Mở đầu
Nguyễn Tuân là một tác gia lớn trong văn học Việt Nam hiện đại. Tên tuổi và sự nghiệp của ông đã được khẳng định từ các tập tuỳ bút và nhất là tập truyện ngắn Vang bóng một thời trước Cách mạng tháng Tám. Đọc truyện ngắn Nguyễn Tuân, chúng tôi nhận thấy nghệ thuật trần thuật là một trong những phương diện cơ bản tạo nên giá trị thẩm mỹ đặc sắc cho văn phong của ông.
Từ trước Cách mạng tháng Tám 1945 cho đến nay, sáng tác của Nguyễn Tuân, nhất là truyện ngắn đã trở thành đối tượng nghiên cứu của nhiều công trình khoa học. Tuy nhiên, hướng nghiên cứu nghệ thuật trần thuật của nhà văn từ góc độ Tự sự học vẫn chưa được quan tâm đúng mức. Vì vậy, chúng tôi muốn qua việc tìm hiểu nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Tuân để xác lập một cái nhìn có tính hệ thống các phương thức trần thuật của nhà văn nhằm khám phá những đặc sắc trong sáng tạo nghệ thuật truyện ngắn của nhà văn này.
11 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2853 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Đặc điểm ngôn ngữ trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Tuân, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐẶC ĐIỂM NGÔN NGỮ TRẦN THUẬT
TRONG TRUYỆN NGẮN NGUYỄN TUÂN
Nguyễn Bỉnh Hải - Vũ Thanh Hà
Nguyễn Tuân là một tác gia lớn trong văn học Việt Nam hiện đại. Tên tuổi và sự
nghiệp của ông đã được khẳng định từ các tập tuỳ bút và nhất là tập truyện ngắn Vang
bóng một thời trước Cách mạng tháng Tám. Đọc truyện ngắn Nguyễn Tuân, chúng tôi
nhận thấy nghệ thuật trần thuật là một trong những phương diện cơ bản tạo nên giá trị
thẩm mỹ đặc sắc cho văn phong của ông. Từ trước Cách mạng tháng Tám 1945 cho đến
nay, sáng tác của Nguyễn Tuân, nhất là truyện ngắn đã trở thành đối tượng nghiên cứu của
nhiều công trình khoa học. Tuy nhiên, hướng nghiên cứu nghệ thuật trần thuật của nhà
văn từ góc độ Tự sự học vẫn chưa được quan tâm đúng mức. Vì vậy, chúng tôi muốn qua
việc tìm hiểu nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Tuân để xác lập một cái
nhìn có tính hệ thống các phương thức trần thuật của nhà văn nhằm khám phá những đặc
sắc trong sáng tạo nghệ thuật truyện ngắn của nhà văn này. Có thể xét trên một số phương
diện như sau:
1. Sử dụng lời nửa trực tiếp
Lời nửa trực tiếp trong tác phẩm tự sự, về cơ bản đây là lời nhân vật, và qua lời nói
này người đọc nhận ra suy nghĩ, diễn biến tâm trạng của nhân vật. Trong thực tế tác phẩm
Nguyễn Tuân, có xu hướng xóa nhòa khoảng cách trong các lời trần thuật. Ranh giới giữa
người trần thuật và đối tượng trần thuật rất mong manh. Sử dụng lời nửa trực tiếp là một
trong những cách hữu hiệu để nhà văn vừa theo sát diễn biến tâm trạng nhân vật, vừa tạo
điều kiện cho độc giả gần gũi, đồng cảm với nhân vật. Biện pháp này chỉ xuất hiện ở điểm
nhìn trần thuật không tham dự, khi người kể đứng ngoài cuộc chứng kiến diễn biến câu
chuyện về cuộc đời nhân vật. Để nhập cuộc, tác giả phải sử dụng lời nửa trực tiếp.
Nguyễn Tuân rất thành công trong sử dụng thủ pháp nghệ thuật này để khắc họa nội tâm
nhân vật. Trong Chữ người tử tù, Nguyễn Tuân đã xây dựng một tình huống gặp gỡ khác
thường của hai con người khác thường để làm nền cho sự phát hiện và miêu tả nội tâm
nhân vật. Là kẻ đại diện cho bạo lực tăm tối, viên quản ngục lại là người có tấm lòng “biệt
nhỡn liên tài”, khao khát ánh sáng của chữ nghĩa. Cái thiên lương “trong trẻo” ấy hoàn
toàn đối lập với nghề nghiệp đang làm, nơi chốn mình đang sống. Kẻ ấy đã gặp được một
người viết chữ nổi tiếng mà mình vốn nghe danh, vốn tôn kính lâu nay. Song thật oái oăm,
hai nhân cách khác thường này lại gặp nhau nơi nhà ngục tử tù và cuộc gặp gỡ ấy trở
thành cuộc chạm trán giữa người tử tù “đứng đầu bọn phản nghịch” với quan coi ngục.
Làm thế nào để xin được chữ của Huấn Cao khi ông ta đang ở trong trại giam mình
quản lý? Đây là một thách thức đối với quản ngục. Nguyễn Tuân đã nhập sâu vào nội tâm
nhân vật nói lên nỗi lòng quản ngục: “Ngục quan băn khoăn ngồi bóp thái dương”, “nghĩ
ngợi về câu nói ban chiều của thầy thơ lại”; “Quản ngục chỉ mong mỏi một ngày rất gần
đây ông Huấn sẽ dịu bớt tính nết, thì y sẽ nhờ ông viết, ông viết cho… cho mấy chữ trên
chục vuông lụa trắng đã mua sẵn và can lại kia. Thế là mãn nguyện. Biết đọc vỡ nghĩa
sách thánh hiền, từ những ngày nào, cái sở nguyện của viên quan coi ngục này là có một
ngày kia được treo ở nhà riêng mình một câu đối do tay ông Huấn Cao viết... Có được chữ
ông Huấn mà treo, là có một vật báu trên đời. Viên quản ngục khổ tâm nhất là có một ông
Huấn Cao trong tay mình, dưới quyền mình mà không biết làm thế nào mà xin được chữ.
