Tiểu luận Địa vị pháp lý của Doanh nghiệp tư nhân

MỤC LỤC Lời mở đầu 2 Chương 1 Khái quát Doanh nghiệp tư nhân 3 1.1/ Khái niệm về doanh nghiệp tư nhân 3 1.2/ Các đặc điểm cơ bản 3 1.2.1/ Chế độ vốn tài chính 4 1.2.2/ Quản lý doanh nghiệp tư nhân 5 Chương 2 Quy định của pháp luật về doanh nghiệp tư nhân 6 2.1/ Đặc điểm pháp lý của Doanh nghiệp tư nhân 6 2.1.1/Doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp tư nhân do một cá nhân làm chủ 6 2.1.2/ Doanh nghiệp tư nhân tư nhân không có tư cách pháp nhân 7 2.1.3/ Trách nhiệm với các khoản nợ của doanh nghiệp tư nhân 8 2.2/ Quy chế hình thành và chấm dứt hoạt động của Doanh nghiệp tư nhân 8 2.2.1/Đăng kí kinh doanh của doanh nghiệp tư nhân 8 2.2.2/Chấm dứt hoạt động của doanh nghiệp tư nhân 10 2.3/ Quyền và nghĩa vụ cơ bản của doanh nghiệp tư nhân 12 2.3.1/ Quyền của doanh nghiệp tư nhân 12 2.3.2/ Nghĩa vụ của doanh nghiệp tư nhân 16 Kết luận 18 Tài liệu tham khảo 19 LỜI MỞ ĐẦU Sự phát triển của nền kinh tế thị trường Việt Nam đòi hỏi phải có một bộ khung Luật kinh tế hoàn chình. Trong đó pháp luật về doanh nghiệp đóng vai trò hết sức quan trọng. Tuy nhiên,ở nước ta quá trình công nhận hình thức sở hữu tư nhân chiếm một thời gian khá dài trong tương quan so sánh với quá trình phát triển kinh tế. Vì vậy, sự ra đời của các doanh nghiệp đại diện cho hình thức sỡ hữu này khá muộn so với các hình thức doanh nghiệp đại diện cho các hình thức sở hữu khác. Doanh nghiệp tư nhân là một loại hình kinh tế tư nhân, là một trong những thành phần kinh tế của nền kinh tế thị trường. Nhà nước khuyến khích thành phần kinh tế này phát triển và tạo điều kiện thuận lợi cho loại hình doanh nghiệp này hoạt động. Với sự quan tâm đặc biệt và các biện pháp hỗ trợ như hiện nay của Nhà nước với hình thức doanh nghiệp tư nhân thì loại hình này đã có những bước phát triển nhanh chóng về quy mô và số lượng. Năm 2000 nước ta có số lượng doanh nghiệp tư nhân là 14 842 doanh nghiệp, và đến tháng 6 năm 2010 thì nước ta đã có 501 900 doanh nghiệp hoạt động kinh doanh trên cả nước, với nhiều quy mô khác nhau. Đóng góp một phần không nhỏ trong việc phát triển kinh tế của đất nước. Hiện tại, tuy loại hình này cũng đã khá phổ biến tại Việt Nam nhưng Luật Doanh nghiệp 2005 đã có những đổi mới so với Luật Doanh nghiệp 1999 để tạo điều kiện phát triển cho doanh nghiệp tư nhân phát triển hơn nữa trong tương lai. Để hiểu rõ hơn về loại hình doanh nghiệp này, nhóm sinh viên lớp CĐTN11QN chúng tôi đã chọn đề tài: “Địa vị pháp lý của Doanh nghiệp tư nhân”. Bài tiểu luận là một cái nhìn tổng quan về địa vị pháp lý của doanh nghiệp tư nhân, bài tiểu luận được chia thành 2 chương: - Chương 1 : Khái quát Doanh nghiệp tư nhân. - Chương 2 : Quy định của pháp luật về doanh nghiệp tư nhân. Mặc dù đã có nhiều cố gắng trong quá trình nghiên cứu đề tài, song do thời gian có hạn và sự thiếu hiểu biết về lĩnh vực luật pháp của Nhà nước nên bài tiểu luận không tránh khỏi thiếu sót, rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của Thầy giáo và các bạn để bài tiểu luận được hoàn thiện hơn. Chúng em xin chân thành cảm ơn TS. Nguyễn Nam Hà đã tận hướng dẫn và giúp đỡ chúng em trong quá trình nghiên cứu đề tài

doc20 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 4402 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Địa vị pháp lý của Doanh nghiệp tư nhân, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC Lời mở đầu 2 Chương 1 Khái quát Doanh nghiệp tư nhân 3 1.1/ Khái niệm về doanh nghiệp tư nhân 3 1.2/ Các đặc điểm cơ bản 3 1.2.1/ Chế độ vốn tài chính 4 1.2.2/ Quản lý doanh nghiệp tư nhân 5 Chương 2 Quy định của pháp luật về doanh nghiệp tư nhân 6 2.1/ Đặc điểm pháp lý của Doanh nghiệp tư nhân 6 2.1.1/Doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp tư nhân do một cá nhân làm chủ 6 2.1.2/ Doanh nghiệp tư nhân tư nhân không có tư cách pháp nhân 7 2.1.3/ Trách nhiệm với các khoản nợ của doanh nghiệp tư nhân 8 2.2/ Quy chế hình thành và chấm dứt hoạt động của Doanh nghiệp tư nhân 8 2.2.1/Đăng kí kinh doanh của doanh nghiệp tư nhân 8 2.2.2/Chấm dứt hoạt động của doanh nghiệp tư nhân 10 2.3/ Quyền và nghĩa vụ cơ bản của doanh nghiệp tư nhân 12 2.3.1/ Quyền của doanh nghiệp tư nhân 12 2.3.2/ Nghĩa vụ của doanh nghiệp tư nhân 16 Kết luận 18 Tài liệu tham khảo 19 LỜI MỞ ĐẦU Sự phát triển của nền kinh tế thị trường Việt Nam đòi hỏi phải có một bộ khung Luật kinh tế hoàn chình. Trong đó pháp luật về doanh nghiệp đóng vai trò hết sức quan trọng. Tuy nhiên,ở nước ta quá trình công nhận hình thức sở hữu tư nhân chiếm một thời gian khá dài trong tương quan so sánh với quá trình phát triển kinh tế. Vì vậy, sự ra đời của các doanh nghiệp đại diện cho hình thức sỡ hữu này khá muộn so với các hình thức doanh nghiệp đại diện cho các hình thức sở hữu khác. Doanh nghiệp tư nhân là một loại hình kinh tế tư nhân, là một trong những thành phần kinh tế của nền kinh tế thị trường. Nhà nước khuyến khích thành phần kinh tế này phát triển và tạo điều kiện thuận lợi cho loại hình doanh nghiệp này hoạt động. Với sự quan tâm đặc biệt và các biện pháp hỗ trợ như hiện nay của Nhà nước với hình thức doanh nghiệp tư nhân thì loại hình này đã có những bước phát triển nhanh chóng về quy mô và số lượng. Năm 2000 nước ta có số lượng doanh nghiệp tư nhân là 14 842 doanh nghiệp, và đến tháng 6 năm 2010 thì nước ta đã có 501 900 doanh nghiệp hoạt động kinh doanh trên cả nước, với nhiều quy mô khác nhau. Đóng góp một phần không nhỏ trong việc phát triển kinh tế của đất nước. Hiện tại, tuy loại hình này cũng đã khá phổ biến tại Việt Nam nhưng Luật Doanh nghiệp 2005 đã có những đổi mới so với Luật Doanh nghiệp 1999 để tạo điều kiện phát triển cho doanh