Những si sản văn hoá quý giá và tiêng liêng vậy, nhưng nếu chúng ta không biết giữ gìn và phát huy thì rất có thể sẽ dần bị mai mọt. Đây không chỉ còn là chủ trương, nghị quyết của Đảng mà còn là trách nhiệm, nghĩa vụ thậm chí là quyền lợi của mỗi người dân, mỗi tổ chức. Cần huy động mọi nguồn lực để phục vụ nhiệm vụ và khai thác tiềm năng, tiềm tàng của nền văn hoá bản sắc dân tộc góp phần thúc đẩy mục tiêu phát triển kinh tế văn hoá xã hội của đất nước./.
11 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2411 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Đặc trưng văn hoá của người H’mông, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA LỊCH SỬ
---------------
TIỂU LUẬN
ĐẶC TRƯNG VĂN HOÁ CỦA NGƯỜI H’MÔNG
VĂN HOÁ DÂN TỘC TÂY BẮC
Những giá trị văn hoá của con người là thước đo trình độ phát triển và thể hiện những đặc tính riêng của mỗi dân tộc. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống loài người mới phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về ăn, mặc, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ sáng tạo và phát minh đó chính là văn hoá. Chính vì vậy nghiên cứu văn hoá, nghiên cứu đời sống đối với mỗi dân tộc là nghiên cứu toàn bộ những sáng toạ và phát minh đó của các dân tộc trong lịch sư, xã hội. Qua đó tìm ra được những đặc sắc tinh tuý trong hệ thống giá trị truyền thống văn hoá của dân tộc để tôn vinh, phát huy lên tầm cao mới để không ngừng phục vụ tốt hơn cho cuộc sống các thế hệ hôm nay và mai sau”. Văn hoá là bộ phận quan trọng để xác nhận tôi, anh hay chị là dân tộc gì? hay nói cách khác mỗi dân tộc người có gia tài riêng của mình ấy là văn hoá. Việt Nam có 54 dân tộc - 54 bông hoa rực rỡ sắc màu trong rừng hoa văn hoá đạm đà bản sắc dân tộc Việt Nam. Sự đa dạng về điều kiện tự nhiên, đời sống cũng như nguồn gốc xuất xứ của từng dân tộc dẫn đến sự đa sắc về văn hoá của các dân tộc.
Người H’mông vùng Tây bắc có 473,514 người, chiếm 60,12% tổng số người H’mông cư trú toàn quốc. Tỉnh có số người H’mông cư trú đông nhất là Lai Châu (170.460 người), tiếp đến là Lào Cai (123.771), Sơn la (114.578 người). Yên Bái (6.073), Hoà Bình (2.027 người). Địa bàn cư trú của người H’mông là các dãy núi cao nhất nước ta.
Người H’mông có các tên gọi khác nhau: H’mông Đỏ (H’mông trắng) H’mông lềnh (H’mông hoa), H’mông Sí (H’mông đỏ), H’mông súa (H’mông mán).
Người H’mông ở vùng Tây Bắc là một dân tộc có truyền thống văn hoá, có tính sáng tạo với nhiều thành tựu đạt đến đỉnh cao:
+ 273 hộ dân người H’mông có nền kinh tế khá giầu.
+ 1019 hộ có nhà ở xây dựng kiên cố.
+ Một số con em dân tộc H’mông được đào tạo đảm nhận những trách nhiệm quan trọng trong các ngành chuyên môn cấp uỷ và chính quyền địa phương.
+ 2101 học sinh, sinh viên là người dân tộc H’mông đang học tại các trường đại học, cao đẳng.
+ 82 phòng học được xây dựng.
+ Các xã đều có trạm y tế.
+ 14/44 thôn bản có hệ thống điện lưới quốc gia.
+ Các xã có đồng bào H’mông sinh sống có các địa điểm bưu điện.
+ Có hệ thống các cầu bê tông.
+ Có 3 trạm phát hình ở các xã: Pù Nhi, Trung Lý, Tam Trung.
+ Các phong trào văn hoá, văn nghệ TDTT phát triển.
Trong kinh tế truyền thống thuy ở vùng cao, điều kiện tự nhiên khó khăn nhưng người H’mông đã sáng tạo và xác lập mô hình canh tác nương rẫy thích hợp với từng tiểu vung khác nhau.
Người H’mông cư trú ở bất cứ môi trường nào đều tạo ra khả năng thích nghi một cách linh hoạt.
