọng, tổng phương tiện thanh toán và tăng trưởng tín dụng giữ ở mức lần lượt 15% - 35% cho năm 2008 cũng là mức thắt chặt thận trọng trong năm 2008 so với mức tăng lần lượt 46% - 53% trong năm 2007. Để cầu tín dụng có tính chất lành mạnh tăng lên, chắc chắn phải hạ lãi suất vì vay với lãi suất cao chủ yếu là đảo nợ để duy trì hoạt động, hoặc đầu tư vào các dự án tiềm tàng rủi 24 ro cao/tương ứng với kỳ vọng lợi nhuận lớn để bù đắp chi phí vay. Việc nới lỏng trần tín dụng từ 30% lên 35 - 36% chỉ có thể dẫn vốn đến được các hoạt động kinh doanh an toàn và hiệu quả khi lãi suất hạ. Nếu cứ duy trì lãi suất thế này, thì càng cho vay ra, chất lượng tín dụng và khả năng sinh lợi của khoản vay càng có vấn đề. Một số ý kiến cho rằng, cần duy trì lãi suất cao để tránh áp lực giảm giá VND và một cú sốc vì tỷ giá. Song chúng ta có thể thấy rõ, hạ lãi suất trong điều kiện đảm bảo được VND bị giảm giá nhẹ trong 2 - 3 tháng tới cũng sẽ không gây áp lực tháo chạy khỏi tiền gửi VND, vì chênh lệch lãi suất VND - USD đảm bảo bù đắp tăng tỷ giá do lãi tiền gửi USD đã giảm trước và mạnh hơn tiền gửi VND (chênh lệch 10%/năm hoàn toàn duy trì được nếu lãi tiền gửi VND về 15%). Với tình hình giải ngân FDI khá thuận lợi với mức 8 tỷ USD trong 8 tháng, dự kiến có thể đạt 10 - 12 tỷ USD cho cả năm nay, cùng với nguồn kiều hối dự kiến tăng 30% so với năm 2007, ước đạt 8 tỷ USD, cán cân thanh toán tổng thể sẽ không chịu quá nhiều sức ép, đảm bảo cho VND có thể duy trì một mức cân bằng hợp lý để giữ sức cạnh tranh của hàng xuất khẩu và cải thiện cán cân thương mại theo cân bằng dài hạn ngang giá sức mua. Xét về tổng thể, nới lỏng tiền tệ một cách thận trọng sẽ không gây ra những hệ lụy cho lạm phát, tỷ giá nếu chính sách tài khóa được duy trì mức độ thận trọng trong điều kiện kinh tế vĩ mô mới và đảm bảo cho nền kinh tế tránh được rủi ro lạm phát đình đốn, khi mà chính sách thắt chặt không được điều chỉnh cho phù hợp với các điều kiện kinh tế vĩ mô. Xin trích ý kiến của Tiến sĩ Võ Trí Thành, Trưởng ban Nghiên cứu chính sách hội nhập kinh tế quốc tế, Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương về vấn đề này - Do thực hiện chính sách thắt chặt của Nhà nước, tăng trưởng ngắn hạn giảm, chi phí sản xuất tăng cao, tổng cầu giảm, dẫn đến vấn đề xã hội trở nên phức tạp hơn như mất việc làm, thu nhập giảm, công nhân đòi tăng lương… Nhiều doanh nghiệp gặp khó khăn. Hiện nay chúng ta đang đứng trước hai sức ép, một bên là những vấn đề xã hội đòi hỏi nới lỏng chính sách vĩ mô, hỗ trợ cho tăng trưởng, một bên lạm phát cao, rủi ro tiềm ẩn. Lựa chọn chính sách của chúng ta vào thời điểm rất nhạy cảm, không dễ dàng, nếu nới lỏng quá mức và quá sớm thì có thể những kết quả ban đầu về ổn định kinh tế vĩ mô trở nên “công cốc”. Nếu tình huống đó xảy ra thì việc cứu chữa còn khó khăn hơn trước. Mặt khác, nếu không bám sát tình hình, có những chính sách vĩ mô cần thiết, khi tình hình đã ổn định thì có thể gây ra bất ổn xã hội. Mặc dù vậy, trong bối cảnh hiện nay chúng ta vẫn cần chính sách thắt chặt, và thực hiện giảm dần lạm phát và ổn định dần kinh tế vĩ mô. - Khi nào thì