nghiệp tư nhân phát triển hơn nữa trong tương lai. Để hiểu rõ hơn về loại hình doanh nghiệp này, nhóm sinh viên lớp CĐTN11QN chúng tôi đã chọn đề tài: “Địa vị pháp lý của Doanh nghiệp tư nhân”. Bài tiểu luận là một cái nhìn tổng quan về địa vị pháp lý của doanh nghiệp tư nhân, bài tiểu luận được chia thành 2 chương: - Chương 1 : Khái quát Doanh nghiệp tư nhân. - Chương 2 : Quy định của pháp luật về doanh nghiệp tư nhân. Mặc dù đã có nhiều cố gắng trong quá trình nghiên cứu đề tài, song do thời gian có hạn và sự thiếu hiểu biết về lĩnh vực luật pháp của Nhà nước nên bài tiểu luận không tránh khỏi thiếu sót, rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của Thầy giáo và các bạn để bài tiểu luận được hoàn thiện hơn. Chúng em xin chân thành cảm ơn TS. Nguyễn Nam Hà đã tận hướng dẫn và giúp đỡ chúng em trong quá trình nghiên cứu đề tài. Nhóm sinh viên. Chương 1 Khái quát Doanh nghiệp tư nhân 1.1/ Khái niệm doanh nghiệp tư nhân. Ngày 29/11/2005, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua Luật doanh nghiệp 2005 thay thế cho Luật doanh nghiệp 1999. Luật doanh nghiệp 2005 ra thể hiện sự thống nhất trong việc điều chỉnh địa vị pháp lý của các doanh nghiệp ở Việt Nam, điều này một lần nữa khẳng định vị trí, vai trò của doanh nghiệp tư nhân bên cạnh các loại hình doanh nghiệp khác. Để làm rõ các khía cạnh pháp lý cơ bản của doanh nghiệp tư nhân, Khoản 1 Điều 141 Luật Doanh nghiệp 2005 đã định nghĩa doanh nghiệp tư nhân như sau : “Doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp”. Và doanh nghiệp tư nhân là “ tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh”( Khoản 1 Điều 4 Luật doanh nghiệp 2005). 1.2/ Các đặc điểm cơ bản. Từ định nghĩa trên có thể thấy trách nhiệm của chủ doanh nghiệp tư nhân là vô hạn và chỉ có thể là do một cá nhân làm chủ sở hữu duy nhất. Chủ doanh nghiệp cũng chính là người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp. Theo định nghĩa này thì doanh nghiệp tư nhân có các đặc điểm cơ bản sau: - Doanh nghiệp tư nhân là một đơn vị kinh doanh; - Doanh nghiệp tư nhân do một cá nhân làm chủ; - Doanh nghiệp tư nhân không có tư cách pháp nhân và không được phát hành chứng khoán. - Chủ doanh nghiệp tư nhân tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp. Theo quy định chủ doanh nghiệp tư nhân chịu trách nhiệm vô hạn về các nghĩa vụ của doanh nghiệp. Xét về mặt pháp lý đây là đặc điểm rất quan trọng của doanh nghiệp tư nhân. Khi doanh nghiệp tư nhân có nợ nần thì chủ doanh nghiệp phải đem toàn bộ tài sản của mình(không phân biệt là tài sản riêng hay tài sản của doanh nghiệp) để trả cho các chủ nợ. Chế độ trách nhiệm tài sản này của doanh nghiệp tư nhân khác với công ty. Khi công ty có các khoản nợ thì bản thân các thành viên chịu trách nhiệm bằng phần vốn đã góp vào công ty chứ không chịu trách nhiệm bằng tài sản riêng của mình. Quan hệ nợ nần của công ty là quan hệ công ty với (các) chủ nợ chứ không phải là quan hệ của các thành viên với chủ nợ. Ngược lại, quan hệ nợ nần của doanh nghiệp tư nhân là quan hệ chủ doanh nghiệp và (các) chủ nợ, không phải chỉ có doanh nghiệp và chủ nợ. Chế độ chịu trách nhiệm vô hạn của chủ doanh nghiệp tư nhân là một ưu thế mà doanh nghiệp này có thể dễ dàng vay các khoản tín dụng lớn từ ngân hàng. Khi cung cấp tín dụng, ngân hàng có thể căn cứ vào toàn bộ tài sản của chủ doanh nghiệp chứ không phải chỉ căn cứ vào tài sản của doanh nghiệp. Toàn bộ tài sản của chủ doanh nghiệp là một bảo đảm chắc cho việc thanh toán các khoản nợ của doanh nghiệp. Chế độ trách nhiệm vô hạn cũng có những điểm đáng lưu ý sau: Thứ nhất, trách nhiệm của người điều hành doanh nghiệp trong quan hệ với chủ doanh nghiệp trong trường hợp chủ doanh nghiệp không phải là người điều hành doanh nghiệp. Trách nhiệm này được giải quyết trên cơ sở hợp đồng của chủ doanh nghiệp với người điều hành doanh nghiệp và các quy định trong pháp luật hợp đồng. Thứ hai, vấn đề tài sản của vợ chồng. Theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình, vợ chồng có tài sản riêng. Các tài sản riêng của vợ(hoặc của chồng) không phải là tài sản của chủ doanh nghiệp và không đem ra thanh toán nợ của chủ doanh nghiệp. Thứ ba, chế độ trách nhiệm vô hạn cũng có nhược điểm làm cho các chủ doanh nghiệp tư nhân không dám đầu tư vào những lĩnh vực, khu vực có nhiều rủi ro cao. Điều đó có thể dẫn đến sự phát triển mất cân đối của nền kinh tế và có những nhu cầu của xã hội không được đáp ứng. 1.2.1/ Chế độ vốn tài chính. Các vấn đề này được quy định tại Điều 142 Luật doanh nghiệp 2005. - Vốn đầu tư của doanh nghiệp do chủ doanh nghiệp tự khai, Chủ doanh nghiệp tư nhân có nghĩa vụ khai báo chính xác tổng số vốn đầu tư. - Toàn bộ vốn và tài sản, kể cả vốn vay và tài sản thuê, được sử dụng vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp đều phải được ghi chép đầy đủ vào sổ kế toán và báo cáo tài chính của doanh nghiệp. - Trong quá trình hoạt động, chủ doanh nghiệp tư nhân có quyền tăng, giảm vốn đầu tư. Việc tăng hoặc giảm vốn đầu tư của chủ doanh nghiệp phải được ghi chép đầy đủ vào sổ kế toán. Trường hợp giảm vốn đầu tư xuống thấp hơn vốn đầu tư đã đăng ký, thì chủ doanh nghiệp tư nhân chỉ được giảm vốn sau khi đã khai báo với cơ quan đăng ký kinh doanh. 