Không can đảm giáp lại mặt một người cách xa y nhiều quá, y chỉ lo mai mốt đây, ông
Huấn bị hành hình mà không kịp xin được mấy chữ thì ân hận suốt đời mất”(1). Đằng sau
mỗi lời văn ấy là ước nguyện tha thiết, cháy bỏng, và tấm lòng chân thật hướng về cái đẹp
của quản ngục. Nguyễn Tuân đã đưa đến cho người đọc những rung cảm thẩm mỹ sâu xa
trước vẻ đẹp của “một tấm lòng trong thiên hạ”.
Truyện Một người muốn đập vỡ đàn thuật lại cảnh sống ê chề, nhục nhã của Xuân,
một nhạc công hàng ngày vẫn phải gò lưng kéo đàn ở tiệm Bagatelle để “thỏa mãn ít
nhiều nhục dục” cho đám khách ngoại quốc. Bọn Xuân như một cái máy thụ động, cứ việc
ngồi đấy mà đàn, đàn cho đến sáng hửng. Bao giờ những vị khách mỏi, nghỉ thì đám nhạc
công kia mới được quyền mỏi mệt. Không hề có sự cảm thông, chia sẻ từ đám người giàu
có kia. “Tai họ đã ngấy những âm thanh quen thuộc ngày ngày của khúc loạn tấu rồi”.
Nhà văn đã thấu hiểu tâm tư nhân vật nên đã để cho nhân vật tự ý thức, tự giãi bày về cái
vô nghĩa, cái tầm thường của cuộc sống mình: “Xuân cảm thấy cái đời nhạc công của
mình ở một khách sạn khiêu vũ, không những là vô vị mà còn nhục nhã là khác nữa. Tấu
nhạc trong hoàn cảnh này đã hết một cái thú thanh cao âm thầm của tâm hồn. Ra từ trước
tới giờ Xuân chỉ là một kẻ a tòng vô tình giúp một tay vào những trò kiêu sa dâm ác của
một đám người thừa ăn thừa mặc, tìm nhau ở đây để ăn một bữa cơm đắt tiền, mượn tiếng
đàn để làm tiêu một cuộc no say hãnh diện và trai gái ấy đã mượn luôn âm nhạc để cho
nhau chút ảo tưởng của tình ái mà mặt thực thì chỉ là những thú tính thô kệch. Có một sự
đổ vỡ ghê gớm trong tâm hồn Xuân. “Chàng buồn rầu hơn nữa, khi nhận thấy từ trước tới
giờ, chưa bao giờ mình là nghệ sỹ”… Thì ra bấy lâu nay, Xuân chỉ chạy theo thiên hạ,
“chàng đã ca ngợi những cái vui tầm thường ở cạnh mình... Xuân nhận thấy mình, từ
trước đến nay, đối với thiên hạ thì hậu quá mà đối với riêng mình thì đã quá bạc bẽo”(2).
Sự hiện diện của ý thức nhân vật Xuân qua lời tự bạch về cuộc sống của mình trong đoạn
văn trên càng khắc họa sinh động diễn biến tâm lý nhân vật. Trong hình thức trần thuật
này, ngôn ngữ người trần thuật và ngôn ngữ nhân vật hòa quyện. Tiếng lòng của nhân vật,
của nhà văn hòa nhập làm một đã giúp người đọc hiểu và cảm thương hơn số phận bi kịch
của những người nghệ sỹ như Xuân, phải sống trong một xã hội nhố nhăng, vô cảm.
Phương thức trần thuật có sử dụng lời nửa trực tiếp trong tác phẩm tự sự là một
hình thức ngôn ngữ linh hoạt. Nguyễn Tuân cũng rất thành công ở hình thức ngôn ngữ
này. Nó giúp nhà văn có khả năng thâm nhập sâu vào thế giới nội tâm nhân vật để phát
hiện, miêu tả và thể hiện thái độ, tình cảm của mình dành cho nhân vật. Nhất là khi nhà
văn bày tỏ sự đồng cảm, chia sẻ cùng nhân vật.
2. Câu văn trần thuật
Nguyễn Tuân vốn được đánh giá là bậc thầy trong sử dụng tiếng Việt. Sức ám ảnh,
hấp dẫn của văn Nguyễn Tuân là ở những cách dùng từ, tạo từ và còn do cách kiến trúc
câu văn đa dạng, sáng tạo, công phu để thể hiện nội dung một cách tài hoa... Nhà văn bao
giờ cũng muốn tạo nên những bất ngờ thú vị cho độc giả khi đọc văn mình. Tác giả Mai
Quốc Liên có những nhận xét xác đáng về đặc điểm hành văn của Nguyễn Tuân: “Câu
văn Nguyễn Tuân… nó trùng điệp, phức điệu và phức cú để diễn đạt cho được những
quan hệ phức tạp của chính hiện thực và tâm trạng”(3). Xét theo thi pháp học hiện đại, ta
biết đến “cái đẹp ngữ pháp” của câu văn. Câu văn Nguyễn Tuân đẹp là do cấu trúc tầng
lớp mà bao giờ cũng trong sáng, cũng đúng, ở đó ông chú ý đến giọng điệu, cách sắp xếp
trật tự của các từ để làm nổi bật các quan hệ trong sự vật và trong cảm giác của chính ông.
Xét ở chức năng thông tin, câu văn Nguyễn Tuân rất rạch ròi, mạch lạc về thông tin và ý
tưởng. Xét ở khả năng biểu cảm, câu văn Nguyễn Tuân giàu hình ảnh so sánh, ẩn dụ,
tượng trưng gợi nhiều liên tưởng thú vị, bất ngờ, nhất là khả năng tạo hình, gợi cảm giác
để ám ảnh người đọc.
