Tiểu luận Cơ sở tồn tại của nền kinh tế thị trường và giải pháp phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta

Lời mở đầu Qua 15 năm đổi mới thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH và Chiến lược ổn định đất nước 10 năm ( 1991-2000) dưới sự lãnh đạo của Đảng, toàn Đảng và toàn dân ta đã vượt qua mọi khó khăn, thử thách đạt được những thành tựu to lớn và rất quan trọng. Kinh tế thị trường định hướng XHCN là nội dung cốt lõi của chính sách đổi mới toàn diện nền kinh tế Việt nam được chính thức bắt đầu kể từ Đại hội lần thứ VI Đảng Cộng sản Việt nam (1986). Với mục tiêu hàng đầu là giải phóng sức sản xuất, động viên tối đa mọi nguồn lực bên trong và bên ngoài cho công nghiệp hoá hiện đại hoá, nâng cao hiệu lực kinh tế xã hội. Phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN phải là ”quá trình thực hiện dân giàu, nước mạnh, tiến lên hiện đại trong một xã hội nhân dân làm chủ, nhân ái, có văn hoá, có kỷ cương xoá bỏ áp bức, bất công, tạo điều kiện cho mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc”. ( Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000, NXB sự thật, Hà Nội). Kinh tế thị trường phải được nghiên cứu từng bước, qua từng giai đoạn cụ thể để có thể rút ra được tính quy luật của nó, để nắm bắt nó. Vì thế đề tài “Cơ sở tồn tại của nền kinh tế thị trường và giải pháp phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta ” là vô cùng thiết thực và cần thiết, qua đó cộng với niềm thích thú, sự học hỏi của mình (sinh viên kinh tế) em thấy đề tài này là hoàn toàn phù hợp và thỏa mãn với mình.

docx20 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1632 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Cơ sở tồn tại của nền kinh tế thị trường và giải pháp phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐẶT VẤN ĐỀ Qua 15 năm đổi mới thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH và Chiến lược ổn định đất nước 10 năm ( 1991-2000) dưới sự lãnh đạo của Đảng, toàn Đảng và toàn dân ta đã vượt qua mọi khó khăn, thử thách đạt được những thành tựu to lớn và rất quan trọng. Kinh tế thị trường định hướng XHCN là nội dung cốt lõi của chính sách đổi mới toàn diện nền kinh tế Việt nam được chính thức bắt đầu kể từ Đại hội lần thứ VI Đảng Cộng sản Việt nam (1986). Với mục tiêu hàng đầu là giải phóng sức sản xuất, động viên tối đa mọi nguồn lực bên trong và bên ngoài cho công nghiệp hoá hiện đại hoá, nâng cao hiệu lực kinh tế xã hội. Phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN phải là ”quá trình thực hiện dân giàu, nước mạnh, tiến lên hiện đại trong một xã hội nhân dân làm chủ, nhân ái, có văn hoá, có kỷ cương xoá bỏ áp bức, bất công, tạo điều kiện cho mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc”. ( Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000, NXB sự thật, Hà Nội). Kinh tế thị trường phải được nghiên cứu từng bước, qua từng giai đoạn cụ thể để có thể rút ra được tính quy luật của nó, để nắm bắt nó. Vì thế đề tài “Cơ sở tồn tại của nền kinh tế thị trường và giải pháp phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta ” là vô cùng thiết thực và cần thiết, qua đó cộng với niềm thích thú, sự học hỏi của mình (sinh viên kinh tế) em thấy đề tài này là hoàn toàn phù hợp và thỏa mãn với mình. Đây là tiểu luận đầu tay của em nên chắc chắn không thể tránh khỏi những sai sót em rất mong nhận được sự góp ý nhiệt tình của thầy giáo để những lần sau em sẽ làm tốt hơn. Em xin chân thành cảm ơn. NỘI DUNG I. Sự cần thiết khách quan phải phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta. 1. Kinh tế thị trường và những đặc trưng của nó. Thế nào là kinh tế thị trường. Về phương diện kinh tế có thể khái quát rằng, lịch sử phát triển của sản xuất và đới sống xã hội của nhân loại đã và đang trải qua hai kiểu tổ chức kinh tế thích ứng với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hôị, hai thời đại kinh tế khác hẳn nhau về chất. Đó là: thời đại kinh tế tự nhiên tự cung tự cấp và thời đại kinh tế hàng hoá mà giai đoạn cao của nó được gọi là kinh tế thị trường. Kinh tế thị trường không phải là sản phẩm riêng, là đặc trưng của chủ nghĩa tư bản. Đó là thành tựu chung của nền văn minh nhân loại, nó đã từng tồn tại và phát triển qua những phương thức sản xuất khác nhau. Kinh tế thị trường là giai đoạn phát triển cao của kinh tế hàng hoá, cũng đã trải qua giai đoạn phát triển. Giai đoạn thứ nhất là giai đoạn chuyển từ kinh tế hàng hoá giản đơn sang kinh tế thị trường. Giai đoạn thứ hai là giai đoạn phát triển kinh tế thị trường tự do. Đặc trưng quan trọng của giai đoạn này là sự phát triển kinh tế diễn ra theo tinh thần tự do Nhà nước không can thiệp vào hoạt động kinh tế. Giai đoạn thứ ba là giai đoạn kinh tế thị trường hiện đại. Đặc trưng của giai đoạn này là Nhà nước can thiệp vào kinh tế thị trường và mở rộng giao lưu kinh tế với nước ngoài. Sự can