1.2.2/ Quản lý doanh nghiệp tư nhân. Các vấn đề này được quy định tại Điều 143 Luật doanh nghiệp 2005. - Chủ doanh nghiệp tư nhân có toàn quyền quyết định đối với tất cả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp; có toàn quyền quyết định việc sử dụng lợi nhuận sau khi đã nộp thuế và thực hiện các nghĩa vụ tài chính khác theo quy định của pháp luật. - Chủ doanh nghiệp tư nhân là đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp. - Chủ doanh nghiệp tư nhân là nguyên đơn, bị đơn hoặc người có quyền, nghĩa vụ và lợi ích liên quan trước Trọng tài hoặc Tòa án trong các tranh chấp liên quan đến doanh nghiệp. Chủ doanh nghiệp tư nhân có thể trực tiếp hoặc thuê người khác quản lý, điều hành hoạt động kinh doanh. Trường hợp thuê người khác làm giám đốc quản lý doanh nghiệp, thì chủ doanh nghiệp tư nhân phải khai báo với cơ quan đăng ký kinh doanh và vẫn phải chịu trách nhiệm về mọi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Chương 2 Quy định của pháp luật về doanh nghiệp tư nhân 2.1/ Đặc điểm pháp lý của Doanh nghiệp tư nhân. 2.1.1/ Doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp do có một cá nhân làm chủ. Là một trong năm loại hình doanh nghiệp được điều chỉnh bởi Luật doanh nghiệp 2005, doanh nghiệp tư nhân có những đặc điểm chung cũng như những nét phân biệt với các loại hình doanh nghiệp khác. Theo pháp luật Việt Nam, doanh nghiệp tư nhân được xếp vào nhóm các doanh nghiệp một chủ sở hữu. Các doanh nghiệp một chủ sở hữu bao gồm: Công ty nhà nước, Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên và doanh nghiệp tư nhân. Tuy nhiên, ngay trong nhóm các doanh nghiệp một chủ, doanh nghiệp tư nhân cũng có những điểm khác biệt. đó là loại hình doanh nghiệp này chỉ do một cá nhân duy nhất làm chủ sở hữu. Như vậy, trong doanh nghiệp tư nhân không xuất hiện sự góp vốn giống như các công ty nhiều chủ sở hữu, nguồn vốn của doanh nghiệp tư nhân chủ yếu xuất phát từ tài sản của một cá nhân duy nhất. Từ đặc điểm này có thể thấy doanh nghiệp tư nhân bao hàm trong nó những đặc trưng nhất định giúp phân biệt loại hình doanh nghiệp tư nhân với các loại hình doanh nghiệp khác. Về quan hệ sở hữu vốn trong doanh nghiệp. Nguồn vốn ban đầu của doanh nghiệp tư nhân xuất phát chủ yếu từ tài sản của cá nhân, phần vốn này sẽ do chủ doanh nghiệp tư nhân tự khai báo với cơ quan đăng ký kinh doanh( gọi là vốn đầu tư ban đầu của chủ doanh nghiệp tư nhân ) và được ghi chép đầy đủ trong sổ kế toán của doanh nghiệp. Theo khoản 3 Điều 142 Luật doanh nghiệp 2005 thì trong quá trình kinh doanh, doanh nghiệp tư nhân có quyền tăng giảm vốn đầu tư và chỉ khai báo với cơ quan đăng ký kinh doanh trong trường hợp giảm vốn xuống dưới mức đã đăng kí. Từ đó ta có thể thấy rằng hầu như không có giới hạn nào giữa phần vốn và tài sản đưa vào kinh doanh của doanh nghiệp tư nhân và phần tài sản còn lại thuộc sở hữu của chủ doanh nghiệp Điều này có ý nghĩa trong việc nhìn nhận về khối tài sản của doanh nghiệp tư nhân, khẳng định vấn đề không thể tách bạch tài sản của chủ doanh nghiệp tư nhân và tài sản của chính doanh nghiệp tư nhân đó. Quan hệ sở hữu quyết định quan hệ quản lý. Doanh nghiệp tư nhân chỉ có một chủ đầu tư duy nhất, vì vậy cá nhân có quyền quyết định mọi vấn đề liên quan đến tổ chức và hoạt động của doanh nghiệp tư nhân. Theo khoản 4 Điều 143 Luật doanh nghiệp 2005 thì chủ doanh nghiệp tư nhân là người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp tư nhân Chủ doanh nghiệp tư nhân có quyền định đoạt đối với tài sản doanh nghiệp tư nhân cũng như có toàn quyền quyết định tổ chức quản lý doanh nghiệp tư nhân có hiệu quả nhất. Chủ doanh nghiệp tư nhân có thể tự mình quản lý hoặc thuê người quản lý doanh nghiệp. Theo khoản 2 Điều 143 Luật doanh nghiệp 2005 thì trong trường hợp thuê người quản lý thì chủ doanh nghiệp tư nhân vẫn phải chịu trách nhiệm trước mọi hoạt động của doanh nghiệp dưới sự quản lý, điều hành của người được thuê. Về cơ bản người chịu trách nhiệm trực tiếp trước pháp luật và các bên thứ ba đối với hoat động kinh doanh của doanh nghiệp vẫn là chủ doanh nghiệp tư nhân. Phân phối lợi nhuận. Vấn đề phân chia lợi nhuận không đặt ra đối với doanh nghiệp tư nhân, bởi lẽ doanh nghiệp này chỉ có một chủ sở hữu và toàn bộ lợi nhuận thu được từ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp sẽ chỉ thuộc về một mình chủ doanh nghiệp sau khi đã thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ với Nhà nước và bên thứ ba. Đây cũng là một ưu điểm khi kinh doanh dưới hình thức doanh nghiệp một chủ. Người được thuê để điều hành doanh nghiệp tư nhân cũng không có quyền đòi hỏi một số % nhất định trong số lợi nhuận thu được nếu điều này không được đặt ra trong hợp đồng thuê người quản lý đã ký giữa chủ doanh nghiệp và người được thuê. Tuy nhiên, việc một cá nhân duy nhất được hưởng lợi nhuận cũng có nghĩa là cá nhân duy nhất đó sẽ có nghĩa vụ chịu mọi rui ro trong kinh doanh mà không thể yêu cầu người khác ghánh đỡ những rủi ro này. Đây cũng là một điểm hạn chế lớn, là nguyên nhân khiến cho không ít nhà đầu tư không muốn kinh doanh dưới hình thức doanh nghiệp tư nhân 2.1.2/ Doanh nghiệp tư nhân không có tư cách pháp nhân. Doanh nghiệp tư nhân không phải là pháp nhân. Theo quy định của Luật doanh nghiệp 2005, doanh nghiệp tư nhân là loại hình duy nhất không có tư cách pháp nhân vì lý do chủ yếu liên quan đến quan hệ vốn và tài sản giữa chủ doanh nhân. Doanh nghiệp tư nhân không thỏa mãn được yêu cầu này, ví thế nó không thỏa mãn được một trong các yêu cầu cơ bản để có tư cách pháp nhân. Việc không phải là tư cách pháp nhân, doanh nghiệp tư nhân tư cũng gặp không ít khó khăn và bị hạn chế nhiều trong hoạt động thương mại dưới sự điều chỉnh của pháp luật hiện hành. 2.1.3/ Trách nhiệm với các khoản nợ của doanh nghiệp tư nhân Đối với chủ doanh nghiệp tư nhân, do tính chất độc lập về tài sản của doanh nghiệp không có nên chủ doanh nghiệp tư nhân – người chịu trách nhiệm duy nhất trước mọi rủi ro của doanh nghiệp sẽ phải chịu chế độ trách nhiệm vô hạn. Chủ doanh nghiệp tư nhân không chỉ chịu trách nhiệm về hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trong phạm vi