Lời mở đầu 2
1. Tổng quan tình hình kinh tế xã hội giai đoạn 2005 – 2010 3
2. Thực trạng cơ chế điều hành lãi suất của NHNN Việt Nam giai đoạn 2005 – 2010 5
2.1. Diễn biến lãi suất và sự điều chỉnh của NHNN năm 2005 5
2.2. Diễn biến lãi suất và sự điều chỉnh của NHNN năm 2006 5
2.3. Diễn biến lãi suất và sự điều chỉnh của NHNN năm 2007 6
2.4. Diễn biến lãi suất và sự điều chỉnh của NHNN năm 2008 6
2.5. Diễn biến lãi suất và điều chỉnh của NHNN năm 2009 7
2.6. Diễn biến lãi suất và sự điều chỉnh của NHNN năm 2010 8
3. Đánh giá cơ chế điều hành lãi suất của NHNN Việt Nam giai đoạn 2005 – 2010 9
3.1. Giai đoạn 2005 – 5/2008: Cơ chế lãi suất thỏa thuận, Ưu – nhược điểm 9
3.2. Cơ chế lãi suất cơ bản bằng Đồng Việt Nam (5/2008 – nay) 11
a. Nhằm hạn chế cuộc chạy đua lãi suất huy động của các NHTM, NHNN đã quy định trần lãi suất huy động là 12%/năm theo công điện 02/CĐ-NHNN ngày 26/02/2008 11
b. Sự phục hồi của nền kinh tế và cơ chế lãi suất thỏa thuận 14
Kết luận 17
Lời mở đầu
Trong thời gian qua , Việt Nam đã và đang đạt được những thành tựu to lớn nhất là trong lĩnh vực kinh tế với chủ trương xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng XHCN .Trong sự phát triển đó , NHTW đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong việc định hướng nền kinh tế , điều tiết các mối quan hệ trong nền kinh tế , chống lạm phát , thiểu phát và các nhược điểm phát sinh trong nền kinh tế thị trường . Một trong những công cụ được NHTW sử dụng nhiều nhất để thực hiện các chức năng của mình là công cụ lãi suất . Đây là một công cụ của chính sách tiền tệ được nhiều nhà nghiên cứu kinh tế quan tâm và được nhiều quốc gia sử dụng như một công cụ hữu hiệu để điều tiết nền kinh tế . Đồng thời , đây cũng được coi là một công cụ nhạy cảm nhất và là vấn đề nóng bỏng thu hút được nhiều sự quan tâm của các thành phần dân cư trong xã hội . Là một công cụ có vai trò quan trọng như vậy , nên lãi suất là một trong những biến số được theo dõi một cách chặt chẽ vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến mỗi người dân và có những ảnh hưởng rất to lớn tới nền kinh tế .
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề này và qua những kiến thức đã được tìm hiểu ở môn “Tài chính ngân hàng và sự phát triển” cùng với sự chỉ bảo của thầy giáo, em xin được trình bày hiểu biết của mình về vấn đề: "Cơ chế điều hành lãi suất của NHNN Việt Nam giai đoạn 2005 – 2010 ".
Bài tiểu luận gồm 3 phần chính:
1. Tổng quan tình hình kinh tế xã hội Việt Nam giai đoạn 2005 – 2010
2. Thực trạng cơ chế điều hành lãi suất của NHNN giai đoạn 2005 – 2010
3. Đánh giá cơ chế điều hành lãi suất của NHNN Việt Nam giai đoạn 2005 - 2010
Do hiểu biết còn hạn hẹp, chắc rằng bài viết của em không tránh khỏi những khiếm khuyết.
18 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2394 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Cơ chế điều hành lãi suất của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam giai đoạn 2005 – 2010, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu
Trong thời gian qua , Việt Nam đã và đang đạt được những thành tựu to lớn nhất là trong lĩnh vực kinh tế với chủ trương xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng XHCN .Trong sự phát triển đó , NHTW đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong việc định hướng nền kinh tế , điều tiết các mối quan hệ trong nền kinh tế , chống lạm phát , thiểu phát và các nhược điểm phát sinh trong nền kinh tế thị trường . Một trong những công cụ được NHTW sử dụng nhiều nhất để thực hiện các chức năng của mình là công cụ lãi suất . Đây là một công cụ của chính sách tiền tệ được nhiều nhà nghiên cứu kinh tế quan tâm và được nhiều quốc gia sử dụng như một công cụ hữu hiệu để điều tiết nền kinh tế . Đồng thời , đây cũng được coi là một công cụ nhạy cảm nhất và là vấn đề nóng bỏng thu hút được nhiều sự quan tâm của các thành phần dân cư trong xã hội . Là một công cụ có vai trò quan trọng như vậy , nên lãi suất là một trong những biến số được theo dõi một cách chặt chẽ vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến mỗi người dân và có những ảnh hưởng rất to lớn tới nền kinh tế .
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề này và qua những kiến thức đã được tìm hiểu ở môn “Tài chính ngân hàng và sự phát triển” cùng với sự chỉ bảo của thầy giáo, em xin được trình bày hiểu biết của mình về vấn đề: "Cơ chế điều hành lãi suất của NHNN Việt Nam giai đoạn 2005 – 2010 ".