Một số huyện ở lai Châu, Sơn La người H’mông còn sáng tạo ra loại hình canh tác trên ruộng bậc thang.
Người H’mông ở Mộc Châu hiện có bộ giống lúa gồm 7 loại với nhiều ưu điểm; có sức chịu hạn cao, ít đầu tư phân bvón, nảy mầm và sinh trưởng ban đầu cũng nhanh, đủ để cạnh tranh với cỏ dại.
Người H’mông khai phá và canh tác nương rẫy trên mỗi loại địa hình khác nhau theo kiểu cách khác nhau, bộ công cụ làm đất độc đáo thích hợp với mọi loại địa hình.
Người H’mông áp dụng nhiều biện pháp kỹ thuật tổng hợp để kéo dài tuổi thọ của nương đó là các biện pháp làm đất thích hợp với từng loại địa hình, thâm canh kết hợp với xen canh, luân canh chống xói mòn.
Người H’mông còn sáng tạo một số nghề thủ công tinh xảo đạt đến đỉnh cao của ngành nghề thủ công các dân tộc miền núi như nghề: rèn dúc, nghề trông lanh, dệt vải, nghề mộc, nghề đúc gang, làm đạn, súng kíp các cỡ, tự chế lấy thuốc súng và giấy dùng trong lễ hội, phong tục.
Cơ cấu kinh tế truyền thống của người H’mông gồm 3 bộ phận chính: trồng trọt, chăn nuôi và hái lượm, tiểu thủ công nghiệp và trao đổi. Cơ cấu kinh tế này tạo ra thế chân kiềng trong phát triển. Người H’mông xác lập được thế cân bằng duy trì được sự bền vững tương đối ở môi trường thiên nhiên có nhiều bất lợi cho sản xuất lương thực. Trong hoàn cảnh lịch sử đặc biệt người H’mông cũng xây dựng được các thiết chế xã hội linh hoạt, góp phần bảo tồn dân tộc. Sự cố kết trong dòng họ là đặc điểm nổi bật của người H’mông, dòng họ có hai cấp độ khác nhau: cấp độ rộng và cấp độ hẹp.
Ở cấp độ rộng dòng họ bao gồm nhiều gia đình nhưng không nhất thếit phải cư trú gần nhau. Tuy ở xa nhưng mỗi khi các thành viên đến thăm nhau đều được coi là anh em cùng một ông tổ sinh ra, thành viên trong dòng họ dẫu có ở xa đến mấy cũng tuyệt đối không có quan hệ hôn nhân với nhau.
Làng người H’mông là một thiết chế xã hội cơ sở bao gồm một số nóc nhà, tiếng H’mông gọi là “Giao” mỗ “giao” đều là một bộ máy tổ chức, cơ chế vận hành riêng. Các “giao” đóng vai trò hết sức quan trọng về kinh tế-xã hội và đời sống văn hoá của người H’mông.
Cấu trúc làng H’mông gồm 3 thành tố: gia đình, dòng họ và tộc người. Thành tố dòng họ đóng vai trò quan trọng vừa tăng cường sự cố kết cấu trúc của làng nhưng lại vừa hướng ngoại cố kết với các thành viên ở làng khác, xã khác. Các dòng họ là những sợi dây liên hệ vượt khỏi phạm vi của làng để liên kết thắt chặt quan hệ dòng tộc tạo thành sự cố kết dân tộc rất bền chặt để bảo tồn dân tộc. Sự cố kết này chính là bản lĩnh, bản sắc các người H’mông. Mỗi làng H’mông đều là một cộng đồng văn hoá có tín ngưỡng thờ cúng chung một vị thần của làng, có các nghi lễ sinh hoạt văn hoá chung.
Các sinh hoạt văn hoá ở làng H’mông được duy trì và phát triển nhờ sự hình thành các nhóm hd theo lứa tuổi và giới tính. Các thiếu nữ H’mông khi bước vào tuổi trưởng thành thường được người phụ nữ đi trước dạy học hát dân ca, dậy thêu thùa… Các cô gái được trang bị các kiến thức văn hoá từ cách ứng xử giao tiếp đến vốn văn nghệ truyền thống . Nam giới cũng hình thành các nhóm như vậy.