thiệp của Nhà nước vào nền kinh tế thị trường thông qua việc xây dựng các hình thức sở hữu Nhà nước, các chương trình khuyến khích đầu tư và tiêu dùng, cùng với việc sử dụng các công cụ kinh tế như tài chính, tín dụng, tiền tệ, … để điều tiết nền kinh tế ở tầm vĩ mô. Sự phối hợp giữa Chính phủ và thị trường trong một nền kinh tế hỗn hợp nhằm bảo đảm sự phát triển có hiệu quả của những nước có mức tăng trưởng kinh tế nhanh. Mặc dù sự hình thành và phát triển của kinh tế hàng hoá tự phát sẽ “hàng ngày, hàng giờ đẻ ra chủ nghĩa tư bản” (nói theo cách nói của VI.Lê-nin) và sự phát triển của kinh tế thị trường trong lịch sử diễn ra đồng thời với sự hình thành và phát triển cuả chủ nghĩa tư bản, nhưng tuyệt nhiên kinh tế thị trường không phải là một chế độ kinh tế - xã hội. Kinh tế thị trường là hình thức và phương pháp vận hành kinh tế. Các quy luật của thị trường chi phối việc phân bổ các tài nguyên, quy định sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào và sản xuất cho ai. Đây là một kiểu tổ chức kinh tế hình thành và phát triển do những đòi hỏi khách quan của sự phát triển lực lượng sản xuất. Nó là phương thức sinh hoạt kinh tế của sự phát triển. Sự cạnh tranh trong cơ chế thị trường theo quy luật giá trị đòi hỏi các chủ thể sản xuất kinh doanh không ngừng đổi mới ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, nâng cao năng suất lao động, tiết kiệm chi phí, mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh. Quá trình hình thành và phát triển kinh tế thị trường là quá trình mở rộng phân công lao động xã hội phát triển khoa học công nghệ mới và ứng dụng chúng vào thực tiễn sản xuất kinh doanh. Sự phát triên của kinh tế thị trường gắn liền với quá trình phát triển của nền văn minh nhân loại, của khoa học kỹ thuật, của lực lượng sản xuất. Nhiều học giả đã khẳng định rằng: giai đoạn kinh tế hàng hoá giản đơn gắn liền với nền văn minh nông nghiệp và kỹ thuật thủ công; giai đoạn kinh tế thị trường tự do gằn liền với nền văn minh công nghiệp và kỹ thuật cơ khí; giai đoạn kinh tế thị trường hiện đại gắn liền với nền văn minh trí tuệ và kỹ thuật vi đIện tử tin học. 1.2 Những đặc trưng chung của nền kinh tế thị trường. Do kinh tế thị trường là sự phát triển cao của nền kinh tế hàng hoá và mọi yếu tố của sản xuất đều được thị trường hoá cho nên kinh tế thị trường có những đặc trưng chủ yếu sau: Một là, tính tự chủ của các chủ thể kinh tế rất cao, các chủ thể kinh tế tự bù đắp những chi phí và tự chịu trách nhiệm đối với kết quả sản xuất kinh doanh của mình, được tự do liên kết, tự do kinh doanh theo luật định. Kinh tế hàng hoá không bao dung hành vi bao cấp nó đối lập với bao cấp và đồng nghĩa với tự chủ năng động. Hai là, hàng hoá trên thị trường rất phong phú, phản ánh trình độ cao của năng suất lao động xã hội, trình độ phân công lao động xã hội, sự phát triển của sản xuất và thị trường. Ba là, giá cả được hình thành ngay trên thị trường, vừa chịu tác động của quan hệ cạnh tranh, quan hệ cung cầu hàng hoá và dịch vụ. Bốn la, cạnh tranh là một tất yếu của nền kinh tế thị trường, có nhiều hình thức cạnh tranh phong phú vì mục tiêu lợi nhuận. Năm là, kinh tế thị trường là kinh tế mở. 2. Kinh tế thị trường định hướng XHCN và yêu cầu của nó. 2.1 Thế nào là định hướng XHCN. Định hướng XHCN trong việc xây dựng nền kinh tế thị trường đã được báo cáo chính trị tại Đại hội VIII chỉ rõ vơí các nội dụng sau: Một là, thực hiện nhất quán lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần lấy việc giải phóng sức sản xuất động viên tối đa mọi nguồn lực bên trong và bên ngoài cho công cuộc công nghiệp hoá, hiên đại hoá, nâng cao hiệu quả kinh tế và xã hội, cải thiện đời sông của nhân dân là mục tiêu hàng đầu trong việc khuyến khích phát triển các thành phần kinh tế và hình thức tổ chức kinh doanh. Hai là, chủ động đổi mới phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế nhà nước, kinh tế hợp tác mà nòng cốt là hợp tác xã. Kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo cùng với kinh tế hợp tác xã trở thành nền tảng. Tạo điều kiện kinh tế và pháp lý thuận lợi để các nhà kinh tế tư nhân yên tâm đầu tư làm ăn lâu dài. Mở rộng các hình thức liên doanh, liên kết giữa kinh tế nhà nước với các thành phần kinh tế khác cả ở trong và ngoài nước. Ba là, xác lập củng cố và nâng cao địa vị làm chủ của người lao động trong nền sản xuất xã hội, thực hiện công bằng xã hội ngày càng tốt hơn. Bốn là, thực hiện nhiều hình thức phân phối, lấy phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế làm chủ yếu, đồng thời phân phối dựa trên mức đóng góp của các nguồn lực khác vào kết quả sản xuất kinh doanh và phân phối thông qua phúc lợi xã hội. Thừa nhận sự tồn tại lâu dài các hình thức thuê mướn lao động nhưng không để biến thành quan hệ thống trị, dẫn đến sự phân hoá xã hội thành hai cực đối lập phân phối và phân phối lại hợp lý các thu nhập, khuyến khích làm giầu hợp pháp đi đôi với xoá đói , giảm nghèo, không để diễn ra chênh lệch quá đáng về mức sống và trình độ phát triển giữa các vùng, các tầng lớp dân cư. Năm là, tăng cường quản lý vĩ mô của nhà nước khai thác triệt để vai trò tích cực đi đôi với khắc phục và ngăn ngừa hạn chế những tác động tiêu cực của cơ chế thị trường. Đảm bảo sự bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ trước pháp luật của mỗi doanh nghiệp và cá nhân không phân biệt thành phần kinh tế. Sáu là, giữ vững độc lập, chủ quyền và bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc trong quan hệ kinh tế với bên ngoài. 