Bài tiểu luận gồm 3 phần chính:
Tổng quan tình hình kinh tế xã hội Việt Nam giai đoạn 2005 – 2010
Thực trạng cơ chế điều hành lãi suất của NHNN giai đoạn 2005 – 2010
Đánh giá cơ chế điều hành lãi suất của NHNN Việt Nam giai đoạn 2005 - 2010
Do hiểu biết còn hạn hẹp, chắc rằng bài viết của em không tránh khỏi những khiếm khuyết.
Em rất mong được sự góp ý phê bình của thầy cô.
Em xin chân thành cảm ơn!
1. Tổng quan tình hình kinh tế xã hội giai đoạn 2005 – 2010
- Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 5 năm đạt 7%.
- Việc gia nhập tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) vào tháng 11 – 2006 mở ra một thời kỳ hội nhập sâu rộng chưa từng có, khiến mức giao lưu thương mại và đầu tư quốc tế tăng vọt. Trong 5 năm 2006-2010, tổng vốn FDI thực hiện đạt gần 45 tỉ USD, vượt 77% so với kế hoạch đề ra. Tổng số vốn đăng ký mới và tăng thêm ước đạt 150 tỉ USD, gấp hơn 2,7 lần kế hoạch đề ra và gấp hơn 7 lần so với giai đoạn 2001-2005. Tổng vốn ODA cam kết đạt trên 31 tỉ USD, gấp hơn 1,5 lần so với mục tiêu đề ra; giải ngân ước đạt khoảng 13,8 tỉ USD, vượt 16%.
- GDP năm 2010 tính theo giá thực tế đạt 101,6 tỉ USD, gấp 3,26 lần so với năm 2000; GDP bình quân đầu người đạt 1.168 USD.
- Các ngành, lĩnh vực của nền kinh tế đều có bước phát triển khá.
+ Sự phát triển ổn định trong ngành nông nghiệp, nhất là sản xuất lương thực đã bảo đảm an ninh lương thực quốc gia.
+ Sản phẩm công nghiệp phát triển ngày càng đa dạng và phong phú về chủng loại, chất lượng được cải thiện, từng bước nâng cao khả năng cạnh tranh, đảm bảo cung cầu của nền kinh tế, giữ vững thị trường trong nước và mở rộng thị trường xuất khẩu.
+ Đã chú trọng đầu tư phát triển một số ngành công nghiệp mới, công nghệ cao.
+ Khu vực dịch vụ có tốc độ tăng trưởng ổn định.
- Cơ cấu kinh tế tiếp tục được chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Cơ cấu lao động cũng có sự chuyển dịch tích cực. Cụ thể là: Tỉ trọng khu vực công nghiệp trong cơ cấu GDP từ 41% (năm 2005) tăng lên 41,1% (năm 2010); khu vực dịch vụ từ 38% (năm 2005) tăng lên 38,3% (năm 2010); khu vực nông nghiệp từ 21% (năm 2005) giảm xuống 20,6% (năm 2010); Cơ cấu lao động trong nông nghiệp từ 57,1% (năm 2005) giảm xuống 48,2% (năm 2010); trong công nghiệp và xây dựng từ 18,2% (năm 2005) tăng lên 22,4% (năm 2010); dịch vụ từ 24,7% (năm 2005) tăng lên 29,4% (năm 2010).
- Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tiếp tục được xây dựng và hoàn thiện; chủ trương, đường lối đổi mới của Đảng tiếp tục được thể chế hóa thành luật pháp, cơ chế, chính sách ngày càng đầy đủ, đồng bộ hơn; môi trường đầu tư, kinh doanh được cải thiện; các yếu tố thị trường và các loại thị trường tiếp tục hình thành, phát triển; nền kinh tế nhiều thành phần có bước phát triển mạnh.
- Việc kiện toàn các tổng công ty, thí điểm thành lập các tập đoàn kinh tế nhà nước đạt một số kết quả. Giai đoạn 2005-2010 doanh nghiệp nước ta tăng hơn 2,3 lần về số doanh nghiệp và 7,3 lần về số vốn so với 5 năm trước. Doanh nghiệp cổ phần trở thành hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh phổ biến.
Như vậy, trong giai đoạn 2005 - 2010, nền kinh tế vượt qua nhiều khó khăn, thách thức, kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, duy trì tốc độ tăng trưởng khá, tiềm lực và quy mô nền kinh tế tăng lên, nước ta đã ra khỏi tình trạng kém phát triển. Chính sự phục hồi và đạt mức tăng trưởng khá, tạo cơ sở vững chắc để thực hiện kế hoạch 5 năm 2011- 2015 đạt kết quả vững chắc hơn.
Bảng 1: Các chỉ tiêu kinh tế chủ yếu của Việt Nam giai đoạn 2005 – 2010
Năm
2005
2006
2007
2008
2009
2010
Tốc độ tăng trưởng GDP (%)
8,4
8,2
8,5
6,17
5,32
6,78
Tỷ lệ lạm phát (%)
8,3
7,5
8,3
23
6,88
11,75
Giá trị sản xuất công nghiệp (%GDP)
118,12
123,55
128,46
131,74
135,02
Xuất khẩu (%GDP)
69,36
73,61
76,9
78,21
63,42
Thâm hụt thương mại (%GDP)
4,18
4,56
15,85
16,54
9,16
Thâm hụt ngân sách (%GDP)
3,53
3,57
3,37
5,14
7
5,95
Luống vốn FDI vào (%GDP)
6,09
6,73
11,31
13,02
11,01
Nguồn: Tính toán từ số liệu Tổng cục thống kê
2. Thực trạng cơ chế điều hành lãi suất của NHNN Việt Nam giai đoạn 2005 – 2010
2.1. Diễn biến lãi suất và sự điều chỉnh của NHNN năm 2005
Năm 2005, thị trường tiền tệ thường xuyên nóng lên, Ngân hàng Nhà nước điều hành chính sách tiền tệ theo hướng chặt chẽ. Trong năm, Ngân hàng Nhà nước 3 lần quyết định điều chỉnh tăng lãi suất tái cấp vốn và lãi suất chiết khấu, 2 lần điều chỉnh tăng lãi suất cơ bản, lãi suất tiền gửi.