Nhìn chung câu văn Nguyễn Tuân khá đa dạng trong kiến trúc ngữ pháp. Trong đó,
nổi bật với cái cách gặm nhấm, phân tích tinh tế cảm giác, cảm xúc, tâm lý, cái cách liên
tưởng nhiều tầng, nhiều lớp… Đặc điểm này thường xuất hiện ở những đoạn văn miêu tả
trong quá trình trần thuật. Câu văn lúc đó thường mở rộng nhiều thành phần, lặp cấu trúc
ngữ pháp theo kiểu liệt kê để miêu tả tỷ mỉ, hoặc mở rộng liên tưởng so sánh… nhằm phô
diễn cảm xúc, cái tài hoa và vốn từ giàu có của mình. Những lúc ấy, người đọc có cảm
giác Nguyễn Tuân lan man, một kiểu lan man tài hoa. Đây là hình ảnh rất sinh động, hài
hước về một người già phương Đông học tiếng Tây: “Một người đứng tuổi, xù xù cái áo
bông, ngồi xếp vòng tròn trên sập, bên chiếc văn kỷ, trong một cái buồng bầy những cổ
đỉnh, trồng cao chất đống những bức tứ bình viết phú Xích Bích đủ tiền, đủ hậu theo kiểu
chữ triện, những cây phất trần bằng lông ngựa trắng, những thanh kiếm bằng tiền đồng
lịch triều kết lại, một người như thế, ở trong một gian phòng cổ kính như vậy mà ngồi
đánh vần tây và chăm chú học tiếng một cứ bô bô lên, thì ai trông thấy và nghe thấy mà
khỏi phì cười, nếu người ta không cho như thế là quái đản?”(4). Câu văn thể hiện khá rõ sự
chủ động, tỉnh táo để điều khiển ngọn bút của Nguyễn Tuân. Ông phô diễn chất uyên bác
bằng sự lý giải một cách cụ thể, triệt để nhằm chi tiết hóa sự việc ông Hồ học tiếng Tây,
qua đó gây ấn tượng sâu sắc về sự khác biệt giữa văn hóa phương Đông và phương Tây.
Câu văn này làm người ta nhớ đến kiểu câu văn dài như “một đoàn tàu chợ” của Nguyên
Hồng. Kiểu câu văn dài do mở rộng thành phần câu thường được Nguyễn Tuân sử dụng
khi thuật, tả các hành động của nhân vật. Cảnh Bát Lê luyện lối chém “treo ngành” được
tác giả miêu tả tỷ mỉ bằng những câu văn có nhiều vị ngữ: “Thế là từ hôm ấy Bát Lê lĩnh
thanh quất của quan Tổng đốc leo lên tường thành, xông xáo trong vườn chuối, hết sức tự
do, hết sức tàn nhẫn, chém ngang thân loài thực vật, trước khi chém vào cổ 12 tử tù đang
nằm đợi ngày cuối cùng”. “Trước khi hoa thanh quất trong mấy hàng chuối được chọn lựa
kỹ càng kia, Bát Lê đã múa đao chém lia lịa vào thân mọi cây chuối khác, chém không
tiếc tay, chém như một người hết sức tự vệ trong một cuộc huyết chiến để mở lấy một con
đường máu lúc phá vòng vây. Một buổi sớm, Bát Lê nhảy nhót trong vườn chuối, đưa lưỡi
gươm qua bên phải, múa lưỡi gươm qua phía trái, thanh gươm hai lưỡi đã gọn gàng,
nhanh nhẹn phạt qua thân mấy trăm cây tươi còn nặng trĩu sương đêm”(5). Nhờ cách miêu
tả chi tiết, tỷ mỉ trong những câu văn như vậy mà hình ảnh về Bát Lê ôn luyện tay nghề
trước khi hành sự càng sinh động, ám ảnh hơn trong lòng người đọc. Nguyễn Tuân còn
dùng những câu văn dài để vừa tái hiện, vừa bày tỏ tình cảm của người kể chuyện về một
buổi đố chữ lấy tiền, một nét văn hóa ngày xưa nay không còn nữa: “Người ta đang sát
phạt nhau bằng tiền, đem cái may rủi cả vào đến cõi văn thơ và trên mặt nước sông thu,
tiếng ngâm một câu thơ được cuộc, tiếng ngâm một câu thơ thua cuộc mất ăn tiền, những
tiếng đó đều âm hưởng trên làn nước lạnh, thanh âm nghe trong trẻo, du dương và thái
bình như tiếng vang của một hội tao đàn nào”(6). Loại câu văn này cũng rất phù hợp với
việc miêu tả, khắc họa tính cách nhân vật. Ông Cử Hai - “người không có lấy một giây
phút trịnh trọng đối với nhân sinh”, có khoa mà không có hoạn, quanh năm đi dạy học ở
bốn tỉnh tứ chính Đông Nam Đoài Bắc: “Không cần phụ huynh học sinh xử hậu hay bạc,
không cần địa phương ấy là có đất văn tự hoặc dân ấy có nếp văn chương muốn cầu học
chữ của thầy, có khi tới ở đó ít ngày, ngồi giảng bài chưa ấm phòng học, ông đã quẩy
khăn gói tráp điều lên đường”. Hoặc câu: “Và những lúc mỏi chân phải ngừng ở lại các
thôn ổ, ông lại còn thỉnh thoảng ngừng cả cái miệng giảng sách hoặc ngừng chấm nét son
lên quyển bài, để đề một một bức châm lên lá quạt tặng bạn đồng song, để khắc chữ triện
và chạm trổ một hòn đá xù xì cho thành một con thạch ấn, để dúng ngón tay trỏ vào chậu
mực vẽ một bộ tứ bình thủy mặc có hình đủ bốn thứ cây cỏ tứ hữu: cúc, trúc, lan, mai treo
chơi trên vách đất quán trọ nơi người dạy học”(7). Hàng loạt các vế câu có cấu trúc ngữ
pháp được lặp lại đã khắc họa nổi bật chân dung một ông Cử Hai tài hoa, lãng tử, trọng
tình bằng hữu. Đằng sau những câu văn ấy, người đọc cũng nhận ra cái cốt cách Nguyễn
Tuân: khi ông bắt gặp những con người tài hoa, tài tử, là lúc nhà văn thăng hoa, cảm xúc
dường như không kìm được, phải viết, viết dài, viết chính xác, ông muốn nói hết những gì
mình biết. Ông hành văn một cách cầu kỳ, ngôn từ đẹp, kiểu cách. Thạch Lam là người
phê bình văn Nguyễn Tuân quá kiểu cách, có lẽ do tác giả biết nhiều, muốn nói hết nên có
sự “lộn xộn” chăng? Cái sự cầu kỳ trong cách diễn đạt ấy chúng ta còn bắt gặp trong Bữa
rượu máu, và vẫn tiếp nối trong hầu hết các tùy bút sau này. Công bằng mà nói, câu văn
Nguyễn Tuân có chỗ hơi dài, diễn đạt cầu kỳ nhưng là sự cầu kỳ trong sự tìm tòi để phù
hợp với đề tài, nhất là cái “tôi” nhà văn. Văn Nguyễn Tuân về cơ bản vẫn mạch lạc, tự
nhiên đầy cảm xúc, nhiều liên tưởng phong phú, lấp lánh chất tài hoa, uyên bác.