2.2 Những nội dung cơ bản của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN. Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN có những nội dung cơ bản sau: - Mục đích của nền kinh tế thị trường là phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật của XHCN, nâng cao đời sống nhân dân.Phát triển lực lượng sản xuất hiện đại gắn liền với xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp trên cả ba mặt sở hữu, quản lý, phân phối. - Tiêu chuẩn căn bản để đánh giá hiệu quả xây dựng quan hệ sản xuất theo định hướng XHCN là thúc đaảy lực lượng sản xuất, cải thiện đời sống nhân dân, thực hiện công bằng xã hội. - Có nhiều hình thức sỡ hữu, nhiều thành phần kinh tế trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể trở thành nền tảng vững chắc. Chế độ sở hữu cộng cộng(công hữu) về tư liệu sản xuất chủ yếu sẽ từng bước được xác lập và chiếm hữu thế tuyệt đối khi CNXH được xây dựng xong về cơ bản. - Kinh tế thị trường định hướng XHCN là nền kinh tế có sự quản lý của nhà nước XHCN bằng pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách sử dụng cơ chế thị trường, áp dụng các hình thức kinh tế và phương pháp quản lý kinh tế thị trường để kích thích sản xuất, giải phóng sức sản xuất, phát huy mặt tích cực, hạn chế và khắc phục mặt tiêu cực, bảo vệ lợi ích người lao động. - Thực hiện phân phối chủ yếu kết quả lao động và hiệu quả kinh tế, đồng thời phân phối theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác vào sản xuất kinh doanh và thông qua phúc lợi xã hội. - Tăng trưởng kinh tế gắn liền và đảm bảo tiến bộ và công bằng xã hội ngày càng từng bước phát triển. - Tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hoá và giáo dục, xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, làm cho chủ nghĩa Mác-lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần của nhân dân, nâng cao dân trí, giáo dục và đào tạo con người, xây dựng và phát triển nguồn nhân lực của đất nước. 2.3 Những yêu cầu của nền kinh tế thị trường. Nền kinh tế thị trường khác hẳn với nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp. Nghiên cứu dưới góc độ quân điểm toàn diện chúng ta nhận thấy rằng một mặt kinh tế thị trường làm cho cạnh tranh kết thúc đẩy khoa học phát triển, tiếp thu được những công nghệ và bí quyết mới. Nhưng mặt khác cũng làm cho hàng loạt các xí nghiệp, doanh nghiệp bị phá sản. Về mặt tích cực. Kinh tế thị trường tạo ra được những con người năng động, quyết đoán có được kinh nghiệm sau những lần cạnh tranh thắng lợi hay thất bại của mình nhằm. + Thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển nâng cao năng suất lao động xã hội. + Đẩy mạnh quá trình xã hội hoá lực lượng sản xuất. + Đẩy nhanh quá trình tích tụ và tập trung sản xuất. + Kích thích nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế, hàng hoá dịch vụ dồi dào và luôn được cải tiến. + Tăng tính năng động và điều chỉnh của nền kinh tế. + Thúc đẩy tiêu dung đổi mới công nghệ. + Nâng cao năng lực quản lý. Về mặt tiêu cực và hạn chế. + Phân hoá giầu nghèo- phân hoá giai cấp. + Sự phát triển mù quáng của các doanh nghiệp riêng lẻ tất yếu dẫn đến khủng hoảng chu kỳ, triệt tiêu lẫn nhau và thất nghiệp. + Động cơ săn đuổi lợi nhuận tối đa luôn gắn liền với những thủ đoạn không lành mạnh: đầu cơ, buôn lậu và lối sống duy vật chất xem thường truyền thống và các chuẩn mực đạo đức xã hội. + Giá cả hình thành tự do trên thị trường tự nó không phải lúc nào cũng phản ánh đúng quan hệ giá trị do: độc quyền của những doanh nghiệp lớn và nước lớn trong việc khống chế mức lưu thông và giá cả, đầu cơ nâng cao giá hoặc bán phá giá. + Đạo đức và bản sắc dân tộc. 3. Vai trò của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN với công cuộc xây dựng XHCN ở Việt Nam. Phát triển trở thành nhiệm vụ, mục tiêu số một đối với toàn Đảng, toàn dân ta trong bước đường đi tới. Muốn vậy, phải chuyển toàn bộ nền kinh tế quốc dân sang trạng thái của sự phát triển là phát triển nền kinh tế thị trường cùng với nó là thực hiện công nghiệp hoá-hiện đại hoá. Sự phát triển kinh tế xã hội nào rút cuộc cũng nhằm những mục tiêu xã hội, nhân văn nhất định. Phát triển theo nghĩa đầy đủ là bên cạnh sự gia tăng về lượng còn bao hàm cả sự thay đổi về chất. Phát