Cụ thể, từ tháng 1/2005, lãi suất tái cấp vốn tăng từ 5,0%/năm lên 5,5%/năm và lãi suất chiết khấu từ 3,0% lên 3,5%/năm. Từ tháng 2/2005 lãi suất cơ bản tăng từ 7,5%/năm lên 7,8%/năm.
Lãi suất tiền gửi và huy động vốn nội tệ của các ngân hàng thương mại trong năm 2005 bình quân tăng 0,48%/năm - 0,63%/năm của mỗi kỳ hạn so với năm 2004. Lãi suất huy động vốn và lãi suất cho vay USD của các ngân hàng thương mại trong nước cũng tăng lên, với mức tăng 1,25% - 1,5%/năm so với năm 2004.
2.2. Diễn biến lãi suất và sự điều chỉnh của NHNN năm 2006
Năm 2006, lãi suất trên thị trường thế giới có nhiều biến động, đặc biệt là đồng USD. Trong năm, Cục dữ trữ liên bang Mỹ đã 4 lần điều chỉnh tăng lãi suất đồng USD và hiện đang dừng ở mức 5,25% năm. Đây là đồng tiền có tác động trực tiếp đến quan hệ tỷ giá và lãi suất của đồng Việt Nam. Mặt khác, trong năm sự biến động của chỉ số giá cả, giá vàng và quan hệ cung - cầu vốn trên thị trường cũng là những nhân tố góp phần tác động đến sự biến động lãi suất tiền gửi của đồng Việt Nam.
Trong năm 2006, NHNN tiếp tục điều hành lãi suất theo hướng thận trọng, linh hoạt nhằm ổn định mặt bằng lãi suất. Các mức lãi suất của NHNN công bố trong năm 2005: Lãi suất tái cấp vốn 6,5%/năm, lãi suất tái chiết khấu 4,5%/năm, lãi suất cơ bản 8,25%/năm.
2.3. Diễn biến lãi suất và sự điều chỉnh của NHNN năm 2007
Trong năm 2007, NHNN điều hành chính sách tiền tệ theo hướng thắt chặt tiền tệ để rút mạnh tiền từ lưu thông về, giảm tốc độ tăng tổng phương tiện thanh toán và tín dụng nhằm kiểm soát lạm phát và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Theo đó, để tránh tác động không thuận lợi đối với tăng trưởng kinh tế, NHNN tiếp tục giữ ổn định lãi suất mức lãi suất cơ bản là 8,25%/năm, lãi suất tái cấp vốn là 6,5%/năm và lãi suất chiết khấu là 4,5%/năm. Lý do chủ yếu của việc giữ ổn định lãi suất này là nhằm phát tín hiệu định hướng ổn định lãi suất thị trường để hạn chế tác động tăng lãi suất cho vay và cộng hưởng làm tăng chi phí sản xuất, từ đó góp phần kiểm soát lạm phát. Đối với việc kiểm soát mức tăng tiền tệ để kiềm chế lạm phát, thì chủ yếu sử dụng nghiệp vụ thị trường mở, dự trữ bắt buộc, còn lãi suất chỉ đóng vai trò bổ trợ cho các công cụ này.
Riêng đối với lãi suất tiền gửi USD của pháp nhân tại TCTD, kể từ ngày 01/03/2007, NHNN bỏ quy định trần lãi suất tiền gửi bằng USD đối với pháp nhân, các TCTD đã được phép ấn định lãi suất tiền gửi bằng USD của pháp nhân theo cơ chế thoả thuận, phù hợp với nhu cầu vốn kinh doanh, cung cầu vốn ở thị trường trong nước và lãi suất thị trường quốc tế.
2.4. Diễn biến lãi suất và sự điều chỉnh của NHNN năm 2008
Đầu năm 2008, trong một loạt các biện pháp kiềm chế lạm phát, NHNN đã đưa ra Quyết định số 187/2008/QĐ-NHNN về việc tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc nhằm rút bớt tiền trong lưu thông, mở rộng dần các loại tiền gửi phải dự trữ bắt buộc; tiếp theo đó phát hành tín phiếu NHNN bằng tiền đồng dưới hình thức bắt buộc đối với các tổ chức tín dụng. Các NHTM đối mặt với khó khăn thiếu nguồn cung tiền đồng dẫn đến lãi suất huy động vốn tăng cao.