Có lúc Nguyễn Tuân sử dụng kiểu câu lặp các thành phần cùng dãy từ đồng chức để
gây ấn tượng mạnh cho người đọc về câu chuyện được kể. Đây là chuyện về trận đại hồng
thủy thưở xa xưa: “Vài năm một, vua Thủy lại dâng nước một lần như thế lên chân núi
Tản, lên lưng chừng núi Tản, lên đến đỉnh núi Tản. Nhà cửa, trâu dê bò lợn, hoa màu bị
ngâm nước cứ hằng tuần trăng một, rồi chết, rồi nẫu, rồi rữa, rồi tan theo với ngọn nước
xiết réo lên như thiên binh vạn mã”. Còn đây là cách tạo hình gây cảm giác kinh hãi:
“Đêm tờ mờ đen rầm hẳn lại, rồi đen ngòm, rồi đen kịt”(8). Trong truyện Rượu bệnh,
Nguyễn Tuân rất sáng tạo, linh hoạt trong cách tổ chức phối hợp kiểu cấu trúc cú pháp rút
gọn xuất hiện liên tục, tăng cấp về mức độ biểu đạt và các câu dài với những so sánh hợp
lý, những diễn đạt có tính “lạ hóa” để gây ấn tượng mạnh về một kẻ uống rượu kỳ lạ tên là
Bố Ô: “Cô Cốm lom khom rót. Một chén. Bốn năm chén. Mười chén. Ba mươi chén.
Chén nào Bố Ô cũng chỉ làm có một hơi. Nhanh và ngon như kẻ khát đường vớ được
nước suối rừng, vục nón xuống mà múc lấy múc để”. Khả năng phối hợp động từ, tính từ
để viết những câu văn đầy ám ảnh của Nguyễn Tuân là vô cùng: “Miệng Bố Ô líu lại, bọt
mép ông già phồng bong bóng lên, to như bọt giãi ông kễnh lúc say giấc. Tay Bố Ô phác
họa trong khoảng không trước mặt vài cử chỉ dại nghệch, mắt đỏ rực những tia máu và
con ngươi như muốn phọt ra ngoài”; “Sự chết bắt đầu sống trong người Bố Ô”(9). Để diễn
tả khát vọng thể hiện cái “tôi”, niềm đam mê nghệ thuật của chàng Nguyễn, nhà văn sử
dụng kiểu câu điệp cấu trúc kết hợp điệp từ để tăng cường nồng độ cảm xúc: “Chàng
sống! Chàng chỉ sống. Chàng đã dám sống. Nghĩa là chàng muốn chứng tỏ ra mình đã
được là mình. Nguyễn đã lấy cuộc đời làm một chỗ thí nghiệm. Thí nghiệm bằng cả một
kho tình cảm phong phú của mình, thí nghiệm bằng cả một quãng hoa niên tươi thắm của
mình”(10).
3. Câu văn giàu chất thơ
Bên cạnh việc sử dụng nhiều câu văn mở rộng thành phần, lặp cấu trúc để nhà văn
phô diễn khả năng liên tưởng phong phú và đặc sắc của mình, câu văn Nguyễn Tuân còn
rất giàu chất thơ, nhất là khi ông miêu tả vẻ đẹp cuộc sống trong sạch, lành mạnh, tao nhã
của người xưa. Cái chất thơ “sương mờ” lãng đãng, trong trẻo, thanh nhã của một thời ấy
được diễn đạt bằng những câu văn giàu hình ảnh, ngôn từ đẹp, nhiều liên tưởng thi vị.
Đây là hình ảnh cậu Chiêu: “Ánh nắng đổ xuống giàn, khi lọt xuống sàn bị cái cốt xanh
ngắt của cây lá lọc qua một lượt, rồi đổ dồn vào áo vải trắng dài cậu Chiêu đang ngửng
đầu ngắm những quả bầu nậm buông thõng xuống ngang mặt. Cái áo vải trắng cậu Chiêu
đã biến thành một áo lụa màu xanh của một người phong lưu và đa tình. Đấy là cái màu
dịu mát của chất ngọc bích; đấy là màu xanh ở những cánh đồng lúa non ngút ngàn của
những xứ yên ổn không bao giờ có nạn binh lửa”(11). Trong truyện Những cái ấm đất,
cũng xuất hiện nhiều đoạn văn đầy chất thơ như thế. Đó là cái thanh tịnh đến hư huyền
của một trưa hè ở chốn chùa chiền: “Trên con đường đất cát khô, nồi nước tròng trành
theo bước chân mau của người đầy tớ già đánh rỏ xuống mặt đường những hình ngôi sao
ướt và thẫm màu. Những hình ngôi sao ướt nối nhau trên một quãng đường ngoằn ngoèo
như lối đi của loài bò sát. Ví buổi trưa hè này là một đêm bóng trăng dãi, và ví cổng chùa
Đồi Mai là một cửa non đào thì giọt sao kia có đủ cái thi vị một cuộc đánh dấu con đường
về của khách tục trở lại trần”(12). Cảm xúc nồng nàn, quan sát và diễn tả tinh tế, phối hợp
hài hòa âm điệu, nhịp điệu linh hoạt làm cho nhịp câu văn Nguyễn Tuân là những nhịp
thơ: “Hai cái sừng trăng đã mở to, đã đầy dần. Rồi vừng trăng tròn vẽ lên trời, lần thì cái
quầng, lần thì cái tán. Thế rồi nó khuyết ở đầu ngọn tre, những lúc gió sớm giục canh gà
gọi nước bể dâng lên. Trăng tháng tư đã gần hết một tuần”(13); “Chỗ đầu sông, đàn đóm
lập lòe nơi bến nước, gió đêm vi vụt bãi lau già!”(14).