triển là nâng cao phúc lợi nhân dân, nâng cao tiêu chuẩn sống và cải tiến giáo dục, sức khoẻ và bình đẳng về xã hội là tất cả những yếu tố cơ bản của phát triển kinh tế. Đảm bảo các quyền chính trị và công dân là mục tiêu phát triển rộng lớn. Học thuyết về hình thái kinh tế xã hội của C.Mác là một thành tựu của khoa học loài người. Nó phác hoạ quy luật vận động tổng quát của lịch sử nhân loại và sự phát triển của xã hội loài người sẽ tiến tới chủ nghĩa cộng sản, mà giai đoạn phát triển thấp là CNXH. CNXH không đối lập với phát triển, với kinh tế thị trường, mà là một nấc thang phát triển của sự phát triển. Nó là cách thức giải quyết các quan hệ xã hội vì cuộc sống tốt đẹp của đại đa số nhân dân lao động, của toàn xã hội, là sự thiết lập một trật tự xã hội với mục tiêu công bằng và văn minh. Sự phát triển chỉ đem lại sự giầu có và sự thống trị của tư bản của một số ít những người trong xã hội, thì sự phát triển đó mang tính chất TBCN, là sự phát triển cổ điển. Sự phát triển đem lại sự giầu có, phồn vinh, hạnh phúc cho đại đa số nhân dân lao động, cho toàn thể xã hội, thì sự phát triển đó mang tính chất chủ nghĩa là sự phát triển hiện đại. Cuộc đấu tranh cách mạng trường kỳ gian khổ và quyết liệt của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh nhằm giả phóng nhân dân lao động, đem lại hạnh phúc và giầu có cho nhân dân lao động. Vì vậy sự phát triển của Việt Nam trong hiện tại và tương lai phải là sự phát triển vì sự giầu có, nước mạnh, mà còn bao hàm vấn đề quan trọng mang tính hiện đại là thiết lập một tổ chức xã hội, một trật tự xã hội với nội dung công bằng và văn minh. Nhà nước XHCN của dân do dân và vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là đIều quan trọng đảm bảo thực hiện sự định hướng đó. Kinh tế thị trường định hướng XHCN là sự tìm tòi, thể hiện mới cả về lý luận và thực tiễn của CNXH trong thời đại hiện nay. II. Xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam trong những năm đổi mới thực trạng và phương hướng giải quyết. 1.Quan điểm của Đảng ta về kinh tế thị trường định hướng XHCN. Đảng ta không coi cơ chế thị trường là liều thuốc vạn năng và khuyến khích phát triển với bất cứ giá nào. Nếu tuyệt đối hoá nền kinh tế thị trường thì sẽ rơi vào một sai lầm nguy hiểm từ phía khác. Bởi vì kinh tế thị trường vốn có những hạn chế, khuyết tật, có tính tự phát bướng bỉnh và sự cạnh tranh quyết liệt; nó là môi trường thuận lợi để phát sinh nhiều tiêu cực và tệ nạn xã hội. Thực tế những năm qua, việc áp dụng cơ chế thị trường bên cạnh những mặt tích cực chúng ta phải trả giá không ít hiện tượng tiêu cực như: lối làm ăn chạy theo lợi nhuận đơn thuần đãn đến lừa đảo, hối lộ, chốn thuế, thương mại hoá tràn lan, làm cho giá trị đạo đức tinh thần đảo lộn và xuỗng cấp nhanh, lối sống ích kỷ thực dụng thấp hèn có nguy cơ tái phát ... Bản chất chế độ mới không cho phép tồn tại những hiện tượng như vậy. Đảng ta vạch rõ nền kinh tế thị trường mà chúng ta đang áp dụng phải là nền kinh tế có sự quản lý, hướng dẫn, điều tiết của nhà nước theo định hướng XHCN. Sự quản lý của nhà nước đảm bảo cho kinh tế thị trường phát triển đúng đắn, chăm lo lợi ích của nhân dân, vì con người, do con người, thực hiện công bằng xã hội, đồng thời tạo điều kiện và môi trường thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh, kiểm soát chặt chẽ và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật. Đảng chủ trương phát triển kinh tế thị trường nhưng không để cho nó vận động một cách tự phát, mù quáng, mà phải lãnh đạo, hướng dẫn, điều tiết, phát huy mặt tích cực , hạn chế mặt tiêu cực, vì lợi ích của đại đa số nhân dân lao động, vì một xã hội công bằng văn minh. Đảng Cộng sản – là Đảng phấn đấu cho lý tưởng XHCN và Cộng sản chủ nghĩa, thực sự đại diện và bảo vệ lợi ích của giai cấp cộng nhân và nhân dân lao động. Sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định nhất đảm bảo định hướng XHCN của kinh tế thị trường cũng như toàn bộ sự phát triển của đất nước ta. Vả chăng, trong suốt thời gian qua chính Đảng ta chứ không ai khác đã đề xướng và lãnh đạo công cuộc đổi mơí ở Việt Nam. Trách nhiệm của Đảng là phải lãnh đạo thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng CNXH ở Việt Nam vì sự phồn vinh của đất nước, vì cuộc sống hạnh phúc công bằng của toàn dân. 2. Thực trạng và quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN trong những năm đổi mới. 2.1 Giai đoạn từ 1986 - 1990. Trước năm 1986 nền kinh tế nước ta trong tình trạng thấp kém, sản xuất nhỏ, tự cung, tự cấp. Trình độ trang thiết bị trong sản xuất cũng như kết cấu hạ tầng kinh tế lạc hậu, năng suất lao động thấp kém … Nền kinh tế hoạt động với hiệu quả thấp, khủng hoảng kinh tế diễn ra nhiều năm với đặc trưng: sản xuất chậm không ổn định, lạm phát lên đến 774,7% năm 1986, trật an toàn không được đảm bảo, tham nhũng …Trước tình hình đó tháng 12-1986 