Trước tình hình đó, NHNN đã ra công văn số 02/CĐ-NHNN ngày 26/02/2008 quy định trần lãi suất huy động là 12%/năm nhằm hạn chế tình trạng này, Tiếp theo đó, ngày 17/5/2008, Quyết định số 16/2008/QĐ-NHNN về cơ chế điều hành lãi suất cơ bản bằng đồng Việt Nam được ban hành, các TCTD ấn định lãi suất kinh doanh (lãi suất huy động và lãi suất cho vay) bằng đồng Việt Nam không vượt quá 150% của lãi suất cơ bản do NHNN công bố áp dụng trong từng thời kỳ. Quyết định số 546/2002/QĐ-NHNN ngày 30/5/2002 về việc thực hiện cơ chế lãi suất thỏa thuận trong hoạt động tín dụng thương mại bằng VNĐ của TCTD đối với khách hàng hết hiệu lực thi hành. Việc huy động vốn bằng VNĐ của các TCTD phù hợp với quy định về cơ chế điều hành lãi suất cơ bản, mức trần lãi suất huy động 12%/năm theo công điện số 02/CĐ-NHNN ngày 26/02/2008 cũng không còn hiệu lực.
Chỉ trong năm 2008 đã có 8 lần điều chỉnh lãi suất cơ bản, lãi suất tái cấp vốn, lãi suât tái chiết khấu; 5 lần điều chỉnh dự trữ bắt buộc và lãi suất tiền gửi dự trữ bắt buộc.
2.5. Diễn biến lãi suất và điều chỉnh của NHNN năm 2009
Năm 2009, Chính phủ điều hành linh hoạt hơn và ít sốc hơn năm 2008, hệ thống tài chính ngân hàng đã trở lại bình thường và ổn định, doanh nghiệp tiếp cận được vốn VNĐ và ngoại tệ. Vào tháng 4/2009, NHNN đã có quyết định điều chỉnh một số mức lãi suất quan trọng trên thị trường tiền tệ bao gồm: lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu, lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán ...liên ngân hàng và cho vay bù đắp thiếu hụt vốn trong thanh toán bù trừ của NHNN đối với các ngân hàng đều đươc giảm với mức phổ biến 1%. Mặc dù mức lãi suất cơ bản được giữ nguyên là mức 7% nhưng động thái lãi suất quan trọng trên thị trường vẫn được xem là một động thái tiếp tục nới lỏng chính sách tiền tệ nhằm đẩy mạnh tiền ra cho sản xuất kinh doanh.
Ngày 23/1/2009, Chính phủ đã công bố gói kích thích kinh tế với mức lãi suất hỗ trợ 4% đối với các tổ chức, cá nhân vay vốn ngân hàng trong thời gian tối đa là 8 tháng, kết thúc vào ngày 31/12/2009.
Trong khi xu thế phục hồi nền kinh tế đã rõ rệt hơn, tình hình tiền tệ, tín dụng lại có rất nhiều biến động, đặc biệt đà nới lỏng tín dụng tăng cao, Chính phủ đã quyết định dừng hỗ trợ lãi suất ngắn hạn vào 31/12/2009 và tăng lãi suất cơ bản bằng VNĐ từ 7% lên 8%/năm, bắt đầu thực hiện từ 31/12/2009.
2.6. Diễn biến lãi suất và sự điều chỉnh của NHNN năm 2010
Diễn biến của lãi suất năm 2010 đi theo kịch bản của năm 2009: Lãi suất điều hành ổn định trong một thời gian dài và sau đó tăng lên vào cuối năm nhằm kiềm chế lạm phát; lãi suất thị trường có xu hướng giảm vào giữa năm và tăng cao trở lại những tháng cuối năm.
Năm 2010, một năm đầy biến động của thị trường tiền tệ trong nước cũng như trên thế giới, một năm mà nền kinh tế nước ta gặp rất nhiều khó khăn trong giai đoạn phục hồi sau những ảnh hưởng từ biến động kinh tế thế giới 2008 – 2009. Trước những biến động đó, để thực hiện đồng bộ với các giải pháp của Chính phủ, NHNN thực hiện điều hành chính sách tiền tệ thận trọng, linh hoạt nhằm tạo điều kiện hỗ trợ tích cực cho thị trường tiền tệ - tín dụng hoạt động ổn định, góp phần hỗ trợ tăng trưởng kinh tế và kiềm chế lạm phát gia tăng những tháng cuối năm một cách hiệu quả. Theo đó, NHNN đã duy trì lãi suất cơ bản bằng đồng Việt Nam ổn định ở mức 8% trong suốt 10 tháng đầu năm và thực hiện điều chỉnh lên mức 9% trong hai tháng cuối năm trước sức ép của lạm phát.
Nguồn: NHNN
Bên cạnh đó, để tạo điều kiện cho thị trường tiền tệ hoạt động theo quy luật thị trường, có sự quản lý của nhà nước, NHNN từng bước bố các quy định ràng buộc về các loại lãi suất của các TCTD. Cụ thể là trong năm, NHNN đã ban hành Thông tư số 03/2010/TT-NHNN; Thông tư 07/2010/TT-NHNN; Thông tư 12/2010/TT-NHNN cho phép TCTD được thực hiện cho vay bằng VND theo cơ chế lãi suất thoả thuận. Tuy nhiên trong năm vừa qua, chính sách điều hành cũng như chính sách lãi suất vẫn bị chi phối bởi chính sách kinh tế đa mục tiêu, chịu áp lực lớn từ biện pháp kinh tế vĩ mô của Chính phủ. Vì vậy, đã tạo ra những khó khăn nhất định trong công tác điều hành ổn định mặt bằng lãi suất của NHNN.