phần vốn đầu tư đã đăng ký với cơ quan đăng ký kinh doanh mà phải chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình trong trường hợp phần vốn đầu tư đã đăng ký không đủ để trang trải các khoản nợ của doanh nghiệp tư nhân. Một doanh nghiệp tư nhân không có khả năng thanh toán nợ đến hạn và lâm vào tình trạng phá sản thì tất cả những tài sản thuộc sở hữu của chủ doanh nghiệp tư nhân đều nằm trong diện tài sản phá sản của doanh nghiệp. Chính vì đặc trưng pháp lý cơ bản này mà bên cạnh những hạn chế do không có tư cách pháp nhân, doanh nghiệp tư nhân còn phải chịu một số hạn chế khác như không được phát hành bất kỳ một loại chưng khoán nao và chủ doanh nghiệp tư nhân chỉ được thành lập duy nhất một doanh nghiệp tư nhân và cho đến khi nào doanh nghiệp tư nhân đã được thành lập đó vẫn còn tồn tại thì cá nhân chủ doanh nghiệp tư nhân không được thành lập them một doanh nghiệp tư nhân nào khác 2.2/ Quy chế hình thành và chấm dứt hoạt động của doanh nghiệp tư nhân. 2.2.1/ Đăng kí kinh doanh doanh nghiệp tư nhân. * Điều kiện đăng ký kinh doanh. Theo quy định của pháp luật hiện hành, để một doanh nghiệp tổ chức được đăng ký kinh doanh, cần hội đủ những điều kiện nhất định, cụ thể: Điều kiện về chủ thể Xuất phát từ việc doanh nghiệp tư nhân do một cá nhân làm chủ duy nhất, cá nhân này chính là người trực tiếp thành lập và quản lý doanh nghiệp tư nhân, cho nên điều kiện thành lập chủ doanh nghiệp tư nhân cũng chính là điều kiện được quy định tại điểu 13 Luật doanh nghiệp năm 2005. Theo đó, một số cá nhân sau đây không thể trở thành chủ doanh nghiệp tư nhân: + Cán bộ, công chức. + Sĩ quan, hạ sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng trong các cơ quan, đơn vị trực thuộc quân đội nhân dân; Sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp trong các cơ quan, đơn vị thuộc công an nhân dân; + Cán bộ lãnh đạo, quản lý nghiệp vụ trong các doanh nghiệp 100% vốn chủ sở hữu nhà nước, trừ những người được cử làm đại diện theo ủy quyền quản lý phần vốn góp của nhà nước tại doanh nghiệp khác; + Người chưa thành niên, người thành niên bị hạn chế hoặc bị mất hành vi năng lực dân sự; + Người đang chấp hành hình phạt tù hoặc đang bị tòa án cấm hành nghề kinh doanh; + Các trường hợp khác theo định của pháp luật theo luật phá sản; * Điều kiện về vốn Trước đây, theo quy định của luật doanh nghiệp tư nhân năm 1990 thì vốn pháp định là một điều kiện bắt buộc cho mỗi chủ thể đầu tư khi muốn thành lập doanh nghiệp tư nhân. Luật doanh nghiệp 1999 đã bỏ quy định về vốn pháp định như một điều kiện để thành lập doanh nghiệp tư nhân, trừ một số doanh nghiệp đăng ký kinh doanh trong những ngành nghề mang tính chất đặc thù thuộc danh mục phải đáp ứng điều kiện về vốn pháp định. Luật doanh nghiệp 2005, về nguyên tắc vẫn không quy định về vốn pháp định đối với tất cả các ngành nghề kinh doanh, trừ một số ngành nghề đặc biệt. Như vậy, để thành lập một doanh nghiệp tư nhân, chủ đầu tư không phải đáp ưng điều kiện bắt buộc về một số vốn tối thiểu phải có nếu doanh nghiệp không đăng ký kinh doanh trong những ngành nghề thuộc danh mục phải có vốn pháp định. Tuy nhiên, đã là đăng ký hoạt động kinh doanh thì phải có vốn. Vốn ban đầu của doanh nghiệp tư nhân sẽ do chủ doanh nghiệp tư nhân tự khai và chủ doanh nghiệp tư nhân có quyền tăng hoặc giảm vốn ban đầu này. * Các điều kiện khác Ngoài hai điều kiện trên còn các điều kiện khác như điều kiện về ngành nghề kinh doanh, điều kiện về tên doanh nghiệp… cũng đóng góp những phần không nhỏ để làm căn cứ xét tính hợp pháp của việc đăng ký kinh doanh cho doanh nghiệp tư nhân. - Thứ nhât, với nghành nghề kinh doanh. Với điều kiện này, pháp luật quy định doanh nghiệp được kinh doanh tất cả ngành nghề mà pháp luật không cấm. Về cơ bản, ngành nghề kinh doanh được chia theo các nhóm: Nhóm ngành nghề kinh doanh tự do, nhóm ngành nghề kinh doanh có điều kiện ( phải có chứng chỉ hành nghề hoặc giấy phép hành nghề) và nhóm ngành nghề kinh doanh bị cấm. Như vậy chủ đầu tư có thể lựa chọn bất cứ ngành nghề nào nằm ngoài nhóm ngành nghề bị cấm kinh doanh, đặc biệt đối với ngành nghề kinh doanh có điều kiện thì việc chọn ngành nghề kinh doanh được coi là hợp pháp khi chủ đầu tư đáp ứng đầy đủ đáp ứng đầy đủ các yêu cầu của pháp luật liên quan đến ngành nghề đó. - Thứ hai, điều kiện về tên doanh nghiệp Với điều kiện về tên doanh nghiệp, khoản 1, khoản 2, điều 31 Luật kinh doanh năm 2005 quy định: tên doanh nghiệp phải được viết tắt bằng tiếng Việt và có thể kèm theo chữ số và kí hiệu, phải phát âm được và có ít nhất 2 thành tố: loại hình doanh nghiệp và tên riêng. Như vậy, với quy định này, tên của các doanh nghiệp tư nhân phải đều phải kèm theo cụm từ “ Doanh nghiệp tư nhân”. Ngoài ra, pháp luật còn nêu ra một số trường hợp cấm trong khi lựa chọn teen cho doanh nghiệp như: khong đặt tên trùng hoặc tên gây nhầm lẫn với tên doanh nghiệp đã đăng kí, không được sử dụng tên cơ quan nhà nước, đơn vị lực lượng vũ trang nhân dân, tên của tổ chức chính trị, tổ chức chình trị - xã hội, để làm toàn bộ hoặc một phần tên riêng của doanh nghiệp, trừ trường hợp có sự chấp thuận của cơ quan, đơn vị hoặc của tổ chức đó, không được sử dụng từ ngữ, kí hiệu vi phạm truyền thống lịch sử, văn hóa đạo đức, thuần phong mỹ tục của dân tộc ta để đặt tên riêng cho doanh nghiệp. Ngoài ra pháp luật cũng cho phép các doanh nghiệp được dịch tên sang tiếng nước ngoài hoặc viết tắc, tuy nhiên trong mọi trường hợp vẫn phải thể hiện đầy đủ tên của doanh nghiệp bằng tiếng Việt trên biển hiệu của doanh nghiệp. Thủ tục đăng kí kinh doanh. Với tư cách là một trong những loại hình doanh nghiệp được điều chỉnh bởi Luật doanh nghiệp 2005, doanh nghiệp tư nhân cũng