Đại hội VI đã thừa nhận “ Đó là một sai lầm chủ quan, duy ý trí, không nắm vững quy luật khách quan và đã đề ra những chủ trương phát triển sản xuất hàng hoá nhiều thành phần xoá bỏ cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp, sử dụng đúng đắn quan hệ hàng – tiền, nhằm giải phóng mọi năng lực sản xuất hiện có, khai thác mọi khả năng tiềm tàng của đất nước … để phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất “. Đây là bước tiến quan trọng trong tư duy kinh tế của Đảng ta càng khẳng định rằng: không thể có thắng lợi của công cuộc đổi mới nếu xa rời tư tưởng cách mạng, học thuyết khoa học của chủ nghĩa Mác-lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Nhưng dẫu sao ĐạI hội VI chưa dùng khái niệm kinh tế thị trường, cơ chế thị trường và nói đến phát triển hàng hoá còn dè dặt, chưa bao quát hết các mặt của nó. Phải đến hội nghị lần thứ 6 của ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VI (tháng 3-1989) trên cơ sở tổng kết thực tiễn và nhấn mạnh: phát triển nền kinh tế hàng hoá có kế hoạch gồm nhiều thành phần đi lên CNXH là vấn đề có ý nghĩa có chiến lược lâu dài, có tính quy luật từ sản xuất nhỏ đi lên CNXH và thể hiện tinh thần dân chủ về kinh tế cơ chế thị trường … phải được vận dụng nhất quán trong kế hoạch hoá và chính sách kinh tế. Các nghị quyết sau Đại hội VI của Đảng, nhất là về phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần … đã được nhân dân hưởng ứng rộng rãi và đi sâu vào cuộc sống rất nhanh, góp phần khơi dậy nhiều tiềm năng và sức sáng tạo của nhân dân, làm cho nền kinh tế sống động hơn, các hoạt động kinh doanh, dịch vụ sôi động hơn, bộ mặt thị trường thay đổi nhộn nhịp hơn. Có thể nói, một trong những thành tựu nổi bật về đổi mới kinh tế trong những năm nay là chúng ta đã bước đầu chuyển được nền kinh tế từ chỗ mang nặng tính hiện vật, tự cung tự cấp với cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Điều này mọi người, mọi nhà đều cảm thấy được, bạn bè trên thế giới thấy rất rõ. Ví dụ như: trong giai đoạn 1986 – 1990 đầu tư toàn xã hội trung bình là 12,5% GDP, tăng trưởng kinh tế trung bình là 3,9%, kim ngạch xuất khẩu bình quân đạt 1,3 tỷ USD/năm, về lạm phát năm 1986 là 774,7% đến năm 1990 giảm xuống còn 67,1% (nguồn: Tổng cục thống kê). 2.2 Giai đoạn từ 1991-2000. Đại hội VII của Đảng (tháng 6-1991) khẳng định mạnh mẽ và dứt khoát hơn vấn đề kinh tế thị trường. Đại hội cho rằng phát triển “Kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước là hoàn toàn cần thiết để giải phóng và phát huy được các tiềm năng sản xuất trong xã hội”. Trong chiến lược ổn định và phát triển kinh tế – xã hội đến năm 2000 và Báo cáo chính trị tại Đại hội đã nêu rõ: thị trường ở nước ta bao gồm cả thị trường hàng hoá tiêu dùng, dịch vụ và thị trường các yếu tố sản xuất (vốn, tiền tệ, ngoại hối …) cả thị trường tư liệu sản xuất và thị trường sức lao động, thị trường trong nước và thị trường ngoài nước. Thị trường đóng vai trò trực tiếp hướng dẫn các doanh nghiệp lựa chọn lĩnh vực hoạt động, mặt hàng, quy mô, cộng nghệ và hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh nhằm đạt hiệu quả cao nhất trong môi trường hợp tác và cạnh tranh. Phải phấn đấu để sớm hình thành thị trường hoàn chỉnh thông suốt, gắn hệ thống giá nội địa với giá quốc tế, xoá bỏ độc quyền và đặc quyền ở hầu hết các ngàng và lĩnh vực kinh tế. Trong 5 năm đầu ( 1991-1995) tuy nền kinh tế vẫn đứng trước nhiều khó khăn, thử thách, nhưng việc triển khai mạnh mẽ đường lối đổi mới toàn diện của Đảng, phù hợp với nguyện vọng của nhân dân đã tạo ra nhiều động lực phát triển mới, hầu hết các chỉ tiêu chủ yếu của kế hoạch 5 năm được hoàn thành vượt mức và toàn diện mà các kế hoạch 5 năm trước đó chưa bao giờ thực hiện được. Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân hàng năm đạt 8,2% ( mục tiêu là 5-6,5%) trong đó nông nghiệp tăng 4,5% công nghiệp và xây dựng tăng 13,6%, dịch vụ tăng 8,8%, lạm phát kiềm chế ổn định ở mức thấp bình quân 23,4%/năm, giá hàng hoá và dịch vụ tăng trên thị trường năm 1991 tăng 67,6%, năm 1995 tăng 12,7%, tiền đồng ổn định, tỷ giá hối đoái giao động trên dưới 11000 VNĐ/USD, quan hệ xuất nhập khẩu đã có nhiều tiến bộ xuất khẩu hàng năm vẫn tăng: năm 1995 xuất khẩu 5,2 tỷ USD, nhập khẩu 7,5 tỷ USD, mức sống nhân dân được cải thiện GDP đầu người năm 1991 là 118 USD, năm 1995 là 273 USD … ( nguồn: Bộ kế hoạch và đầu tư). Như vậy kết quả đổi mới đạt được trong giai đọan này đã chứng minh đường lối phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, theo hướng mở được đề ra từ Đại hội VI là đúng đắn. Nó cũng chứng tỏ bài học kiện trì con đường đổi mới với bản lĩnh vững vàng, xoá bỏ tập trung hoá cao độ, giải phóng mọi nguồn lực, giải toả tư tưởng kỳ thị khu vực tư nhân đi liền với hình thức sở hữu quyền tư nhân, hoàn thiện pháp luật , cơ chế chính sách một cách đồng bộ và nhất quán … đây