sẽ có nới lỏng??? 25 Tình hình hiện nay rất phức tạp, đặc biệt sau sự sụp đổ của những định chế tài chính ở Mỹ. Theo dự báo mới nhất, năm 2009 tăng trưởng kinh tế thế giới còn thấp hơn năm 2008. Tính bất định về tài chính cũng như biến động giá không phải dễ lường tuy rằng dự báo lạm phát sẽ giảm. Trong bối cảnh đó có thể nói cả năm 2009 vẫn là một năm hết sức khó khăn, rủi ro vẫn còn tiềm tàng. Đối với nước ta, nếu làm tốt có thể hồi phục nhanh hơn. Xác định thời điểm cụ thể là rất khó, nhưng điều kiện để nới lỏng là lạm phát giảm, quan trọng hơn là kỳ vọng của thị trường được nâng cao, cảm nhận thị trường sẽ dần đi vào ổn định trở nên rõ ràng. Nhưng kể cả có được những điều kiện đó thì cách nới lỏng cũng cần được tính toán chặt chẽ. 3.4 Thắt chặt chính sách tiền tệ là quan điểm nhất quán của chính phủ Về nhiệm vụ 3 tháng còn lại của năm 2008, Thủ tướng đã chỉ rõ: Trước hết vẫn phải quán triệt quan điểm ưu tiên kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội, duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế. Tiếp tục thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt nhưng linh hoạt trong điều hành đi đôi với bảo đảm tính thanh khoản cho nền kinh tế. Theo đó, Ngân hàng Nhà nước vừa ban hành một số quyết định trong điều hành chính sách tiền tệ. Theo đó, NHNN giữ nguyên lãi suất cơ bản là 14%/năm nhưng tăng lãi suất tiền gửi dự trữ bắt buộc đối với nội tệ tại NHNN từ 1,2% lên 3,6%/năm. Vậy, NHNN vẫn kiên trì thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt, ưu tiên cho kiềm chế lạm phát hơn là thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Tuy chỉ số CPI tháng 8/2008 chỉ còn ở mức tăng 1,56%, thấp hơn rất nhiều mức tăng của các tháng trước đó nhưng nhiều phân tích cho rằng, mức tăng CPI trong 12 tháng qua vẫn còn rất cao và việc kiềm chế lạm phát vẫn phải được tiếp tục, không lơ là. ۞ Tuy nhiên, cũng đã có một số động thái cho thấy, NHTW đang tìm mọi cách để hỗ trợ tăng trưởng kinh tế Tiếp tục tăng lãi suất tiền gửi dự trữ bắt buộc (DTBB) - lên 5%/năm - là một động thái của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) để tăng tính thanh khoản cho nền kinh tế thông qua việc hỗ trợ NHTM (có thêm lãi tiền gửi DTBB) giảm chi phí, từ đó có điều kiện giảm lãi suất cho vay. Đại diện một NHTM nhà nước cho biết, hiện các DN gặp nhiều khó khăn do lạm phát tăng cao, chi phí vốn tăng, ngừng trệ sản xuất... nên khả năng trả nợ NH suy giảm. Lãi suất cho vay VND của các NH hiện phổ biến ở mức 20%-21%/năm, lớn hơn nhiều so với tỉ suất lợi nhuận của đa phần các DN. Nợ xấu tại các NH do đó có nguy cơ tăng nhanh 26 trong các tháng cuối năm khi các khoản nợ đến hạn. Đã có dự báo lo ngại khoảng 30% DN nội địa sẽ phải đối mặt với nguy cơ phá sản. Điều các NHTM lo ngại nhất hiện nay là nếu DN tiếp tục khó khăn vì không tiếp cận được hoặc không chịu nổi lãi suất cho vay của NH thì sự thua lỗ, phá sản của các DN cũng đồng nghĩa với với sự thua lỗ của các NH. Thời gian gần đây, từ các hội nghề nghiệp, các doanh nghiệp và một số chính quyền địa phương cũng đã "kêu cứu" về tình trạng khó khăn tiếp cận vốn tín dụng và