Trong truyện Chén trà sương, Nguyễn Tuân viết khá nhiều câu văn xuôi “nhịp ba”
(Đỗ Đức Hiểu). Đây là cảnh tác giả tả cái hỏa lò đun nước pha trà buổi sáng tinh mơ của
cụ ấm: “Hòn lửa rất ngon lành/ Trở nên một khối đỏ tươi/ Và trong suốt như thỏi vàng đỏ
chảy”... “Trời rạng dần/ Một chút nắng đào lóng lánh trong đám cây/ Một chiếc lại một
chiếc/ Đang rụng lá năm cũ”(15).
Đó là nhịp thơ của những câu thơ văn xuôi tài hoa ngợi ca cái đẹp thanh cao mà
Nguyễn Tuân trân trọng dành tặng cho người xưa. Xét trong mạch trần thuật, những câu
văn giàu cảm xúc như thế đã tạo nên những quãng lặng đầy xúc cảm, là nguyên nhân làm
nhịp văn Nguyễn Tuân chậm, lắng đọng những cảm xúc tinh tế, đầy trữ tình.
4. Thủ pháp “lạ hóa ngôn từ”
Bên cạnh những đặc điểm đã nêu của câu văn Nguyễn Tuân, thủ pháp “lạ hóa ngôn
từ” trong cách dùng từ, tạo câu, cách diễn ý mới mẻ, đôi khi cầu kỳ, kiểu cách nhưng rất
tài hoa, thường được ông tung ra để tăng sức hấp dẫn cho câu văn. Trước Cách mạng, lối
chơi ngông và chủ nghĩa độc đáo của Nguyễn Tuân thường tìm đến những lối ví von
chính xác, mới lạ và cũng thật oái oăm: “Ông thử roi vào mặt trống, rồi uốn hai đầu
xuống; thân roi ưỡn ngửa mãi lên như lúc người đàn bà tránh một cái hôn bạo”(16). “Chiếc
tủ áo là một cái đề lao xinh xinh, là một thửa lãnh cung và bấy nhiêu cà vát là tất cả số
phận của những cung nhân bị bỏ rơi - ngày đêm thầm trộm nhớ đến một khuôn mặt rồng ở
xa trên những nơi chín bệ”(17). Nhu cầu tránh trùng lặp buộc Nguyễn Tuân phải tung ra tất
cả những từ đồng nghĩa có trong vốn liếng của mình, nếu chưa đủ, ông sáng tạo thêm
những cách diễn đạt đồng nghĩa mới. Điều này dễ thấy khi Nguyễn Tuân bắt gặp những
hiện tượng bất ngờ, thú vị... nào đó đập mạnh vào giác quan ông, và khi ấy, người đọc
được chứng kiến một Nguyễn Tuân say sưa, dốc toàn lực vốn từ để chứng tỏ sự tài hoa,
uyên bác của mình. Cùng là tên gọi cái cà vát (Cái cà vát đen) mà Nguyễn Tuân có thể
dùng hàng chục cách gọi đồng nghĩa khác nhau rất thú vị: những dải lụa diêm dúa, bọn cà
vát lụa, những dải lụa màu, đám cà vát tơ, những dải lụa yêu, lũ lụa màu, những thân tơ
óng ả, tơ nõn dệt màu, lũ non tơ dệt màu, những cung nhân bị bỏ rơi, lũ dải tơ ngả ngốn
lả lơi, lũ phi tần nghìn xưa, những nàng phi thất sủng(18)... Từ câu chuyện về mấy cái cà
vát mà khái quát nên một tính cách, một cách sống, tài năng ấy không phải ai cũng làm
được. Chỉ kẻ thiệt mạng, Nguyễn Tuân dùng người chết, về như thế, nằm xuống, nhất đán
hết lộc, theo về với Trời Phật, kẻ xấu số, xong một kiếp người, con ma mới, một cái vong
hồn, người của thế giới khác(19)... Sự tìm tòi trong cách diễn đạt, cách dùng từ như thế làm
cho câu văn Nguyễn Tuân luôn mới mẻ, tránh được sự nhàm nhạt cho người đọc. Người
đọc luôn cảm thấy bất ngờ trước vốn từ vựng giàu có của Nguyễn Tuân. Trong truyện
Trên đỉnh non Tản cùng gọi tên thần núi Tản Viên, Nguyễn Tuân đã dùng hàng loạt từ:
Thần Non Cao, Thần Non Tản, Thánh Tản, Thần Núi Tản, Chủ Non Xanh, Chúa Ngàn
Cao Cả, Chúa Ngàn Thiêng, Ngàn thăm thẳm kín mật(20)... để gợi ấn tượng về một núi Tản
Viên chứa đầy bí mật. Cũng nói cái linh thiêng của rừng núi, trong Xác ngọc lam, Nguyễn
Tuân gọi là Rừng cao cả, Ngàn Xanh, Chúa Rừng, Ngàn già, Mẹ Ngàn… Chỉ riêng hệ
thống từ vựng này cũng đã gợi nhiều liên tưởng ở người đọc về một thế giới u linh, thiêng
liêng và huyền bí. Rõ ràng vốn từ của Nguyễn Tuân là vô cùng phong phú, khả năng liên
tưởng là tuyệt vời. Mỗi cách gọi tên đều đem lại những cảm xúc, những liên tưởng đa
chiều cho người đọc khi tìm hiểu truyện ngắn Nguyễn Tuân, nhất là các truyện mang màu
sắc truyền kỳ, hư ảo. Rõ ràng, với vốn từ vựng giàu có, trước Cách mạng, Nguyễn Tuân
“thường dùng để chơi ngông với đời: hoặc đưa ra những cách nói năng oái oăm kỳ cục cốt
để trêu ghẹo thiên hạ, hoặc đổ tràn ra mặt giấy để phô tài, khoe chữ”(21).