3. Đánh giá cơ chế điều hành lãi suất của NHNN Việt Nam giai đoạn 2005 – 2010
3.1. Giai đoạn 2005 – 5/2008: Cơ chế lãi suất thỏa thuận, Ưu – nhược điểm
Việc thực hiện cơ chế lãi suất thỏa thuận đã tạo điều kiện cho các ngân hàng chủ động trong việc huy động và cho vay vốn, lãi suất phản ánh được cung cầu trên thị trường, tạo điều kiện khai thác triệt để sức mạnh của cơ chế thị trường, các nguồn lực được phân phối và sử dụng có hiệu quả do đó đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế.
Tuy nhiên, thực tế từ khi cơ chế lãi suất thỏa thuận được đưa vào thực hiện, lãi suất vẫn còn thiếu tính thị trường. Nguyên nhân là thời kỳ này, 4 “đại gia” NHTM quốc doanh (VCB, MHB, ICB và BIDV) hiện đang chiếm 70% tổng tài sản của toàn bộ hệ thống ngân hàng, trong đó, mỗi NHTMQD hiện đang quản lý một khối tài sản tương đương 15 – 20% GDP với các khách hàng chính là các DNNN. Trong khi đó, Chính phủ hạn chế việc tiếp cận thị trường ngân hàng của các Ngân hàng liên doanh và chi nhánh ngân hàng nước ngoài ở Việt Nam. Do vậy, 4 “đại gia” này dễ dàng chi phối lãi suất trên thị trường. Thêm vào đó, quá nhiều ưu đãi về lãi suất của Chính phủ thông qua con đường cho vay chỉ định cũng làm mất đi tính thị trường của lãi suất.
Mặt khác, các tác động tiêu cực của tăng trưởng nhanh cũng dần bộc lộ. Lạm phát phi mã cuối năm 2007 là 12,63% cao nhất trong hơn chục năm trước đó. Chính sách thặt chặt tiền tệ được đưa ra để đối phó với lạm phát. Theo Quyết định số 187/2008/QĐ-NHNN, NHNN sẽ mở rộng diện các loại tiền gửi phải dự trữ bắt buộc, bao gồm các loại tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn, thay cho việc áp dụng dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn từ 24 tháng trở xuống trong thời gian qua. Tiếp đó là quyết định số 346/QĐ-NHNN về việc phát hành tín phiếu Ngân hàng Nhà nước bằng tiền đồng dưới hình thức bắt buộc đối với các tổ chức tín dụng nhằm thu hút 20.300 tỉ đồng.
Tình trạng khan hiếm tiền đồng trên thị trường tiền tệ xuất hiện và ngày càng trầm trọng trong 6 tháng đầu năm 2008 (do các khoản thanh toán của doanh nghiệp mạnh trong thời gian này; sự thiếu hỗ trợ trong cơ chế tái cấp vốn và những hoạt động rút tiền khỏi hệ thống liên NH trên thị trường mở của NHNN) khiến cho lãi suất tiền gửi VND liên ngân hàng tăng dữ dội, có thời điểm lên tới 30 – 40%/năm, đẩy các NHTM vào cuộc chạy đua lãi suất như một phản ứng tự nhiên nhằm huy động đủ một lượng vốn lớn trong thời gian ngắn đáp ứng hàng loạt các yêu cầu thắt chặt tiền tệ của NHNN như dự trữ bắt buộc, mua tín phiếu bắt buộc...
Và chỉ sau vài ngày chạy đua, lãi suất huy động của các NHTM (lên đến 15 – 16%/năm) đã cao hơn khá nhiều so với lãi suất tái cấp vốn của NHNN (13%/năm) và lãi suất tái chiết khấu (11%/năm) mà NHNN cũng vừa nâng lên, đã tạo ra một làn sóng chuyển tiền từ ngân hàng lãi suất thấp sang ngân hàng lãi suất cao, mà đi kèm với đó là áp lực lạm phát. Lãi suất huy động liên tục tăng dẫn đến lãi suất cho vay cũng tăng theo tỷ lệ thuận khiến hệ thống tài chính – ngân hàng mất an toàn, các doanh nghiệp đều phải cân nhắc lại cơ cấu vốn của mình cũng như các dự định sản xuất.
Cùng với đó là dấu hiệu của những tác động của cuộc đại suy thoái kinh tế thế giới mà khởi nguồn từ cuộc khủng hoảng tín dụng ở Mỹ diễn ra vào tháng 8/2007 ngày càng rõ nét.
Như vậy, hiện thời chưa thể phát huy hiệu quả của cơ chế lãi suất thỏa thuận bởi các yếu tố nền tảng của cơ chế này vẫn đang trong quá trình hoàn thiện. Do đó đòi hỏi phải có sự điều chỉnh trong cơ chế điều hành cho phù hợp với tình hình hiện tại.
3.2. Cơ chế lãi suất cơ bản bằng Đồng Việt Nam (5/2008 – nay)
a. Nhằm hạn chế cuộc chạy đua lãi suất huy động của các NHTM, NHNN đã quy định trần lãi suất huy động là 12%/năm theo công điện 02/CĐ-NHNN ngày 26/02/2008
Đến ngày 17/05/2008, NHNN thông báo những điều chỉnh trong chính sách điều hành lãi suất. Đó chính là Quyết định số 16/2008/QĐ-NHNN về cơ chế điều hành LSCB bằng Đồng Việt Nam. Theo Quyết định này, các tổ chức tín dụng ấn định lãi suất kinh doanh (lãi suất huy động và lãi suất cho vay) bằng đồng Việt Nam không vượt quá 150% của lãi suất cơ bản do NHNN công bố áp dụng trong từng thời kỳ; quyết định số 546/2002/QĐ-NHNN ngày 30 tháng 5 năm 2002 về việc thực hiện cơ chế lãi suất thỏa thuận trong hoạt động tín dụng thương mại bằng VNĐ của tổ chức tín dụng đối với khách hàng hết hiệu lực thi hành. Việc huy động vốn bằng VNĐ của các TCTD phù hợp với quy định về cơ chế điều hành lãi suất cơ bản, mức trần lãi suất huy động 12%/năm theo công điện số 02/CĐ-NHNN ngày 26/02/2008 cũng không còn hiệu lực.