Khi đên tuổi trung niên một số người có năng khiếu hd văn nghệ trở thành nhóm sinh hoạt riêng về đám tang, múa khèn, họ trao đổi cách đánh trống, múa khen, truyền dạy đọc bài cúng. Bên cạnh chức năng trao huyền thoá của mỗi gia đình thì các nhóm , các cộng đồng nhỏ này đóng vai trò cực kỳ quan trọng, vấn đề bảo tồn di sản văn hoá dân tộc và đây chính là môi trường nuôi dưỡng vun trồng di sản văn hoá ở các làng H’mông.
Xã hội H’mông có hệ thống tập quan pháp riêng các tập quán pháp này người H’mông gọi là “cái lý của H’mông”. Lý của người H’mông bao gồm những quy định bất thành văn được truyền dạy từ thế hệ này sang thế hệ khác. Đó là tập quán về quan hệ đối xử giữa người với người là những tập tục trong sinh hoạt gia đình và xã hội.
VD: Cô dâu phải kính nể bố chồng, anh chồng, không được ngồi ăn cùng mâm, anh trai chết em được lấy chi dâu nhưng em trai chết anh không được lấy em dâu, người nằm trong nhà không được quay lưng vào cái cột giữa nhà. Và cũng không được quay chân về phía nơi thờ ma nhà… Cái lý của người H’mông là hệ thống tập quán của cả cộng đồng dân tộc người tạo nên bản sắc dân tộc.
Người H’mông còn sáng tạo ra các kho tàng văn hoá truyền thống vừa mang tính thống nhất nhưng cũng hết sức đa dạng và phong phú văn học dân gian người H’mông cũng rất phong phú bao gồm nhiều thể loại như thần thoại, truyện cổ tích, dân ca, tục ngữ truyện thơ, sr thi… Dân ca H’mông có nhiều loại như: dân ca giao duyên dân ca nghi lễ, phong tục gia đình…
Tiếng H’mông thuộc nhóm ngôn ngữ Mông - Dao. Ngôn ngữ của người H’mông hàm chứa một lượng tri thức văn hoá mà nếu hiểu biết về nó người ta sẽ có tài sản vô cùng quý giá. Chẳng hạn người ta chỉ cần quan tâm đến tục ngữ hay thành ngữ H’mông thì trong đó đã lưu trữ những bài học dân gian phong phú mang đậm nét sắc thái dân tộc.
Thành ngữ H’mông có câu:
“Sống mà không biết chữ.
Như trâu đầm vũng bùn”
Qua những nét chấm phá ở trên chúng ta thấy ngôn ngữ của những dân tộc thiểu số như người H’mông chứa đựng một kho tàng văn hoá vô cùng quý giá. Sự hiểu biết về nó thực sự sẽ đem lại cho đồng bào dân tộc những giá trị văn hoá góp phần làm phong phú bức tranh của đất nước.
Người H’mông còn sáng tạo ra kho tàng văn hoá truyền thống mang tính thống nhất nhưng cũng hết sức đa dạng, phong phú. Tính đa dạng phong phú thể hiện ở cả văn hoá vật thể và phi vật thể.
Về trang phục: Quần áo của người H’mông chủ yếu may bằng vải lanh tự dệt. Một bộ y phục cổ truyền của phụ nữ gồm có: váy, áo xẻ ngực, tạp dề trước và sau, xà cạp quấn chân, áo phụ nữ H’mông có cổ là một miếng vải treo trên bả vai được thêu sặc sỡ, váy mở xếp nếp xoè rộng.
Tuy nhiên, mỗi ngành H’mông có kiểu trang phục khác nhau. Người H’mông đỏ (H’mông trắng). Phu nữ mặc áo xẻ ngực, váy lanh trắng. Phụ nữ H’mông đen váy có nhiều băng dải hoa vằn in sáp ong màu chàm đen, cánh tay áo có khoang thêu hoa văn. Phụ nữ H’mông lềnh áo xẻ nách thiêu nhiều hoa văn nẹp cổ, ống tay, váy rực rỡ sắc màu. Phụ nữ H’mông xanh mặc váy áo màu chàm như người Tày trong vùng. Đặc biệt phụ nữ H’mông ở Sapa, ở một số xã thuộc Than Uyên, Lào Cai, Sơn La lại mặc quần cộc.
Người H’mông rất thích thêu hoa văn hình con ốc trên trang phục của mình đó là loại ốc đẹp sống trên cạn còn được gọi là ốc rồng.
Thiếu nữ dân tộc H’mông trên đỉnh đèo Xipa Thí (Mường Lay) Lai Châu) dùng tóc đuôi ngựa quấn lên đầu vừa che nắng, vừa che điểm cho vẻ đẹp con người một nét đẹp văn hoá của dân tộc H’mông.