lãi suất NH quá cao. Trên thực tế, hoạt động kinh tế giảm, nhu cầu tụt thấp và tỉ lệ lạm phát giảm mạnh trong 2 tháng gần đây là biểu hiện của nền kinh tế đang thiếu tính thanh khoản. Khi các NH có điều kiện để hạ lãi suất có thể sẽ khuyến khích người tiêu dùng và doanh nghiệp vay tiền để sản xuất, kinh doanh, đầu tư và sẽ thúc đẩy nhu cầu cũng như tăng trưởng kinh tế. Bắt đầu từ 1.10, tín phiếu NHNN bắt buộc sẽ được sử dụng như một công cụ trên thị trường mở. Được biết, khoản tín phiếu này (20.300 tỉ đồng) do NHNN yêu cầu các tổ chức tín dụng mua đầu năm nay nhằm "giam" lại một lượng tiền vào kho của NHNN, không cho lưu thông, để kiềm chế tốc độ tăng lạm phát. Trong những thời điểm (tháng 3,4,5) hệ thống khó khăn vì một số NH căng thẳng về thanh khoản, đã có nhiều ý kiến đề nghị NHNN cho phép các NH được cầm cố tín phiếu NHNN bắt buộc trên thị trường mở để vay tiền của NHNN về đảm bảo khả năng thanh toán, nhưng NHNN đã từ chối, vì như vậy có nghĩa là lại "bơm" tiền ra trong khi kinh tế lạm phát còn cao. Tuy nhiên, đến tháng 9, CPI đã giảm khá mạnh, GDP tăng chậm so cùng kỳ. Mặc dù LS cho vay cao, nguồn vốn đã khá dư dả, nhưng nhiều NHTM đã có biểu hiện không muốn cho vay ra nền kinh tế vì sợ DN không có khả năng trả nợ, nhưng cũng vì lo đảm bảo tính thanh khoản do e ngại viễn cảnh của kinh tế vĩ mô trong nước và những bất ổn (có thể xảy ra) do tác động của thị trường tài chính thế giới nên NHNN đã chấp thuận. Tác động lớn nhất từ quyết định này là các NHTM sẽ yên tâm hơn khả năng đảm bảo tính thanh khoản của hệ thống. Từ đó sẽ giảm phần dự trữ (tiền gửi tại NHNN, tiền mặt tại quỹ, tỉ lệ đảm bảo thanh toán...) hiện nhiều NH đang để mức cao so với tỉ lệ quy định, tăng thêm phần vốn cho vay ra nền kinh tế. ۞LS hạ, nhưng cơ hội vay vốn chưa chia đều 27 Trong những ngày tới, chắc chắn một loạt các NHTM sẽ tiếp tục giảm lãi suất cho vay. Mặt bằng LS cho vay VND ngay trong tháng 10 có thể về mức 18% đến 20%/năm. Tuy nhiên, điều đó không đồng nghĩa với việc tất cả các đối tượng khách hàng có thể tiếp cận được vốn tín dụng. Việc giảm LS trong thời điểm này cũng đồng nghĩa với việc giảm doanh thu, nên các NH khó có thể áp dụng mức ưu đãi cho toàn bộ khách hàng có nhu cầu về vốn. Mức LS cho vay giảm, nhưng các NH vẫn tiếp tục sàng lọc hệ thống khách hàng và cơ cấu cho vay. Việc xét duyệt vay vốn của các NH vẫn sẽ rất chặt chẽ. Chỉ khách hàng có năng lực tài chính tốt và các lĩnh vực có hiệu quả cao của nền kinh tế mới có thể vay được NH. Bên cạnh đó, khách hàng có sử dụng nhiều hoặc trọn gói dịch vụ NH mới được ưu tiên. Khách hàng có tình hình tài chính xấu, hoạt động sản xuất-kinh doanh yếu kém, không có tiềm năng vẫn rất ít cơ hội tiếp cận vốn NH. Về lĩnh vực BĐS: Lãi suất hạ, lượng vốn tín dụng cung cấp cho nền kinh tế tăng thêm sẽ có tác dụng làm giảm sức ép giải chấp bất động sản, chứ cũng chưa có nhiều vốn "bơm" thêm vào thị trường này. Nhiều lãnh đạo NH cho biết chủ yếu cho vay ngắn hạn, rất hạn chế cho vay trung, dài hạn để tránh rủi ro về kỳ hạn vì tiền gửi NH chủ yếu là nguồn 3-6-9 tháng. Chỉ đến khi các chỉ số kinh tế vĩ mô thực sự có dấu hiệu ổn định tốt, lãi suất huy động hạ thấp hơn, tín hiệu nới lỏng chính sách tiền tệ được phát ra một cách rõ ràng thì cơ hội tiếp cận vốn tín dụng mới nhiều hơn cho mọi đối tượng khách hàng - trong đó có lĩnh vực BĐS, mà điều này theo dự báo chỉ có thế bắt đầu diễn ra vào nửa cuối năm 2009. 