Việc áp dụng kịp thời cơ chế điều hành LSCB đã ngăn chặn được nguy cơ xáo trộn thị trường tiền tệ và mất khả năng thanh toán của các NHTM trong những tháng đầu năm 2008, an toàn hệ thống ngân hàng được đảm bảo, củng cố lòng tin của các nhà đầu tư, doanh nghiệp và người dân đối với hệ thống ngân hàng. Khắc phục được tình trạng cạnh tranh không lành mạnh trong huy động vốn giữa các NHTM bằng cách đẩy lãi suất lên cao.
Cùng với diễn biến lạm phát có xu hướng giảm, kinh tế vĩ mô ổn định và hoạt động của các NHTM đảm bảo khả năng thanh toán, làm cho thị trường tiền tệ và lãi suất trong những tháng đầu năm 2009 tương đối ổn định. CPI bình quân năm 2009 chỉ tăng 6,88% so với năm 2008, mức thấp nhất trong 6 năm trở lại đây.
Cơ chế truyền dẫn của các biện pháp điều hành lãi suất đã có hiệu lực và hiệu quả đối với hoạt động kinh doanh của NHTM và lãi suất thị trường, thể hiện là lãi suất thị trường liên ngân hàng đã biến động xoay quanh các mức lãi suất chủ đạo của NHNN; lãi suất huy động và cho vay của các NHTM biến động theo cung – cầu vốn và tăng, giảm theo sự thay đổi của các mức lãi suất điều hành của NHNN, đã tác động làm cho thu hẹp hoặc mở rộng tín dụng.
Việc điều hành linh hoạt LSCB, vừa là công cụ điều tiết thị trường, vửa là động thái phát tín hiệu về chủ trương của Chính phủ và giải pháp điều hành chính sách tiền tệ của NHNN là thắt chặt hay nới lỏng tiền tệ. Năm 2008 và những tháng đầu năm 2009, tăng trưởng tổng phương tiện thanh toán và tín dụng phù hợp với chủ trương thắt chặt hoặc nới lỏng tiền tệ một cách thận trọng. Từ tháng 10/2008 đến nửa đầu năm 2009, NHNN chuyển hướng điều hành chính sách tiền tệ từ “thất chặt” để chống lạm phát sang “nới lỏng” nhằm mục tiêu hàng đầu là ngăn chặn suy giảm kinh tế, điều chỉnh giảm mạnh lãi suất cơ bản từ 14% - 13% - 11% - 8,5% - 7%/năm. Tính đến cuối tháng 5/2009, tăng trưởng tín dụng tăng 14,01% so với cuối năm 2008.
Ngoài ra cơ chế điều hành LSCB là phù hợp với quy định của Luật NHNN và Bộ luật Dân sự, mục tiêu của chính sách tiền tệ trong năm là kiểm soát lạm phát, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế ở mức cao và bền vững.
Tuy công cụ LSCB của NHNN đã phát huy hiệu quả trong năm 2008 và 6 tháng đầu năm 2009 ở bối cảnh kinh tế vĩ mô có nhiều biến động, góp phần kiềm chế lạm phát rồi chống suy giảm kinh tế...cơ chế LSCB cũng có những hạn chế nhất định.
Việc khống chế biên độ lãi suất làm cho các TCTD không thể phản ánh kịp thời để phòng tránh rủi ro về lãi suất và thanh khoản khi lãi suất thị trường tiền tệ trong nước và ngoài nước có biến động, chênh lệch lãi suất huy động và cho vay bị thu hẹp do lãi suất huy động tăng nhưng lãi suất cho vay không thể tăng được nữa.
Thực tế hoạt động ngân hàng thời gian qua cho thấy, do vướng trần lãi suất cơ bản, quan hệ cung cầu vốn và lãi suất đã bị biến dạng nghiêm trọng. Về nguyên tắc kinh doanh, khi cho vay, ngân hàng không thể cho vay với mức lãi suất thấp hơn chi phí và người gửi tiền sẽ không gửi vào ngân hàng nếu các cơ hội đầu tư tương tự có mức sinh lời tốt hơn. Do vậy, khi phải chịu khống chề bởi trần lãi suất các ngân hàng đã có những phản ứng tiêu cực để có một mức lãi suất huy động cũng như cho vay sao cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng có được mức sinh lợ cao nhất, chẳng hạn như việc lách lãi suất trần bằng việc thu phí dịch vụ “bất thành văn” khác từ các doanh nghiệp đi vay để đảm bảo khả năng sinh lời. Những khoản phí phụ trội này khiến cho lãi suất cho vay thực vượt xa 150% LSCB, cộng dồn lại có lúc một số nơi lên đến 18 – 20%, trong khi trần lãi suất là 12%. Thanh khoản ngân hàng thường xuyên bị căng thẳng, lãi suất huy động bị biến tướng và đẩy lên rất cao so với mức khống chế 10,5%/năm bởi nhiều chiêu khuyến mãi phá rào.