phải tuân theo quy trình,cách thức, các bước giống như việc đăng kí kinh doanh cho các loại hình công ty. Nhìn từ phía chủ đầu tư, các bước tiến hành đăng kí kinh doanh cho doanh nghiệp gồm các bước sau: Nộp hồ sơ đăng kí kinh doanh tới cơ quan đăng kí kinh doanh có thẩm quyền. Hò sơ đăng kí kinh doanh phải có đầy đủ các giấy tờ theo quy định của pháp luật. (Bao gồm: Giấy đề nghị đăng kí kinh doanh theo mẫu thống nhất; bản sao giấy chứng minh nhân dân, hộ chiếu hoặc chứng thực cá nhân hợp pháp khác; văn bản xác nhận phần vốn pháp định của doanh nghiệp nếu doanh nghiệp trong những nghành nghề yêu cầu có vốn pháp định; chứng chỉ hành nghề của chủ doan nghiệp tư nhân hoặc giám đốc doanh nghiệp). Nộp lệ phí đang kí kinh doanh. Bổ sung và hoàn tất hồ sơ nếu thiếu sót hoặc chưa đầy đủ. Chậm nhất là 30 ngày kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh, phải công bố sự ra đời của doanh nghiệp tư nhân trên các báo hàng ngày của trung ương và địa phương trong 3 số liên tiếp với nội dung theo pháp luật quy định. 2.2.2 Chấm dứt hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp tư nhân. * Giải thể doanh nghiệp tư nhân Với tư cách là một loại hình doanh nghiệp hoạt động theo Luật doanh nghiệp, doanh nghiệp tư nhân cũng có cùng một quy chế giải thể chung với các loại hình doanh nghiệp khác như công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần và công ty hợp danh. Tuy nhiên, ngoài những quy định chung, xét riêng đối với doanh nghiệp tư nhân, quy chế giải thể cũng có một số điểm khác biệt. Theo Điều 157 Luật doanh nghiệp 2005, doanh nghiệp tư nhân giải thể theo các trường hợp sau đây: Thứ nhất, theo quyết định của chủ doanh nghiệp tư nhân. Có thể coi đây là trường hợp giải thể tự nguyện. Với quy định này, Luật doanh nghiệp trao cho chủ doanh nghiệp tư nhân được quyết định việc có giải thể doanh nghiệp hay không, có nghĩa là lý do giải thể ở đây sẽ phụ thuộc vào ý chí và sự lựa chọn rộng rãi của chủ doanh nghiệp tư nhân. Như vậy, chủ doanh ngiệp tư nhân có thể giải thể doanh nghiệp với bất cứ lí do gì, khi cho rằng sự tồn tại của doanh nghiệp tư nhân là không còn có lợi… Điều này cũng đảm bảo một cách cao hơn quyền tự do kinh doanh và sở hữu doanh nghiệp của các nhà đầu tư. Thứ hai, bị thu hồi giấy đăng kí kinh doanh Luật doanh nghiệp quy định trường hợp giải thể bắt buộc đối với doanh nghiệp tư nhân, khi doanh nghiệp tư nhân bị thu hồi giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh. Theo Luật doanh nghiệp, bị thu hồi giấy chứng nhận kinh doanh cũng có nghĩa là Nhà nước rút lại sự công nhận tư cách chủ thể kinh doanh đối với doanh nghiệp tư nhân. Lúc này, doanh nghiệp tư nhân không còn thẩm quyền kinh tế, nghĩa là không còn được tiến hành các hoạt đông kinh doanh, mục đích của việc thành lập doanh nghiệp không có cơ hội thực hiện nữa. Vì vậy sự tồn tại của doanh nghiệp này không còn ý nghĩa. Điều 158, Luật doanh nghiệp 2005 quy định rõ về thủ tục giải thể doanh nghiệp, trong đó có doanh nghiệp tư nhân. Cụ thể, thủ tục giải thể một doanh nghiệp tư nhân gồm cố 3 bước: Bước 1: Chủ doanh nghiệp tư nhân quyết định giải thể doanh nghiệp. Bước 2: Chủ doanh nghiệp trực tiếp tổ chức thanh lý tài sản doanh nghiệp Bước 3: Trong thời hạn 7 ngày làm việc, phải tiến hành gửi quyết định giải thể đến cơ quan đăng kí kinh doanh và thong báo giải thể đến tất cả những người có quyền và lợi ích liên quan, các chủ nợ của doanh nghiệp ( kèm theo phương án giải quyết nợ ), tiến hành thông báo công khai về việc giải thể thông qua việc niêm yết quyết định giải thể tại trụ sở chính của doanh nghiệp và đăng báo địa phương hoặc trung ương trong 3 số liên tiếp ( nếu pháp luật quy định phải đăng báo). Bước 4: Trong thời hạn 7 ngày kể từ sau khi thực hiện xong nghĩa vụ trả nợ của doanh nghiệp, người đại diện cho doanh nghiệp phải gởi hồ sơ về giải thể doanh nghiệp tư nhân đến cơ quan đăng kí kinh doanh. Trong thời hạn 7 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ về giải thể doanh nghiệp, cơ quan đăng kí kinh doanh phải xóa tên daonh nghiệp tư nhân đó trong hồ sơ đăng kí kinh doanh. Đây là hành vi pháp lý cuối cùng chấm dứt sự tồn tại cuối cùng của doing nghiệp tư nhân với tư cách là một doanh nghiệp. * Phá sản doanh nghiệp tư nhân. Doanh nghiệp tư nhân lâm vào tinh trạng phá sản là doanh nghiệp kinh doanh thua lỗ kéo dài đến mức không trả được các khoản nợ đến hạn. Doanh nghiệp tư nhân là một trong những đối tượng áp dụng của Luật phá sản 2004,vì thế khi doanh nghiệp tư nhân lâm vào tình trạng phá sản nó sẽ được áp dụng các quy định của Luật phá sản 2004 để giải quyết. Được áp dung Luật phá sản 2004 để giải quyết việc thanh toán nợ với các chủ nợ, doanh nghiệp tư nhân có những lợi ích nhất định, đó là việc chủ doanh nghiệp tư nhân sẽ thanh toán các khoản nợ theo quy định của Luật phá sản cho đến hết tài sản hiện có của chủ doanh nghiệp. Sauk hi thủ tục phá sản chấm dứt, tùy từng trường hợp theo quy định của pháp luật, chủ doanh nghiệp tư nhân có nghĩa vụ với các khoản nợ còn chưa thanh toán hết với các chủ nợ. 2.3/ Quyền và nghĩa vụ cơ bản của doanh nghiệp tư nhân. 2.3.1/ Quyền của doanh nghiệp tư nhân. Doanh nghiệp tư nhân là một doanh ghiệp hoạt động theo Luật doanh nghiệp 2005, vì vậy nó được hưởng những quyền chung giống mọi doanh nghiệp khacs như: Công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh. Tuy nhiên, mỗi một quyền chung, khi xét ở từng góc độ của từng loại hình doanh nghiệp khác nhau lại có những quy định đặc thù cho từng loại hình cụ thể đó. Với doanh nghiệp tư nhân các quyền chung của doanh nghiệp được áp dụng như sau: - Doanh nghiệp tư nhân có quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản của Doanh