Như trên đã nói, điểm độc đáo nhất về ngôn từ trong câu văn xuôi Nguyễn Tuân là ở
khả năng gây “cảm giác mạnh” cho người đọc. Với Vang bóng một thời và Yêu ngôn,
Nguyễn Tuân tự tạo cho mình một thế giới riêng từ đề tài, bút pháp kể chuyện, đặc biệt là
sự sáng tạo ngôn ngữ trần thuật. Nét độc đáo của ngôn ngữ trong nhiều truyện ngắn của
Nguyễn Tuân là thứ ngôn ngữ “sinh sự” với người, với cả ma quỷ, là thứ ngôn ngữ gợi
cảm giác mạnh, cảm giác ớn lạnh, gợi “óc tò mò ở người đọc, đưa người đọc vào “cái vỏ
mờ mờ ảo ảo bao bọc lấy chúng ta”(22). Các truyện ngắn Trên đỉnh non Tản, Khoa thi cuối
cùng, Loạn âm... hướng đến mô tả thế giới cõi âm, cõi thâm u huyền bí. Nhân vật là
những hồn ma, hoặc nửa người nửa ma, lúc là người lúc là thần. Vì thế trong câu văn
Nguyễn Tuân thường xuất hiện hàng loạt những danh từ đặc biệt để diễn tả thế giới huyền
bí, ma quái, thế giới cõi âm, thế giới tâm linh: hài cốt kỳ quái, thời thạch khí, cái cốt khí
kỳ lạ, đền Thánh Tản, Chúa Ngàn Cao Cả, suối Tịch Mịch, oan hồn, hồn oan, vong hồn,
âm oán, hồn mê, ông mãnh, cỗ xương, vụn xương, cô hồn, thi hài, xác chết, tà khí, Bến đò
U Minh, Quán Cháo Lú, Cung Thủy tinh, Diêm Vương, Vị Quan Ôn, âm ty, âm phủ, Loạn
âm, ma quỷ… Đi liền với lớp từ vựng đặc biệt này là hàng loạt những động từ, phó từ để
diễn tả tâm trạng, cảm xúc, đặc biệt là tâm trạng sợ hãi của con người trước cái huyền bí,
cái bất bình thường. Tâm trạng ấy được tác giả thể hiện bằng các động từ: hoảng hốt, ghê
sợ, lạnh đến tuỷ xương sống, hồn mê đi, buốt lạnh như chưa bao giờ cảm thấy, mất hết cả
ý thức, vẩn vơ như bị ma ám, ú ớ như người bị ma mộc đè, ngất đi và cấm khẩu; vệt khói
xám nơi bình hương bốc lên thẳng, một thứ mây đục đùn lên những hình quỷ Đông; một
thứ gió u hiển thổi thốc vào bãi trường, những cây nến cháy vạt ngọn bỗng tắt phụt hết,
cười sằng sặc, khói bốc lên, khói trụt toả xuống, vụt bùng lên, nền trời vẩn những đám
mây tím đỏ vẽ đủ mọi hình quái rợ, những bức tranh mây chó màu thẫm hạ thấp xuống
thêm và đè sát xuống pháp trường oi gắt, khiếp đảm, thất đảm, khiếp lánh, kinh hãi... Và
đi cùng với những động từ ấy là những phó từ chỉ tính chất bất bình thường, sự xuất hiện
đột ngột, bất thình lình của sự vật, của tâm trạng: bỗng, vụt biến đi đâu mất, bất chợt,
bỗng nhiên, bỗng trắng toát ra, thình lình, đột nhiên, tái hẳn mặt...
5. Khả năng tạo hình, biểu cảm của từ láy
Nguyễn Tuân là nhà văn có biệt tài sử dụng từ láy, ông am hiểu sâu sắc giá trị của
loại từ này trong tiếng Việt. Khả năng tạo hình, biểu cảm, gợi cảm giác của từ láy được
Nguyễn Tuân khai thác triệt để, giúp nhà văn xây dựng hình tượng không gian nghệ thuật
đặc sắc. Khi dựng cảnh, Nguyễn Tuân thường tung ra những từ láy giàu tính tạo hình rất
đúng lúc, đúng chỗ để tạo không khí cho câu chuyện kể. Đây là không gian một trại giam
tối om, tĩnh mịch, hơi rờn rợn: “Nơi góc án thư cũ đã nhợt màu vàng son, một cây đèn đế
leo lét rọi vào một khuôn mặt nghĩ ngợi. Ngục quan băn khoăn ngồi bóp thái dương.
Tiếng trống thành phủ gần đấy đã bắt đầu thu không. Trên bốn chòi canh, ngục tốt cũng
bắt đầu điểm vào cái quạnh quẽ của trời tối mịt, những tiếng kiểng và mõ đều đặn, thưa
thớt. Lướt qua cái thăm thẳm của nội cỏ đẫm sương, vẳng từ làng xa đưa lại mấy tiếng chó
cắn ma. Trong khung cửa sổ có nhiều con song kẻ những nét đen thẳng lên nền trời lốm
đốm tinh tú, một ngôi sao Hôm nhấp nháy như muốn trụt xuống phía chân giời không
định”(23). Đây chính là không gian dự báo sự xuất hiện của Huấn Cao - kẻ tử tù đặc biệt
sắp phải từ giã cuộc đời trong nay mai. Dựng khung cảnh pháp trường cũng là một biệt tài
của Nguyễn Tuân. “Trời chiều có một vẻ gì dữ dội. Mặt đất lại sáng hơn nền trời. Nền trời
vẩn những đám mây tím đỏ vẽ đủ mọi hình quái rợ. Những bức tranh mây chó màu thẫm
hạ thấp xuống thêm và đè sát xuống pháp trường oi gắt... Bãi cỏ im lìm. Tiếng gông bọn tù
dây va vào nhau theo một nhịp bước rụt rè, nghe rõ mồn một như tiếng sênh người chấp
hiệu”. Cảnh Bát Lê hành sự tại pháp trường: “Trong nhà rạp, các quan chỉ nghe thấy cái
âm lơ lớ rờn rợn. Viên Công sứ chăm chú nhìn Bát Lê múa lượn giữa hai hàng tử tù và
múa hát đến đâu thì những đầu tội nhân bị quỳ kia chẻ gục đến đấy. Những tia máu phun
lên kêu phì phì, vọt cao lên nền trời chiều”(24). Chỉ với vài từ láy được dùng đúng chỗ,
Nguyễn Tuân đã tái hiện sống động một cảnh tưởng rùng rợn, bi thảm, ám ảnh sâu sắc
người đọc về một thời kỳ bi tráng của lịch sử những năm đầu chống Pháp.