Các điều chỉnh lãi suất của NHTW còn chưa linh hoạt, thường chậm hơn so với các diễn biến của nền kinh tế và do đó chưa đạt được hiệu quả như mong muốn. Lấy ví dụ như tình trạng lạm phát diễn ra trong năm 2007 với mục tiêu kiềm chế tốc độ lạm phát thấp hơn tăng trưởng kinh tế, tuy nhiên khi tình trạng lạm phát diễn ra (lên đến 12,63%) thì NHNN vẫn duy trì mức LSCB như năm 2006 là 8,25% trong khi mưc độ lạm phát năm 2006 chỉ là 6,6%. Tiếp đó vào thời điểm lạm phát được kiểm soát vào khoảng cuối năm 2008 thì LSCB không những không giảm mà còn tiếp tục tăng lên (lên đến 14%/năm), điều này đã đẩy nhiều doanh nghiệp vào thế khó khi lãi suất quá cao gây khó khăn cho việc vay vốn trong khi giá sản phẩm đã giảm xuống do tác động của lạm phát đã được đẩy lùi. Mặt khác, nếu NHNN thi hành ngay việc tăng lãi suất cơ bản vào cuối năm 2007 thì lạm phát đã không thể bùng phát mạnh mẽ như vậy và kéo dài sang cả năm 2008.
Thêm vào đó, quy định trần lãi suất như nhau cho mọi loại hình kinh tế là điều chưa hợp lý. Nếu áp dụng cùng một mức lãi suất thì khả năng tiếp cận vốn của vay tiêu dùng bị xếp sau thứ tự ưu tiên, làm ảnh hưởng tiêu cực và là nguyên nhân đẩy khách hàng cá nhân ra khỏi hệ thống ngân hàng, họ phải tìm tới thị trường không chính thức với lãi suất cao, nạn cho vay nặng lãi xuất hiện.
Chính sách lãi suất cơ bản chưa khuyến khích được các TCTD cho vay trung và dài hạn. Trên thực tế, cho vay ngắn hạn vẫn chiếm tỷ trọng rất lớn trong tổng số nguồn vốn cho vay của các ngân hàng. Do đó các dự án trung và dài hạn thường gặp rất nhiều khó khăn trong việc tìm kiếm các nguồn vốn từ Ngân hàng.
Cơ chế điều hành lãi suất cơ bản là công cụ can thiệp trực tiếp đối với lãi suất kinh doanh của NHTM, do đó gây ra hạn chế nhất định trong việc thử nghiệm và đưa ra thị trường các sản phẩm tín dụng có độ rủi ro cao nhằm tìm kiếm lợi nhuận trên thị trường của các NHTM.
b. Sự phục hồi của nền kinh tế và cơ chế lãi suất thỏa thuận
Năm 2009, 2010, nền kinh tế Việt Nam đã có những dấu hiệu tốt như: mức tăng trưởng GDP tương ứng đạt 5,32% ... so với các nước trong khu vực là 4 – 5%, lạm phát ở mức...
Có thể thấy với hoàn cảnh đó, vai trò của việc áp đặt LSCB như 1 biện pháp hành chính để ổn định thị trường tỏ ra mờ nhạt và không còn phù hợp. LSCB đang dần mất đi ý nghĩa và trở thành “vòng kim cô” đối với lãi suất thị trường. Trong giai đoạn hội nhập kinh tế ngày càng sâu rộng cần thiết phải để cung cầu trên thị trường quyết định giá của quyền sử dung vốn, và chỉ nên xem LSCB là lãi suất định hướng thị trường của NHNN.
Xử lý vấn đề này, Thống đốc NHNN đã ban hành Thông tư số 01/2009/TT-NHNN (có hiệu lực từ ngày 01/02/2009) hướng dẫn về lãi suất thỏa thuận của các NHTM đối với cho vay các nhu cầu vốn phục vụ đời sống, cho vay thông qua nghiệp vụ phát hành và sử dụng thẻ tín dụng, đi kèm đó là cơ chế thống kê, theo dõi và thanh tra, giám sát nhằm hạn chế rủi ro.
Ngày 26/2/2010, Thống đốc NHNN chính thức có văn bản mở lại cơ chế cho vay theo lãi suất thỏa thuận đối với các khoản vay trung và dài hạn theo Thông tư số 07.
Ngày 14/4/2010, NHNN ban hành Thông tư 13 hướng dẫn tổ chức tín dụng cho vay bằng VNĐ đối với khách hàng theo lãi suất thỏa thuận. Với thông tư này, chỉ đạo của Chính phủ về việc mở cơ chế thỏa thuận lãi suất đối với các khoản vay ngắn hạn chính thức được triển khai. Theo nội dung thông tư, các tổ chức tín dụng thực hiện cho vay bằng VNĐ phải niêm yết công khai lãi suất cho vay ở mức hợp lý, trên cơ sở cung – cầu vốn thị trường, nhu cầu vay vốn và mức độ tín nhiệm của khách hàng vay, tiết kiệm chi phí hoạt động, tạo điều kiện cho khách hàng tiếp cận vốn vay để phát triển sản xuất – kinh doanh, nhất là khu vực nông nghiệp và nông thôn, doanh nghiệp xuất khẩu, doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Sự điều chỉnh này đã mang lại những lợi ích cụ thể như sau:
Thứ nhất, hình thành mặt bằng lãi suất cho vay minh bạch, rõ ràng và phản ánh đúng tín hiệu của thị trường, chấm dứt tình trạng phí “ngầm” mà NHNN cũng khó kiểm soát.