Những giá trị văn hoá tốt đẹp của người H’mông còn biểu hiện rực rỡ trong các phong tục tạp quán, lễ hội, lễ cưới, lễ tang ma chay và những cuộc sinh hoạt văn hoá tinh thần khác.
+ Tục ma chay.
Theo phong tục dân tộc H’mông, khi có người chết người ta mỗi người đều hát bài mở đường, mặc quần áo rồi đưa lên cáng treo trước bàn thờ hoặc để trên ghế dài đặt ngang cửa ra vào.
Lúc hát mở đường khi đọc đến sự tích gà dẫn đường người chết về với tổ tiên; người ta mang một gà đã chết để nguyên lông moi lòng ra ngoài, hay đôi cánh gà hoặc con gà còn sống đặt trong câu bất ngờ để ở phía đầu người chết.
Trong đám ma người H’mông thường dùng khèn trống, họ thổi các bài: lên ngựa, ăn buổi sáng, buổi trưa, nhận gia súc… bày tỏ sự luyến tiếc của người sống với người chết.
Trong đám ma không thể thiếu được lợn, trâu hay bò làm vật cúng. Khi mổ súc vật bốn chân người ta đem sợi lanh buộc từ con vật đến tay người chết.
Ở một số họ có phong tục đưa xác ra ngoài trời để trên một lán nhỏ có hoặc không có mái che một thời gian. Tại đó phải giết bò để cúng ăn xong mới được chôn chất.
Trước khi đậy nắp quan tài quàn áo người chết được cắt nhiều chỗ và cạnh xác được đặt những sợi lánh thái nhỏ trộn cơm, ở một vài nơi còn có con gà đưa đường để phía đầu quan tài.
Xưa kia đám ma kéo dài từ 5 à 7 ngày, bây giờ chỉ còn 2 à 3 ngày. Chôn cất cong làng xóm đến chơi với gia chủ vài ba buổi tối và chủ nhà cắm cành ở đường, nếu người chết là nam thì cắm 9 cành, nữ 7 cành để hồn người chết không biết đường về làm hại gia đình. Sáng thứ ba người ta mang cơm nước ra mả, lấy lá che ma sau đó mang cơm nước ra tiếp hai bữa nữa. Hôm cuối cùng người ta nhặt một hòn đá ở mả về để gần bếp coi như chỗ cơm người chết đặt tại đó.
+ Tục cưới xin:
Xưa kia người con trai phải đến tận nhà gái nói rằng “Mong gia đình để cô con gái đến giữ nhà cho tôi”. Ba hôm sau nhà trai mổ gà “xem xương’ rồi cho hai ông mối đi hỏi. Ông mối mang theo ô đên có khăn buộc giữa đến nhà gái treo ở cửa và hát bài mở cửa. Vào đến nhà hai ông mối treo ô ở vách bàn thờ, lấy thuốc mời chủ nhà. Nếu gia đình đồng ý để ghế dọc nhà rót hai chén rượu mời ông mối nếu không thì ghế đặt ngang nhà. Khi được gia đình đồng ý chủ nhà cho ông mối đem thịt rượu đến làm lễ hỏi chính thức, bàn việc cưới.
Người H’mông co tục làm lễ “buộc dâu” bằng một sợi dây chỉ vào cổ tay do nhà trai đem đến một cách long trọng. Đám cưới được tổ chức vào ngày tốt. Nhà trai phải đem đến cho nhà gái đầy đủ tiền và lễ thách cưới. Anh trai hay cậu dát tay cô dâu ra cửa trao cho những người đón dâu. Vào cửa nhà trai bố chống lấy gà làm lễ nhập môn, nếu trước đó chưa làm có ông bà là hai vợ chồng từ trong nhà ra cửa đón dâu. Cô dâu phải lướt qua ba cái ghế ở giữa nhà đến chỗ nghỉ của mình. Vợ chồng đi đón dâu phải trao lại cho nhà trai của hồi môn của cô dâu và nói những ý kiến mà nhà gái dặn. Sau 3 ngày cô dâu làm lễ lại mặt cùng với chú rể, gặp người nhà và anh em họ hàng gần rồi về ở hẳn nhà chồng với một số của hồi môn.
Theo phong tục, con dì con dà, con cô con cậu được lấy nhau. Con trai cậu lấy con gái cô được coi là điều tốt. Người cô khi gả bán trước hết phải được gả cho con câu. Còn cậu thì có quyền đòi cô gả con gái cho con trai mình.