Rất nhiều truyện ngắn của Nguyễn Tuân, nhất là những truyện viết theo lối Yêu
ngôn, từ láy xuất hiện khá dày đặc, thường gợi cảm giác về sự bí hiểm, rùng rợn, gợi một
thứ không gian đặc biệt. Không gian trong Trên đỉnh non Tản là một “thế giới u linh” của
rừng hoang, núi thẳm: “chỏm non Tản: trông xa như hình một cái tán đá, non kia vòi vọi
đã là cả một thế giới của bí mật, của huyền ảo”. Không gian kỳ lạ ấy được Nguyễn Tuân
sử dụng khá nhiều từ láy để miêu tả. Những đồng tiền mà đám thợ mộc làng Chàng Thôn
nhận từ Thần Non Tản, thả vào nước nổi “lềnh bềnh”. Nước ở Bến Gòn thì đặc sịt, “lừ
đừ”, đêm sông vắng lạnh, “thăm thẳm”, con “lườn đi vun vút”. Gió nơi đó có “mùi nhạt
nhạt của nước nguồn, mùi ngai ngái của cỏ bồng ải rũ”, “vù vù”. Ánh mắt cô gái nơi đền
Thượng “sắc như dao cau và lạnh như chất kim, lạnh hơn cái gây gấy của rừng buổi sớm
mai dày đặc sương mù”. Dòng suối Tịch Mịch trên đỉnh non Tản nó “lửng lơ trôi ốm yếu
và lững lờ. Nó trong như pha lê gọt. Nó hiền lành”. Ánh sáng trên đỉnh non Tản “lúc nào
cũng nhờ nhờ như nước gạo loãng”. Con người khi được tiếp xúc với cảnh và người nơi
non Tản đều có cái cảm “nơm nớp”, “vẩn vơ như bị ma ám”(25). Trong Xác ngọc lam,
Nguyễn Tuân tạo ra một không gian bí hiểm, hư huyền qua âm thanh kỳ lạ, ớn lạnh phát
ra từ tiếng hát của cô Dó (một thứ hồn ma) vào mỗi đêm: “Trong sương, đùng đục những
nhịp chày nhà cậu Năm giã dó và lắm buổi còn lẫn lộn một thứ tiếng hát, âm thanh lơ lớ
và nhịp lúc mau như khổ dựng dong nhà Tơ và lúc thưa thì giống hệt lối ngâm thơ Thiên
Thai rồi ngân dần dần lên và lại dần dần ngân mà xuống đúng như hơi hát cung bắc lúc
đổ con kiến... Lắm khi ngà ngà say, phất phơ mà đi, nhìn đêm lạnh trăng suông, nhớ
rừng cũ cô Dó lại càng hát nhiều nhiều... Đêm đông trường, chỉ có một thứ tiếng hát của
cô Dó chập chờn đi từ giới hạn một bờ Tây Hồ đến bờ một khúc sông Tô Lịch. Tiếng
huyền diệu và mù mờ bao la”. Tiếng cô Dó khi bị ốm nghe “phào phào”; chữ của cô Dó
cũng kỳ lạ: lởm chởm nhọn hoắt và so le như ngọn cỏ bồng”(26). Truyện Khoa thi cuối
cùng, Nguyễn Tuân sử dụng một loạt từ láy gợi cảm giác rờn rợn để dựng nên không
gian bãi trường thi có oan hồn người đàn bà tóc xõa đến báo oán hai anh em ông Đầu
Xứ Em: “Gió thổi vào đống lửa vàng hóa bùng bùng, lửa kêu vù vù. Trong tiếng ngọn
lửa reo, lại như có tiếng người cười nói lanh lảnh. Khói bốc lên, khói trụt tỏa xuống soai
soải... Những vờn khói nhẹ đổ xuống nhanh, đổi màu rất nhanh chóng. Trước mắt ông
Đầu Xứ Em mê mệt và hoảng hốt, những vờn khói - thoảng mùi gây gây, khen khét, và
tanh lợm - bỗng sẫm hẳn lại thành một mớ tóc xõa u hiển đóng khung lấy một khuôn
mặt người”(27). Trong truyện Loạn âm, cái không khí ma quái rờn rợn chuẩn bị cho sự
xuất hiện hồn ma ông Quan Ôn dưới âm phủ lên trần mộ phu: “Một đêm nằm giữa sân,
ngả mình trên trường kỷ... ông Kinh Trịnh bất chợt ngửi thấy một mùi khen khét rất lạ
trong không khí... Ông thấy các lỗ chân lông khắp mình như mở rộng hơn lúc thường để
đón lấy những đợt gió gây gấy lạnh”(28).