nghiệp. Đây là quyền đầu tiên và cũng là quyền cơ bản nhất của doanh nghiệp tư nhân. Không giống như các loại hình công ty như công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn nhiều thành viên, công ty hợp danh, doanh nghiệp tư nhân tư nhân chỉ có một chủ duy nhất. Tài sản của doanh nghiệp không được hợp thành từ tài sản vốn góp của các thành viên như hình thức công ty ,tài sản của doanh nghiệp tư nhân tư nhân chính là tài sản của cá nhân chủ doanh nghiệp. Do đó, so với các hình thức công ty, tài sản của doanh nghiệp tư nhân tư nhân khó tách bạch với tài sản dân sự cũ chủ doanh nghiệp tư nhân tư nhân. Đồng thời, vốn của chủ doanh nghiệp tư nhân là do chủ doanh nghiệp tư nhân tư nhân tự khai và chủ doanh nghiệp tư nhân có quyền tự tăng giảm vốn đầu tư mà không phải khai báo với cơ quan đăng kí kinh doanh, trừ trường hợp giảm vốn đầu tư xuống dưới mức đã đăng kí, vì vậy. Tài sản của doanh nghiệp tư nhân tại một thời điểm nhất định phụ thuộc hoàn toàn vào hành vi của chủ doanh nghiệp tư nhân. Khái niệm “tài sản của doanh nghiệp” đối với trường hợp doanh nghiệp tư nhân cũng có thể hiểu đó là tài sản đưa vào kinh doanh của chủ doanh nghiệp tư nhân. Có thể nói, do chế độ trách nhiệm vô hạn của chủ doanh nghiệp đối với những hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp tư nhân nên không thể có giới hạn giữa tài sản của chủ doanh nghiệp và tài sản của doanh nghiệp tư nhân. Một cách khác, có thể hiểu, khối tài sản riêng của doanh nghiệp tư nhân cũng vẫn có thể tồn tại nhưng là trong một khoảng thời gian nhất định và phụ thuộc hoàn toàn vào chủ doanh nghiệp tư nhân . Về nguyên tắc, doanh nghiệp tư nhân sẽ có toàn quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt khối tài sản của doanh nghiệp nhưng trên thực tế, chỉ có chủ doanh nghiệp tư nhân mới có đủ điều kiện, khả năng để thực hiện quyền này. Tuy nhiên, việc trao chho doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp tư nhân nói riêng quyền sỡ hữu đối với tài sản của chính mình là một trong những quy định của luật doanh nghiệp năm 2005 tạo điều kiện cho các loại hình doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả trong nền kinh tế thị trường trên cơ sở tự quyết, linh hoạt đối với việc sử dụng vốn. Doanh nghiệp tư nhân có quyền chủ động lựa chọn nganh nghề , địa bàn dân cư, hình thức đầu tư, chủ động mở rộng quy mô và ngành nghề kinh doanh, doanh nghiệp tư nhân có quyền chủ động tìm kiếm thị trường khách hàng và kí kết hợp đồng. Quyền này xuất phát từ nguyên tắc tự do kinh tế. Doanh nghiệp tư nhân sau khi thừa nhận về mặt pháp lý , trở thành chủ thể kinh doanh độc lập sẽ có quyền kinh doanh độc lập sẽ có quyền kinh doanh đúng với ngành nghề đã đăng kí. Đó có thể là bất cứ ngàng nghề gì, thuoccj bất cứ lãnh vực nào không thuộc danh mục ngành nghề pháp luật cấm kinh doanh. Sự lụa chọn hoàn toàn phụ thuộc vào ý chí của chủ doanh nghiệp tư nhân . Chủ doanh nghiệp tư nhân sẽ dựa trên khả năng của chính mình, quy mô kinh doanh ,nhu cầu của thị trường để quyết định các phương hướng đầu tư, kinh doanh. Việc kinh doanh ngành nghề gì, kinh doanh như thế nào không nhất thiết phụ thuộc vào ý chí chủ quan ban đầu (ở thời điểm đăng kí kinh doanh) của chủ doanh nghiệp tư nhân. Việc thay đổi ngành nghề kinh doanh được pháp luật chấp nhận ở bất kì thời điểm nào và cũng hoàn toàn phụ thuộc vào ý chí chủ quan của chủ doanh nghiệp. Doanh nghiệp tư nhân còn có một quyền cơ bản nữa đó là quyền được góp vốn vào doanh nghiệp khác ,quyền liên doanh, liên kết. tuy nhiên, đối với một loại hình doanh nghiệp khoong có khối tài sản độc lập thì việc góp vốn vào doanh nghiệp khác cũng là một vấn đề không phải đơn giản. Doanh nghiệp tư nhân có quyền tự mình tìm kiếm khách hàng và kí kết hợp đồng , nghĩa là được quyền quyết định xem ai sẽ là đối tác của mình trên thương trường. Đây cũng là một trong những công cụ để một loại hình doanh nghiệp một chủ như doanh nghiệp tư nhân có thể có chỗ đứng tồn tại được trong môi trường kinh doanh mà cạnh tranh chính là động lực chủ yếu của sự phát triển. Trong môi trường đó, buộc chủ doanh nghiệp tư nhân phải tìm kiếm những nơi có đầu tư tương lai, những đối tác làm ăn có lợi. Nhà nước không can thiệp vào doanh nghiệp tư nhân tư nhân quan hệ với những đối tác nào ,quan hệ ra sao nếu như những quan hệ ấy vẫn không nằm ngoài những gì pháp luật cho phép. Doanh nghiệp tư nhân có quyền chọn lựa hình thức và cách thức huy động vốn Yếu tố đóng một vai trò rất quan trọng đối với hoạt động kinh doanh, ngay cả đối với những loại hình doanh nghiệp một chủ vốn cũng là một thứ không thể thiếu tình trạng thiếu thốn vốn chính là đặc điểm thường thấy của doanh nghiệp tư nhân vì vốn của doanh nghiệp có nguồn từ tài sản của một cá nhân duy nhất. Luật doanh nghiệp năm 2005 cho phép doanh nghiệp tư nhân lựa chọn những hình thức, cách thức động vốn linh hoạt và quyền này do chủ doanh nghiệp thực hiện. Doanh nghiệp tư nhân có quyền kinh doanh xuất khẩu và nhập khẩu Luật doanh nghiệp năm 2005 đã quy định cho doanh nghiệp nói chung quyền kinh doanh xuất khẩu và nhập khẩu như một quyền đương nhiên của một doanh nghiệp chứ không phải quyền riêng cảu các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu trước đây, doanh ngiệp được tự mình quyết định các phương án xuất nhập hàng hóa, dịch vụ của mình mà không cần bất cứ một loại giấy phép xuất khẩu nào. Như vậy với tư cách là một doanh nghiệp hoạt động theo Luật doanh nghiệp, doanh nghiệp tư nhân cũng đương nhiên có quyền này. Trong bối cảnh chung đó, doanh nghiệp tư nhân khi có trong tay quyền kinh doanh xuất nhập khẩu cũng hoàn toàn có thể sử dụng quyền này như một công cụ để cạnh với các loại hình doanh nghiệp tư