là những nhân tố cơ bản quan trọng góp phần đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng. Kết thúc thời kỳ kế hoạch 1991 –1995, Đại hội VIII đã kết luận “ Đất nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế – xã hội tuy còn một số mặt chưa vững chắc song đã tạo được tiền đề cần thiết để chuyển sang thời kỳ phát triển mới đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá”. Trong 5 năm (1996 – 2000) được xác định là bước rất quan trọng của thời kỳ phát triển mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Mục tiêu và các chỉ tiêu phát triển của kế hoạch 5 năm (1996 –2000) đã được xây dựng với mức phấn đấu rất cao, cả về tốc độ, chất lượng và hiệu quả tăng trưởng của nền kinh tế. Việc chuyển từ giai đoạn lấy ổn định kinh tế xã hội làm trọng tâm sang giai đoạn lấy phát triển làm trọng tâm đặt ra yêu cầu rất cao, rất toàn diện theo chiều sâu cải cách kinh tế, đặc biệt là phải chóng hình thành cơ cấu kinh tế hợp lý đủ sức vận hành thông suốt, hướng nền kinh tế đi vào phát triển và ổn định. Năm năm (1996 – 2000) bên cạnh một số thuận lợi, nước ta gặp nhiều khó khăn, thách thức: những yếu kém vốn có của nền kinh tế, những đợt thiên tai lớn liên tiếp, cuộc khủng hoảng tài chính – tiền tệ ở khu vực Châu á, tình hình thế giới và khu vực diễn biến phức tạp. Trong hoàn cảnh đó, toàn Đảng và toàn dân ta ra sức thực iện Nghị quyết Đại hội VIII, đạt được những thành tựu quan trọng: tổng GDP tăng trưởng bình quân 6,7%/năm, giá trị sản xuất công nghiệp tăng bình quân 12,2%/năm, giá trị các hàng dịch vụ tăng 6,4%/năm, tổng kim ngạch nhập khẩu đạt cao nhất từ trước đến nay: khoảng 50 tỷ USD, tăng bình quân 18,6%/năm (nguồn: văn kiện Đại hội Đảng IX). Bên cạnh những thành tựu còn những yếu kém, khuyết điểm: nhịp độ tăng trưởng kinh tế mấy năm đầu chậm ( năm 1996 9,3%, năm 1999; 4,8%, sáu tháng đầu năm 2000; 6,2%) một số chỉ tiêu đề ra không đạt ( nhịp độ tăng trưởng GDP kế hoạch đề ra là 9 – 10% nhưng chỉ đạt 6,7%/năm). Mặc dù có nhiều khó khăn, thử thách gay gắt, bị thiệt hại lớn do thiên tai liên tục xảy ra, nhưng nhìn chung việc thực hiện chiến lược ( 1991 – 2000) đã đạt được những thành tựu to lớn và rất quan trọng: tổng sản phẩm trong nước sau 10 năm tăng gấp đôi, tích luỹ nội bộ của nền kinh tế từ mức không đáng kể đến năm 2000 đạt 25% GDP, tốc độ tăng trưởng kinh tế trung bình 7,5%/năm ( nguồn: Bộ kế hoạch và đầu tư). Từ tình trạng khan hiếm, sản xuất không đáp ứng được nhu cầu thiết yếu nay đã đảm bảo lương thực, thực phẩm nhiều loại tiêu dùng có dự trữ ... kết cấu hạ tầng kinh tế phát triển nhanh, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế các thành phần kinh tế phát triển khá nhanh. Từ chỗ bị bao vây kinh tế, nước ta đã chủ động tranh thủ thời cơ từng bước hội nhập có hiệu quả với kinh tế thế giới, thu hút đáng kể đầu tư trực tiếp và nguồn tài trợ chính thức của nước ngoài. Mặt khác trình độ dân trí, chất lượng nguồn nhân lực và tính năng động trong xã hội được nâng cao, đời sống của tầng lớp nhân dân được cải thiện. 3. Tính toàn diện trong phương hướng phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta. 3.1 Tiếp tục tạo lập đồng bộ các yếu tố thị trường. Thị trường là sản phẩm tất yếu của sản xuất hàng hoá. Sản xuất hàng hoá càng phát triển thì thị trường càng phát triển nghĩa là sản phẩm hàng hoá quyết định thị trường, song bên cạnh đó thị trường cũng tác động trở lại đối với sản xuất hàng hoá, nó tác động thúc đẩy sản xuất hàng hoá khi thị trường càng được mở rộng thì quy mô sản xuất càng được tăng lên và sự phân lớp trong sản xuất ngày càng sâu sắc. Trong điều kiện các yếu tố thị trường phát triển không đồng bộ và toàn diện có phần nào đó cản trở việc hình thành nền kinh tế thị trường, làm cho thị trường phát triển không đúng bản chất. Trong thời gian tới việc cấp thiết là xây dựng và hoàn chỉnh một cách toàn diện các yếu tố thị trường, cụ thể là: Một là, phát triển thị trường hàng hoá và dịch vụ. Thị trường hàng hoá và diạch vụ là tất yếu nòng cốt của nền kinh tế hàng hoá. Có thị trường hàng hoá phát triển mới có thể đáp ứng được nhu cầu cho sản xuất và tiêu dùng đa dạng. Để thực hiện vấn đề này, một mặt phải ra sức sản xuất những hàng hoá gì mà thị trường cần và mặt khác phải nâng cao sức mua của thị trường trong nước, cả ở thành thị và nông thôn, chú ý thị trường các vùng có nhiều khó khăn. Mở rộng thêm thị trường mới ở nước ngoài. Hai là, phát triển thị trường sức lao động. ở nước ta thị trường lao động chưa phát triển tuy nhiên theo quan điểm toàn diện lao động là yếu tố không thể thiếu trong sản xuất kinh doanh. Do vậy, phát triển thị trường lao động cần được quan tâm đúng mức, việc mở rộng thị trường lao động trong nước cần có sự kiểm tra giám sát của nhà nước bảo vệ lợi ích của người lao động, người sử dụng lao động. Hoàn thiện hệ thống pháp luật chính sách để tạo cơ hội bình đẳng về việc