Thứ hai, tạo điều kiện cho các NHTM chủ động xác định mức lãi suất cho vay dựa trên yếu tố: chi phí vốn đầu vào của ngân hàng; mức độ rủi ro của từng khách hàng; lĩnh vực, ngành nghề kinh doanh của họ và một số yếu tố liên quan khác. Sự phân hóa khách hàng sẽ diễn ra rõ hơn: Khách hàng có uy tín sẽ được hưởng lãi suất thấp, còn khách hàng kém uy tín phải chịu lãi suất cao với mức độ khác nhau rõ rệt.
Thứ ba, tạo điều kiện cho các TCTD mở rộng mạng lưới để huy động vốn với mức lãi suất phù hợp; đáp ứng đầy đủ và kịp thời nhu cầu vốn của nền kinh tế. Khi các ngân hàng chủ động hơn trong xác định lãi suất và quy mô huy động với thời hạn hợp lý, rủi ro thanh khoản sẽ giảm.
Thứ tư, chính sách lãi suất thỏa thuận làm tăng sức ép lên việc đổi mới cách thức điều hành, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trên thị trường tài chính – ngân hàng Việt Nam.
Thêm vào đó, hạn chế đối với các khoản vay trung dài hạn khi áp dụng cơ chế lãi suất cơ bản được giải quyết.
Đồng thời, việc thực hiện cho vay theo lãi suất thỏa thuận cũng có những tác động tiêu cực:
- Thứ nhất, việc chưa gỡ bỏ trần lãi suất huy động trong khi thực hiện cơ chế lãi suất cho vay thỏa thuận làm xuất hiện những vấn đề phát sinh:
+ Lãi suất “đầu ra” không có trần (cả ngoại tệ và VNĐ), nhưng “đầu vào” lại có trần (đối với VNĐ), thì lợi ích sẽ nghiêng về các NHTM, chứ không nghiêng về người gửi tiền và cũng không nghiêng về người đi vay.
+ Người vay tiền mới được “giải cứu” khi được cấp bù lãi suất, nhiều người chưa hết khó khăn, nay vay vốn ngân hàng với lãi suất cao hơn khá nhiều thì sản xuất kinh doanh sẽ khó khăn hơn, tác động không nhỏ tới tăng trưởng kinh tế vừa mới thoát đáy, đang vượt dốc đi lên.
+ Nguy cơ tái lạm phát cao có dấu hiệu xuất hiện.
- Thứ hai, cạnh tranh giữa các ngân hàng khi không còn kiểm soát lãi suất sẽ dẫn tới tình trạng các ngân hàng nhỏ khó có khả năng cho vay với lãi suất thấp để cạnh tranh với các ngân hàng lớn.
- Thứ ba, tăng trưởng tín dụng sẽ tăng lên do các NHTM đẩy mạnh cho vay nhằm tìm kiếm lợi nhuận hoặc tiến hành các hoạt động kinh doanh mạo hiểm do sức ép phải cho vay lại với lãi cao. Điều này cũng có nghĩa là sẽ tạo sự cạnh tranh thiếu lành mạnh, thậm chí cấu thành các tội phạm và vỡ nợ tín dụng dây chuyền mang tính xã hội, làm tăng tính rủi ro và nhạy cảm, sự mất ổn định của hệ thống ngân hàng và kinh tế vĩ mô trong nước.
- Thứ tư, chính sách lãi suất thỏa thuận làm tăng sức ép lên việc đổi mới cách thức điều hành, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trên thị trường tài chính- ngân hàng Việt Nam.
Kết luận
Công cụ lãi suất là một công cụ rất nhạy cảm và có tác động rất lớn đến nền kinh tế , do đó NHTW phải thận trọng khi đưa ra các quyết định liên quan đến chính sách lãi suất , đồng thời phải đưa ra các biện pháp kịp thời , chính xác để can thiệp nhằm giữ ổn định cho thị trường .Việc thay thế cơ chế LSCB bằng lãi suất thoả thuận thực sự là một bước tiến mới trong điều hành chính sách tiền tệ của NHNN, các công cụ gián tiếp của chính sách tiền tệ chỉ điều hành thực sự có hiệu quả khi cơ chế lãi suất thoả thuận được thực hiện và phát huy hiệu quả.Tuy nhiên cơ chế điều hành lãi suất ở nước ta hiện nay vẫn chưa hoàn hảo, còn nhiều bất cập tác động đến toàn bộ nền kinh tế. Vì vậy cần phải nhìn nhận chính sách lãi suất là một trong những chính sách tiền tệ chung và phải kết hợp chặt chẽ , nhịp nhàng với các chính sách tiền tệ khác.
Với vốn kiến thức và thời gian có hạn, bài tiểu luận không tránh khỏi còn những thiếu sót. Rất mong thầy giáo và các bạn đóng góp ý kiến để bài viết được hoàn thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn!
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Giáo trình Tài chính Ngân hàng và sự phát triển - Miskin
Một số trang web:
www.mof.gov.vn
www.sbv.gov.vn
www.vneconomy.com
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tieu_luan_chinh_sach_lai_suat_9145.doc