nhân khác trên thị trường. Xét ở một khía cạnh nào đó, khi pháp luật càng mở rộng quyền của doanh nghiệp thì doanh nghiệp phats huy được sự sáng tạo khi thực hiện những quyền của mình thì doanh nghiệp đó có lợi thế cạnh tranh nhất, đối với doanh nghiệp tư nhân luôn đòi hỏi chủ doanh nghiệp phats huy sáng tạo tối đa trong hoạt động kinh doanh. Doanh nghiệp tư nhân có quyền tuyển .thuê và sử dụng lao động theo yêu cầu kinh doanh, tự chủ kinh doanh, chủ đông áp dụng phương thức quản lý khoa học hiện đại để nâng cao hiệu quả và khả năng cạnh tranh. Đây là nhóm quyền tiếp theo của doanh nghiệp tư nhân thể hiện rõ hơn nữa quyền tự do kinh doanh, tự quyết mọi vấn đề phục vụ cho hoạt động kinh doanh. Doanh nghiệp tư nhân có quyền từ chối và tố cáo mọi yêu cầu cung cấp các nguồn lực không được pháp luật quy định bất kì cá nhân ,cơ quan hay tổ chức nào trừ những khoảng tự nguyện đóng góp vì mục đích nhân đại và công ích; ngoài ra, còn có quyền khuyến nại ,tố cáo và trực tiếp hoặc thông qua người đại diện để tham gia tố tụng theo quy định của pháp luật. Luật doanh nghiệp năm 2005 đã thể hiện sự đổi mwois thông qua việc nâng cao và tính tự chủ của các doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp tư nhân nói riêng trong quá trình hoạt động kinh doanh trách được các tác động không có lợi từ bên ngoài. Luật doanh nghiệp năm 2005 đã thể hiện sự dổi mới thông qua việc nâng cao tính tự chủ của doanh nghiệp tư nhân trong việc tự mình hạn chế sự can thiệp quan lieu, tiêu cực tói chính hoạt động của doanh nghiệp, hạn chế đến mức tối đa sự “ sách nhiễu” của các cơ quan chức năng , những người có thế lực đồi với haotj động kinh doanh của doanh nghiệp. Như vậy, về cơ bản , doanh nghiệp tư nhân có tát cả các quyền của một doanh nghiệp, ngoài ra ,nó còn có những quyền đặc thù góp phần làm cho doanh nghiệp tư nhân trở nên một loại hình doanh nghiệp tư nhân đặc biệt . Những quyền đặc thù này được pháp luật quy định trực tiếp cho chủ doanh nghiệp tư nhân bao gồm : Thứ nhất quyền cho thuê doanh nghiệp tư nhân Điều 144 luật doanh nghiệp năm 2005 quy định về quyền cho thuê toàn bộ của chủ doanh nghiệp tư nhân. Cho thuê doanh nghiệp được hiểu là chủ doanh nghiệp tư nhân chuyển quyền sử dụng doanh nghiệp do mình đăng kí kinh doanh cho người khác sử dụng trong một thời gian nhất định. Việc cho thuê toàn bộ doanh nghiệp khác với việc cho thuê một vài tài sản của doanh nghiệp ( như trụ sở doanh nghiệp, cơ sở vật chất của doanh nghiệp ). Trong quan hệ thuê doanh nghiệp, người đi thuê không chỉ được sử dung jtaif sản hữu hình của doanh nghiệp maf còn có thể sử dụng tài sản vô hình khác như tên doanh nghiệp, thương hiệu (nếu có) ,uy tín trên thị trường hoặc hệ thống khách hàng của doanh nghiệp . Tuy nhiên, việc người sử dụng những tài sản trên như thế nào phụ thuộc vào những thỏa thuận thuê giữa chủ doanh nghiệp tư nhân và người thuê. Việc cho thuê doanh nghiệp không làm chấm dứt tư cách pháp lú của doanh nghiệp đó, cũng không làm thay đổi chủ sỡ hữu doanh nghiệp, chính vì thế , pháp luật yêu cầu trong thời gian cho thuê chủ doanh nghiệp tư nhân đã đăng kí vẫn phải chịu trách nhiệm trực tiếp trước pháp luật và các bên thứ ba đối với hoạt đông với tư cách chủ sỡ hữu duy nhất trên doanh nghiệp. Mối quan hệ giữa chủ doanh nghiệp tư nhân và người thuê doanh nghiệp tư nhân là mối quan hệ thiết lập trên cơ sở hợp đồng cho thuê. Trong trường hợp này phân chia quyền và nghĩa vụ của người cho thuê và người thuê, thỏa thuận phân chia này sẽ xác định giới hạn trách nhiệm của các bên đối với những rủi ro trong quá trình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp tư nhân cho thuê. Thứ hai quyền bán doanh nghiệp tư nhân Điều 145, Luật doing nghiệp năm 2005 cho phép chủ doanh nghiệp tư nhân có quyền bán doanh nghiệp của mình cho người khác. Việc bán toàn bộ doanh nghiệp tư nhân được hiểu là việc chuyển giao quyền sở hữu của doanh nghiệp cho người khác cũng giống như bán doanh nghiệp cũng bao gồm việc bán cấp tài sản và các giá trị khác của doanh nghiệp tư nhân (không giới hạn với những giá trị hữu hình.) Tuy nhiên, bán doanh nghiệp tư nhân không có nghĩa là sau khi hoàn tất thủ tục mua bán, bên mua có thể sử dụng tư cách pháp lý của doanh nghiệp tư nhân đã mua để tiến hành các hoạt động kinh doanh . Bên mua phải đăng kí kinh doanh lại để hoạt động kinh doanh trên cơ sở doanh nghiệp tư nhân đã mua pháp luật không quy định các điều kiện của người mua doing nghiệp tư nhân , điều này sẽ dẫn đến hậu quả sẽ có những người có khả năng về tài chính mua doanh nghiệp nhưng lại không có đủ điều kiện theo quy định(nằm trong những trường hợp cấm thành lập, quản lý doanh nghiệp quy định tại điều 13 luật doanh nghiệp 2005), như vậy người mua không nhất thiết phải thực hiện mục đích kinh doanh tại cơ sở doanh nghiệp tư nhân sẵn có. Điều này cũng đồng nghĩa với việc hiểu bán doanh nghiệp tư nhân tư nhân thực chất chỉ là chuyển nhượng tài sản của doanh nghiệp mà không chuyển nhượng tư cách pháp lý. Pháp luật yêu cầu chủ doanh nghiệp tư nhân phải thông báo cho cơ quan đăng kí kinh doanh trước ít nhất 15 ngày trước ngày chuyển giao người khác. Kể từ ngày bán doanh nghiệp tư nhân coi như doanh nghiệp nay chấm dứt tồn tại mặc dù sau đó người mua có vẫn có thể đăng kí kinh doanh lại với tên doanh nghiệp va toàn bộ cơ sở vật chất đã có của doanh nghiệp tư nhân cũ. Tuy nhiên, sự chấm dứt thông qua một hợp đồng làm phát sinh một số nghĩa vụ đối với doanh nghiệp tư nhân. Chủ doanh nghiệp ban doanh nghiệp cho người khác nhưng về nguyên tắc chủ doanh nghiệp pahir chịu tất cả khoảng tài sản khách mà doanh nghiệp chua thực hiện. Người bán doanh nghiệp co thể thỏa thuận để người mua chịu nốt phần