làm cho người lao động tạo điều kiện thuận lợi và khuyến khích người lao động tự tìm việc làm, nâng cao trình độ, đào tạo lại học nghề mới. Ba là, phát triển thị trường vốn. Phát triển nhanh thị trường vốn, nhất là thị tr]ờng vốn dài hạn và trung hạn là yếu tố rất quan trọng để bảo đảm cho nền kinh tế phát triển và có tăng trưởng cao. Hình thành đồng bộ thị trường tiền tệ: tăng khả năng chuyển đổi của đồng tiền Việt Nam. Tổ chức và vận hành thị trường chứng khoán an toàn hiệu quả. Bốn là, tổ chức quản lý tốt thị trường bất động sản. Đất đai là thuộc quyền sở hữu của toàn dân, không phải của tư nhân, không cho phép việc mua bán đất đai, thực hiện tốt đúng luật đất đai, xác định đúng giá các loại đất đai để sử dụng có hiệu quả. Chăm lo giải quyết vấn đề nhà ở cho nhân dân ở những vùng đô thị phát triển, khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia xây dựng và kinh doanh nhà ở theo sự hướng dẫn và quản lý của nhà nước. 3.2 Phát triển các thành phần kinh tế trong đó kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo. Báo cáo chính trị tại Đại hội IX khẳng định: các thành phần kinh tế kinh doanh theo pháp luật đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh; trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Đối với các thành phần kinh tế cụ thể Đảng ta có những chủ trương phát triển như sau: Một là, kinh tế nhà nước phát huy vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, là lực lượng vật chất quan trọng và là công cụ để nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Doanh nghiệp nhà nước giữ những vị trí then chốt, đi đầu ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ nêu gương về năng suất chất lượng hiệu quả kinh tế xã hội và chấp hành pháp luật. Hai là, kinh tế tập thể phát triển với nhiều hình thức hợp tác đa dạng, trong đó hợp tác xã là nòng cốt. Phát triển hợp tác xã hộ kinh doanh tổng hợp đa ngành hoặc chuyên ngành. Nhà nước giúp hợp tác xã đào tạo cán bộ, ứng dụng khoa học kỹ thuật, trong khi mở rộng thị trường, xây dựng các quỹ hộ trợ phát triển hợp tác xã, giải quyết nợ tồn đọng. Khuyến khích tích luỹ và phát triển có hiệu quả vốn tập thể trong hợp tác xã. Ba là, kinh tế cá nhân tiểu thủ cả ở nông thôn và thành thị có vị trí quan trọng lâu dài. Nhà nước tạo điều kiện giúp đỡ để phát triển: khuyến khích các hình thức tổ chức hợp tác tự nguyện, làm vệ tinh cho các doanh nghiệp hoặc phát triển lớn hơn. Bốn là, kinh tế tư bản tư nhân được khuyến khích phát triển rộng rãi trong những ngành nghề sản xuất, kinh doanh mà pháp luật không cấm. Tạo môi trường kinh doanh thuận lợi về chính sách pháp lý để kinh tế tư bản tư nhân phát triển trên những định hướng ưu tiên của nhà nước, kể cả đầu tư ra nước ngoài; chuyển thành doanh nghiệp cổ phần, bán cổ phần cho ngươưì lao động; liên doanh liên kết với nhau, với kinh tế tập thể và kinh tế nhà nước. Xây dựng quan hệ tốt giữa chủ doanh nghiệp và người lao động. Năm là, kinh tế tư bản nhà nước phát triển đa dạng dưới các hình thức liên doanh, liên kết giữa kinh tế nhà nước với kinh tế tư nhân trong nước và ngoài nước, mang lại lợi ích thiết thực cho các bên đầu tư liên doanh. Sáu là, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được tạo điều kiện để phát triển thuận lợi, hướng vào xuất khẩu, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội gắn với thu hút công nghệ hiện đại, tạo thêm nhiều việc làm. Cải thiện môi trường kinh tế và pháp lý để thu hút mạnh vốn đầu tư nước ngoài. 3.3 Tiếp tục đổi mới các cộng cụ quản lý vĩ mô của nhà nước. Sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN vừa là một đặc trưng cơ bản của kinh tế thị trường định hướng XHCN vừa là một điều kiện tiền đề cần phải có để vận hành cơ chế thị trường ở nước ta. Sự hình thành và phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN không thể thiếu vai trò bà đỡ, khởi xướng, nuôi dưỡng của nhà nước. Hơn thế nữa vai trò quản lý kinh tế của nhà nước càng trở nên cực kỳ quan trọng với các chức năng của nó. Do đó phải đổi mới sự quản lý vĩ mô của nhà nước có vai trò quan trọng. Một là, tạo ra môi trường và điều kiện thuận lợi cho kinh tế phát triển trước hết là môi trường chính trị ổn định, đất nước hoà bình an ninh trật tự được bảo đảm ... ổn định hoá nền kinh tế, trong đó đặc biệt quan trọng là sự ổn định kinh tế vĩ mô tránh được những xáo động to lớn bất thường. Hai là, nhà nước đầu tư vốn phát triển từ ngân sách nhà nước, căn cứ vào hiệu quả kinh tế xã hội. Chuyển cơ chế phân bổ nguồn vốn vay nhà nước mang tính hành chính sang cho vay theo cơ chế thị trường, xoá bỏ bao cấp thông qua tín dụng đầu tư, đồng thời phát triển các quỹ hỗ trợ phát triển. Ba là, khởi xướng hướng dẫn và hỗ trợ mọi nỗ lực phát triển thông qua các công cụ quản lý vĩ mô: pháp luật, công cụ kế hoạch hoá để định ra các chiến lược phát triển, các cộng cụ của chính sách tài chính tiền tệ để kích thích kinh tế phát triển theo mục tiêu kế hoạch. Bốn là, thực thi các chính sách xã hội, đảm bảo tiến bộ và công bằng xã hội. Tuy không phải là chức năng quản lý trực tiếp của nhà nước, song nó đặc biệt quan trọng vì góp phần ổn định xã hội, ổn định kinh tế, thực thi chiến lược con người tạo ra động lực mạnh mẽ thúc đẩy kinh tế phát triển. 