+ Tục bắt vợ:
Tục cướp vợ trước đây khá phổ biến. Tục cướp vợ trong nhiều dân tộc ít người nước ta. Nhưng ở người H’mông tục này tồn tại lâu hơn cả. Đã thành thông lệ đêm 1-9 hàng năm lễ hội bắt vợ lại diễn ra ngay trong lòng thị trấn Mộc Châu (Sơn La).
Cả thị trấn Mộc Châu trở nên đông đúc nhộn nhịp với những chàng trai, cô gái H’mông tình tứ đưa nhau xuống chợ tình.
Không chỉ có người H’mông ở Mộc Châu mà cả người H’mông ở Sơn La, người H’mông ở các tỉnh Tây Bắc và người H’mông Lào cũng tìm đến và ngày 1/9 đã trở thành ngày họp mặt của các cộng đồng người H’mông. Những mối tình, những nghĩa anh em, bạn bè cũng từ đây mà sinh sôi nảy nở. Trai gái phải lòng nhau chọn ngày này làm lễ đính ước của đôi lứa hay có những thanh niên tổ chức đón đường kéo người con gái về dù người đó không đồng ý. Sau khi cướp được hai hôm, nhà trai cho người báo cho nhà gái biết và bàn việc cưới. Do đó nhiều cô gái phải lấy những người không vừa ý vì người con gái đã qua lễ nhập môn thì phải lấy người con trai kéo mình khi bị cướp bố mẹ không được cứu. Tuy nhiên với sự giúp đỡ của bạn, chị em người con gái có thể chống lại và có trường hợp đã tự cứu mình.
Hiện nay hiện tượng phổ biến: trai gái yêu nhau người con trai tổ chức kéo người con gái về. Trước khi kéo nhà trai đã chuẩn bị sẵn mọi thứ cần thiết cho đám cưới, việc xảy ra không chỉ do trai gái yêu nhau mà cả cha mẹ cũng đã biết và đồng ý. Nói là kéo nhưng thực ra chỉ dắt tay một quãng đường ngắn, rồi người con gái tự theo người con trai về.
Cũng như tục cướp vợ trước đây sau hai hôm nhà trai cho người sang nhà gái báo hỏi. Sau ba hôm cô gái có thể về nhà mình. Người ta cho kéo nhưvậy với quý không phải người con gái tự về nhà chồng.
Có trường hợp phải kéo 2, 3 lần mới cưới.
Vợ chồng người H’mông thường gắn bó với nhau khi đi chợ cũng như đi nương, trên đường đi chồng trước vợ theo sau như hình với bóng.
Lễ bắt vợ của người H’mông ngày nay dù chỉ mang yếu tố tượng trưng, song nó đánh dấu sự tiến bộ trong nhận thức của người H’mông và mang đầy tính nhân văn. Thân phận của các thiếu nữ H’mông không còn phải cam chịu lấy những người mà mình không yêu. Họ có quyền lực chọn người mình sẽ gắn bó cả đời. Trong sinh hoạt gia đình ông cậu và bà cô có vai trò quan trọng:
Cậu tham gia dạy bảo cháu thành người có tư cách, người cô có trách nhiệm to lớn trong việc chỉ bảo cháu biết các tập tục, cúng bái, ma chay, cưới xin, lễ hội “bắt vợ” của người H’mông là một nét đẹp văn hoá cần được giữ gìn phát huy, song một số hình ảnh mà chúng tôi tận mắt chứng kiến tại chợ tình Mộc Châu thì lại không đẹp, không hay chút nào: Chàng trai H’mông hiện đại cưỡi xe đi bắt vợ kè kè cái đài bên hông và bản tình ca băng hát cứ thế ê a bao lâu mặc lòng. Những cô thiếu nữ H’mông xúng xính váy áo bước lên xe rất nhẹ nhàng thuần thục. Dường như chuyện tình của những chàng trai, cô gái H’mông đã trở nên quá hiện đại.
+ Sinh con: do xây dựng gia đình sớm người phụ nữ H’mông chóng có con và đó cũng là điều mong ước của họ, người H’mông đẻ ngồi. Đẻ con trai sau chôn ở cột chính của nhà, đẻ con gái rau chôn ở gầm giừơng. Đến ngày thữ ba thì làm lễ cúng đặt tên và đeo vòng vía cho con.