4. Định hướng mục tiêu năm 2009 Mục tiêu Chính phủ đề ra cho năm 2009 vẫn là "Tiếp tục ưu tiên kiềm chế lạm phát theo hướng giảm dần (năm 2009 dưới 15%), đến 2010 đưa tốc độ lạm phát xuống còn một con số, ổn định kinh tế vĩ mô, duy trì tốc độ tăng trưởng hợp lý (năm 2009 khoảng 7%)..." . Báo cáo của Bộ Kế hoạch - Đầu tư xác định trong năm 2009, nhiệm vụ trọng tâm là tiếp tục ưu tiên kiềm chế lạm phát theo hướng giảm dần, phấn đấu đến năm 2010 đưa tốc độ lạm phát xuống một con số, từ đó ổn định dần kinh tế vĩ mô, bảo đảm tốt hơn an sinh xã hội; tạo mọi điều kiện để duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế hợp lý bền vững. Về lĩnh vực kinh tế, tiếp tục thực hiện các giải pháp nhằm kiềm chế lạm phát, ổn định các cân đối kinh tế vĩ mô, trước hết là chính sách tài chính, tiền tệ. Bảo đảm cân đối cung cầu 28 hàng hoá, các vật tư đầu vào quan trọng và hàng tiêu dùng thiết yếu. Tiếp tục thực hiện cải cách tiền lương, đồng thời với việc triển khai thực hiện tốt các chính sách an sinh xã hội nhằm hỗ trợ cho người nghèo, người có thu nhập thấp... Về chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội và môi trường năm 2009, Bộ Kế hoạch - Đầu tư dự kiến tổng sản phẩm trong nước (GDP) tăng khoảng 7% so với năm 2008, tổng kim ngạch xuất khẩu đạt 76,7 tỷ USD, tăng 18% so với năm nay; tổng nguồn vốn đầu tư phát triển toàn xã hội khoảng 725 nghìn tỷ đồng, bằng 40% GDP; bội chi ngân sách nhà nước khoảng 87,3 nghìn tỷ đồng, bằng 4,8% GDP; chỉ số tăng giá tiêu dùng dưới 15%. Bộ Kế hoạch - Đầu tư đề ra 9 giải pháp chủ yếu để thực hiện kế hoạch trong năm 2009. Trong đó tập trung chỉ đạo thực hiện tốt chính sách tiền tệ và chính sách tài khoá để kiềm chế lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô; tháo gỡ khó khăn vướng mắc, thúc đẩy đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, tăng năng suất lao động, giảm chi phí, nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế; thực hiện các giải pháp chính sách để tạo việc làm, giảm nghèo và bảo đảm an sinh xã hội; đẩy mạnh thực hiện chủ trương xã hội hoá trong các lĩnh vực giáo dục, đào tạo, y tế, văn hoá, thể dục thể thao... 29 Kết luận Những kết quả thực tiễn cho thấy, chính sách tiền tệ mà chính phủ Việt Nam đang đề ra là tương đối phù hợp với tình hình kinh tế hiện nay. Tuy nhiên, tất cả chỉ mới là bước dạo đầu khi mới chập chững hội nhập cùng nền kinh tế thế giới. Vấn đề lựa chọn mục tiêu luôn là vấn đề cấp thiết nhất của mỗi quốc gia. Để có thể cạnh tranh với các nền kinh tế khác, đồng thời đưa nước ta đi lên công nghiệp hóa hiện đại hóa hoàn toàn, chúng ta cần phải nỗ lực hết sức mình, tính toán những bước đi phù hợp với một cơ chế chính sách thỏa đáng.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf05. Chinh sach tien te va su lua chon cua VN.pdf
Tài liệu liên quan