3.4 Nâng cao phẩm chất và năng lực của cán bộ lãnh đạo, quản lý trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam hiện nay. Năng lực và phẩm chất cán bộ là một trong những nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng. Nhận thức được tầm quan trọng đó trong suốt quá trình lãnh đạo của mình Đảng ta đứng đầu là Hồ Chủ Tịch đã luôn quan tâm đến công tác đào tạo, sử dụng cán bộ, giáo dục, rèn luyện họ trở thành những người có đủ đức, tài đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của cách mạng trong từng giai đoạn. Để nâng cao phẩm chất và năng lực cán bộ lãnh đạo quản lý trong nền kinh tế thị trường hiện nay đòi hỏi phải tiếp tục thực hiện công tác chỉnh đốn Đảng, làm trong sạch đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý, kiên quyết loại bỏ những kẻ cơ hội về chính trị, những kẻ thái hoá biến chất, kiếm trác chức quyền, những kẻ bất tài, không có trí tuệ và chính kiến. Làm tốt công tác quy hoạch và tạo nguồn cán bộ. Đánh giá, bồi dưỡng lựa chọn sử dụng cán bộ trên cơ sử tiêu chuẩn, lấy hiệu quả công tác thực tế và sự tín nhiệm của nhân dân làm thước đo chủ yếu. Đổi mới đội ngũ cán bộ lãnh đạo và quản lý theo hướng trẻ hoá, kết hợp các độ tuổi, đảm bảo tính liên tục, kế thừa và phát triển. 3.5 Phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và cộng nghệ, xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Xây dựng toàn diện về giáo dục và đào tạo, tăng cường tiềm lực và đổi mới cơ chế quản lý để đưa khoa học công nghệ vào sản xuất trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, làm nền tảng động lực cho sự phát triển. Hướng mọi hoạt động văn hoá vào xây dựng con người. Phát triển toàn diện về chính trị, tư tưởng, trí tuệ, đạo đức, thể chất, năng lực sáng tạo, có ý thức cộng đồng, lòng nhân ái, khoan dung, tôn trọng nghĩa tình, lối sống có văn hoá. Văn hoá trở thành nhân tố thúc đẩy con người tự hoàn thiện nhân cách, kế thừa truyền thống cách mạng, phát huy tinh thần yêu nước, ý trí tự lực, tự cường xây dựng và bảo vệ tổ quốc. KẾT LUẬN CHUNG Trong bối cảnh toàn cầu hoá nền kinh tế, cải cách, hội nhập kinh tế quốc dân và phát triển là các nhân tố có tác động qua lại chặt chẽ, thúc đẩy lẫn nhau để đạt và duy trì được tăng trưởng kinh tế bền vững, từng bước khắc phục nguy cơ tụt hậu của nền kinh tế. ở Việt Nam thời gian qua việc tổ chức lại nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, chúng ta đã gặt hái được những thành công mà thế giới đánh giá cao. Đó là chúng ta đã vận dụng đúng đắn quan điểm toàn diện trong việc phát triển nền kinh tế ngay từ khi bắt đầu đổi mới. 15 năm đổi mới 1986 – 2000 đã cho chúng ta nhiều kinh nghiệm quý báu. Những bài học đổi mới do các đại hội VI, VII, VIII của Đảng nêu lên vẫn còn có giá trị lớn. Trong quá trình đổi mới chúng ta luôn kiên trì mục tiêu độc lập dân chủ và CNXH trên nền tảng chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, dựa vào dân, vì dân phù hợp thực tiễn như Bác đã nói: “Dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó ngàn lần dân biết cũng xong”. Việc lựa chọn kinh tế thị trường định hướng XHCN là nội dụng cốt lõi của chính sách đổi mới nền kinh tế của Đảng và nhà nước ta là hoàn toàn đúng đắn, là mục tiêu hướng tới tương lai vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ và văn minh. Do đó muốn thành công chúng ta phải vận dụng quan điểm toàn diện một cách cụ thể, thiết thực, xem xét tổng thể các yếu tố để xây dựng nền kinh tế thị trường như Lênin đã nói: “Muốn thực sự hiểu được sự vật cần phải nhìn bao quát và nghiên cứu tất cả các mặt, tất cả các mối quan hệ và quan hệ gián tiếp của sự vật đó”. Cuối cùng, khẳng định dưới sự lãnh đạo của Đảng và nhà nước ta các lợi thế tiềm năng của nền kinh tế Việt Nam về lao động, về tài nguyên thiên nhiên, về vị trí địa lý trong khu vực sẽ được phát huy một cách cao độ, đưa nền kinh tế thị trường Việt Nam tiến nhanh, sánh kịp với các nước có nền kinh tế hiện đại như NICs Châu á và ASEAN. Chúng ta tin vào Đảng, vào sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng. MỘT SỐ TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Văn kiện đại hội đảng toàn quốc lần thứ IX 2.Giáo trình kinh tế chính trị-bộ giáo dục và đào tạo 3. Tạp chí cộng sản số 39/1998; 24/2000… 4. Lênin- Kinh tế chính trị trong thời kỳ chiến tranh vô sản 5. Giáo trình kinh tế chính trị tập II - ĐHKTQD 6. Tạp chí kinh tế phát triển số 16/1997; 42/1999… 7. Thời báo kinh tế

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxKTCT-25.docx
Tài liệu liên quan