Người phụ nữ H’mông có chửa phải kiêng không đi xa nhà, kiêng qua suối, không bước qua dây buộc ngựa, không ăn thức ăn mà dòng họ vẫn kiêng kỵ. Nạn hữu sinh vô dướng hiếm con xưa kia rất phổ biến, do vậy đồng bào thường hay làm lễ cầu tự hay thờ mụ.
+ Lễ hội:
Tết cổ truyền người H’mông tổ chức vào tháng 12 dương lịch. Ngày xuân, ngày tết với người H’mông là dịp để phô bày những tình cảm đẹp đẽ, những trò chơi dân gian của họ. Thời điểm này người H’mông đang rỗi việc nương rẫy, thời tiết lại hanh hao rét đậm, đàn ông ít vào rừng, đàn bà ngồi bậc cửa thêu thùa những bộ quần áo mới, thanh niên nam nữ ngồi tụ tập ngoài bãi cỏ đợi nắng lên tâm tình hay chơi các trò chơi dân gian như: ném pao, chơi lông gà, đánh quay, múa khèn, múa ô…
Người H’mông ở Sơn La hầu như không có lễ hội cộng đồng chỉ có lễ gia đình gồm:
-Thờ thần sinh sản (Đaktrông) trong buồng ngủ của chủ nhà.
-Thờ thổ địa, bàn thờ ở vách nhà.
-Thờ thần bếp lò và cột nhà bên bếp lò - nơi giao tiếp giữa người sống và người chết (tổ tiên) gọi là cúng ma bò, bếp lò và cửa chính có thần phù hộ cho ngôi nhà.
Lễ hội cầu tài là một lễ hội truyền thống của dân tộc H’mông được tổ chức vào những ngày đầu năm, mở đầu bằng các nghi lễ cúng tế trời đất, thân linh vì được phù hộ trong năm.
+ Nhạc cụ của người H’mông có nhiều loại khèn và kèn môi.
Người H’mông gửi lời ca tiếng hát, bày tỏ nỗi niềm thầm kín của mình vào tiếng khèn, sáo, kèn lá, người con gái bạn tình thổi khèn lá biết bạn tình nói gì với mình. Người cha, ông thổi kèn người con biết người cha, ông dạy cách đốt lò, tôi thép khoan súng.
Hồn ma cũng nghe tiếng khèn mà theo về với tổ tiên.
Những gia trị văn hoá tốt đẹp của người H’mông là một di sản lớn. Cũng như nhiều dân tộc khác người H’mông quan niệm vạn vật hữu linh có thế giới sự sống và thế giới cõi hư vô. Thế giới sự sống là thế giới Mường trần gian, cõi hưvô là mường trời của thần linh ma quỷ… Vì thế trong sinh hoạt và trong những hd tín ngưỡng đã sản sinh ra những nghi thức, tập quán đẹp hàm chứa những ý nghĩa nhân văn cao thể hiện lòng nhân ái, đức bao dung của con người vùng cao.
Như vậy, trong lịch sử người H’mông đã sáng tạo ra các giá trị văn hoá đặc sắc. Đó là việc canh tác nương rẫy theo mô hình người H’mông thích ứng với từng loại hình, coi trọng kỹ thuật thâm canh, đa canh. Đó là hệ thống thiết chế xã hội nhỏ nhưng bền vững như quan hệ dòng họ quan hệ giao tiếp, thích ứng với một xã hội phải cư trú phân tán, không còn lãnh thổ tộc người. Đó là hệ thống đời sống văn hoá tinh thần phong phú đạt tới đỉnh cao trong mặt bằng văn hoá dân gian. Những giá trị văn hoá này đã góp phần đứa người H’mông vượt khỏi những cam go của lịch sử, bảo vệ sự sinh tồn của dân tộc và bản sắc văn hoá tộc người.
Những si sản văn hoá quý giá và tiêng liêng vậy, nhưng nếu chúng ta không biết giữ gìn và phát huy thì rất có thể sẽ dần bị mai mọt. Đây không chỉ còn là chủ trương, nghị quyết của Đảng mà còn là trách nhiệm, nghĩa vụ thậm chí là quyền lợi của mỗi người dân, mỗi tổ chức. Cần huy động mọi nguồn lực để phục vụ nhiệm vụ và khai thác tiềm năng, tiềm tàng của nền văn hoá bản sắc dân tộc góp phần thúc đẩy mục tiêu phát triển kinh tế văn hoá xã hội của đất nước./.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LSDOCS (49).doc