Trong số các nhà văn viết truyện ngắn trước 1945, Nguyên Hồng cũng là nhà văn sử
dụng khá dày từ loại tính từ để miêu tả cảnh và diễn tả tâm trạng nhân vật. Hiệu quả sử
dụng từ láy trong câu văn của các nhà văn này là rất lớn. Nguyên Hồng có nhiều đoạn văn
tả cảnh đẹp nhờ khai thác hiệu quả những từ láy. Đây là hình ảnh một bức tranh trời chiều
Hà Nội thơ mộng, đẹp, thoáng, ngát hương thơm: “Gió chiều đã thổi. Cái mát cuối tháng
tám thoáng qua với những làn ánh sáng trắng xóa. Trời cao xanh mênh mông, mây tuyết
và nắng vàng lung linh. Những cây sữa bên đường đã nhả thứ hương thơm rờn rợn và
nồng nàn”(29). Tuy nhiên ở Nguyên Hồng vốn là nhà văn hiện thực nên ông vẫn thiên về
“những điều trông thấy”, những tình cảnh đáng thương, những số phận bất hạnh. Đây là
một hình ảnh tả thực về cuộc sống một cô gái nghèo: “Vịnh thấy lạnh thấm vào người và
mọi vật chung quanh. Những bàn ghế, giường, phản, chõng hàng đã ọp ẹp, những bức
vách nứt nẻt, loang lổ, những kèo cột xộc xệch, chằng chịt mạng nhện... dưới ánh đèn treo
vàng cặn, tất cả những vật ấy úp súp, tồi tàn thêm”(30). Dãy từ láy gợi lên vẻ cũ kỹ, tồi tàn,
còn gợi ra một thông điệp: sự cảm nhận về hiện tại và tương lai mờ mịt của cô gái nghèo
đang khao khát một cuộc sống tốt đẹp hơn. Những người phụ nữ trong văn Nguyên Hồng
thường để lại nhiều cảm thương cho người đọc: “Cái thân hình gầy còm lẩy bẩy ấy đi lại
trong bóng tối đặc và ướt át với những tiếng rên khe khẽ và những tiếng thở ì ạch, cho đến
bây giờ vẫn còn rõ ràng trước mắt tôi, thấm thía ở trong lòng tôi”(31). Hoặc khi nhà văn
miêu tả hình ảnh bà cụ Nấu, người đàn bà hiền từ, khốn khổ, lặng lẽ chịu đựng vì con
cháu: “Nhiều nếp nhăn chất thêm cái trán lặng lẽ dưới những sợi tóc cứng, bạc lam nham.
Hai gò má bà cụ trũng thêm làm chìa những hàm răng móm mém. Trên cái thân hình còm
cõi ấy, vẫn cái thứ áo nâu mỏng tứ thời, lúc nào cũng nhớp nháp rãi của con bé cháu”(32).
Những từ láy mà Nguyên Hồng sử dụng trong những câu văn ấy phơi trải lòng cảm
thương thống thiết dành cho những số phận bất hạnh. Phong cách nghệ thuật Nguyên
Hồng hiền hiện trên từng câu chữ.
Xét ở phương diện sử dụng từ láy, giữa Nguyễn Tuân và Nguyên Hồng cũng có
những nét khá gần gũi. Cả hai đều ưa thích và sử dụng khá nhiều, để lại nhiều dư vị cho
người đọc. Đọc những nhà văn khác, ta không có được cái cảm giác bị sức ám ảnh của từ
láy truyền sang như trong câu văn Nguyễn Tuân và Nguyên Hồng. Tuy nhiên, mỗi nhà
văn có một phong cách tạo giá trị cho lời văn của mình. Nguyên Hồng vốn là nhà văn hiện
thực, câu văn ông hướng đến sự “tả chân” cuộc sống và bộc bạch tình cảm thống thiết đối
với nhân vật, thì Nguyễn Tuân - nhà văn lãng mạn, trong cách sử dụng từ láy, ông thường
hướng tới việc tạo dựng không khí cho tác phẩm và giúp cho người đọc được sống trong
những cảm giác mãnh liệt, đầy bất ngờ và thú vị. Ngôn từ trong văn Nguyễn Tuân không
đơn thuần là chữ nghĩa mà là sự hiểu biết sâu sắc, cặn kẽ về sự vật, hiện tượng. Nguyễn
Tuân cho rằng, nhà văn phải tạo được không khí cho câu chuyện của mình, không thì
chẳng có ý nghĩa gì. Kinh nghiệm tạo không khí là phải có tri thức lịch sử, địa lý, tri thức
về thiên nhiên... trên cơ sở đó dùng tưởng tượng mà dựng nên.
Trong truyện ngắn của Nguyễn Tuân, ta dễ dàng nhận ra sự đa dạng về giọng điệu
và cách thức sử dụng ngôn ngữ trần thuật. Đó là một Nguyễn Tuân với sự giàu có về ngôn
ngữ, tài hoa và nhạy cảm, luôn hướng tới sự mới mẻ, lạ hóa trong sử dụng ngôn ngữ, là sự
kết hợp tài tình giữa ngôn ngữ kể và ngôn ngữ tả trong lời văn trần thuật.
Chú thích:
(1), (77). Ngữ văn 11 Nâng cao, (tập 1), NXB Giáo dục, Hà Nội, 2007.
(2), (4), (5), (6), (7), (8), (9), (10), (11), (12), (13), (14), (15), (16), (17), (18) (19),
(20), (24), (25), (26), (27), (28). Nguyễn Tuân, Truyện ngắn, NXB. Văn học, Hà Nội, 2004.
(3), (21). Tôn Thảo Miên (tuyển chọn và giới thiệu,, Nguyễn Tuân về tác gia và tác phẩm,
NXB Giáo dục, Hà Nội, 2007.
(22), (32). Đinh Trí Dũng, "Màu sắc Liêu Trai trong các tác phẩm Yêu ngôn của Nguyễn
Tuân (nhìn từ góc độ ngôn từ)", Sông Lam (94), 2009.
(29), (30). Nguyên Hồng, Tuyển tập Nguyên Hồng, (tập 1), NXB Văn học, Hà Nội, 1983.
(31). Nguyên Hồng, Tuyển tập Nguyên Hồng, (tập 2), NXB Văn học, Hà Nội, 1983.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lại Nguyên Ân, 150 thuật ngữ văn học, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2003.
2. Đinh Trí Dũng, “Màu sắc Liêu Trai trong các tác phẩm Yêu ngôn của Nguyễn Tuân
(nhìn từ góc độ ngôn từ)”, Sông Lam (94), 2009.
3. Nguyên Hồng, Tuyển tập Nguyên Hồng, tập 1, NXB Văn học, Hà Nội, 1983.
4. Nguyên Hồng, Tuyển tập Nguyên Hồng, tập 2, NXB Văn học, Hà Nội, 1983.
5. Đỗ Đức Hiểu, Thi pháp hiện đại, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội, 2006.
6. Tụn Thảo Miên (tuyển chọn và giới thiệu), Nguyễn Tuân về tác gia và tác phẩm,
NXB Giáo dục, Hà Nội, 2007.
7. Nguyễn Tuân, Truyện ngắn, NXB Văn học, Hà Nội, 2004.
8. Ngữ văn 11, tập 1 (Nâng cao), NXB Giáo dục, Hà Nội, 2007.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- phan1a02.pdf