trách nhiệm đối với các khoảng nợ cũ của doanh nghiệp nhung người chịu trách nhiệm trực tiếp trước pháp luật và bên thứ ba vẫn là chủ doanh nghiệp tư nhân cũ. Đối với người mua doanh nghiệp tư nhân , nếu sau khi mua người mua đã tiến hành đăng kí kinh doanh lại cho doanh nghiệp tư nhân với tư cách chủ doanh nghiệp la chính mình thì doanh nghiệp nay ,về mặt pháp lý, không còn là doanh nghiệp tư nhân trước khi bán nữa mặc dù có thể doanh nghiệp nay lấy tên và trụ sở cũng như toàn bộ cơ sở vật chất của doanh nghiệp tư nhân cũ. Thứ ba quyền tạm ngừng hoạt động kinh doanh. Theo điêu 156 luật doanh nghiệp 2005, chủ doanh nghiệp tư nhân có quyền tạm ngừng hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp . Lý do tạm ngừng hoạt động phụ thuộc chủ doanh nghiệp tư nhân pháp luật không trường hợp tạm ngừng. Tuy nhiên, việc tạm ngừng hoạt động kinh doanh không có nghĩa là chủ doanh nghiệp tư nhân được hoãn lại các nghĩa vụ phải thực hiện với Nhà nước như nộp thuế với các bên thứ ba. Pháp luật cho phép chủ doanh nghiệp tư nhân tạm ngừng hoạt động kinh doanh của mình và việc này được coi là hợp pháp nếu chủ doanh nghiệp tư nhân báo cáo với cơ quan đăng kí kinh doanh và cơ quan thuế bằng văn bản về việc tạm ngừng hoạt động kinh doanh 15 ngày trước khi tạm ngừng kinh doanh. 2.3.2/ Nghĩa vụ của doanh nghiệp tư nhân Cũng giống như khi nghiên cứu về quyền của doanh nghiệp tư nhân nghĩa vụ của doanh nghiệp tư nhân là nghĩa vụ của tất cả các loại hình doanh nghiệp hoat động theo luật doanh nghiệp 2005. Theo điều 9 luật doanh nghiệp 2005 doanh nghiệp tư nhân nói chung và doanh nghiệp tư nhân nói riêng có ít nhất 7 nghĩa vụ cụ thể và các nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật. Nói về nghĩa vụ của doanh nghiệp , ngay từ Luật công ty và Luật doanh nghiệp tư nhân đã hình thành một hệ thống các nghĩa vụ thống nhất , trong đó doanh nghiệp truoc hết phải đảm bảo việc kinh doanh đúng ngành nghề đã ghi trong giấy phép ; đảm bảm chất lượng hàng hóa theo tiêu chuẩn đã đăng kí; đảm bảo các nghĩa vụ thuế, các nghĩa vụ khác vói nhà nước; ghi chép sổ sách kế hoạch ,quyết toán theo quy định. Ngoài ra, các doanh nghiệp tư nhân còn ưu tiên sử dụng lao động trong nước, tôn trọng các quyền được pháp luật trao cho người lao động. Luật doanh nghiệp 2005 khi quyết định các nghãi vụ cho doanh nghiệp vaaxn dựa trên hệ thống đồng thời quy định những điểm mới, những điểm khác biệt với quy mô cũ. Ngoài những nghĩa vụ cơ bản trên, Luật doanh nghiệp 2005 còn quy định cho các doanh nghiệp trong đó có doanh nghiệp tư nhân kê khai và định kì báo cáo chính xác đầy đủ các thông tin về doanh nghiệp va tình hình tài chính của doanh nghiệp voi cơ quan đăng kí kinh doanh; khi phát hiện các thông tin đã kê khai hoặc báo cáo mà không chính xác không đầy đủ hoặc giả mạo thì phài kịp thời hiệu đính các thông tin đó với cơ quan đăng kí kinh doanh. Quy định này về bản chất khác hẳn bởi quy định yêu cầu các doanh nghiệp pahi chịu sự kiểm tra của cơ quan tài chính trong luật công ty năm 1990. Chỉ chịu kiểm tra của cơ quan tài chính là một nghã vụ thụ động của doanh nghiệp, buộc doanh nghiệp baats cứ lúc nào được yêu cầu kiểm tra và phải đáp ứng, còn quy định buộc doanh nghiệp tư nhân tình hình tài chính với cơ quan có thẩm quyền bằng cách kê khai và báo cáo một cách thực các sự kiện tài chính của doanh nghiệp minh lại là nghĩa tự vận động của doanh nghiệp, làm đúng sẽ không bị bó buộc vào bất cứ yêu cầu của bất cứ cá nhân hay tổ chức nào. Luật doanh nghiệp 2005 vẫn giữ nguyên các quy định về nghĩa vụ của doanh nghiệp 1999. Nằm trong hệ thống các doanh nghiệp thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật doanh nghiệp, doanh nghiệp tư nhân đương nhiên cũng phải tuyệt đối tuân thủ nghĩa vụ nói trên. Kết luận Hòa vào dòng chảy của nền kinh tế thế giới và toàn cầu hóa khu vực. Nước ta từ Quốc hội VI, năm 1986 đã quyết định chuyển đổi nền kinh tế nước ta sang nền kinh tế thị trường nhiều thành phần, thay cho cơ chế kế hoạch hóa tập trung vốn đã lạc hậu với các nước trên thế giới. Với việc Việt Nam gia nhập các tổ chức kinh tế, xã hội trên thế giới ngày càng nhiều. Đó là một thử thách lớn cho nền kinh tế thị trường non trẻ như nước ta. Việc phát triển loại hình doanh nghiệp tư nhân là một vấn đề thiết yếu để thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Bên cạnh đó là việc xây dựng hành lang pháp lý để điều chỉnh và quản lý các nhân tố trong nền kinh tế trong nền kinh tế thị trường trong đó có doanh nghiệp tư nhân. Ở nước ta hiện nay có nhiều bộ luật trong hệ thống luật kinh tế như: Luật doanh nghiệp 2005, Luật thương mại 2005, Luật đầu tư 2005,… Các bộ luật hiện hành đã có những quy định rõ ràng, chặt chẽ về hình thức doanh nghiệp tư nhân. Từ đó tạo ra một sự thông thoáng trong việc phát triển doanh nghiệp tư nhân. Về cơ bản, doanh nghiệp tư nhân có tất cả các quyền cơ bản của một doanh nghiệp, ngoài ra nó còn có những đặc thù góp phần làm cho doanh nghiệp tư nhân trở thành một loại hình doanh nghiệp đặc biệt. Luật doanh nghiệp cũng có những điều chỉnh các quan hệ kinh doanh, bảo vệ lợi ích của doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp tư nhân hoạt động kinh doanh tốt hơn, góp phần vào sự phát triển của nền kinh tế đất nước. Tài liệu tham khảo I. Tài liệu. Giáo trình Luật kinh doanh – Trường ĐHCN TP.HCM – 2010. Luật doanh nghiệp tư nhân – 29/11/2005(1/7/2006). Luật Thương mại – 14/6/2005(1/1/2006). Luật Dân sự - 14/6/2005(1/1/2006). Thạc sĩ, Luật sư Phan Thông Anh (2006) , “So sánh luật Doanh nghiệp năm 1999 và Luật Doanh nghiệp năm 2000”, Nhà xuất bản Tư pháp. Thạc sĩ Hoàng Anh Thuyên, “Hỏi đáp Luật Doanh nghiệp 2005”, Nhà xuất bản Lao động – xã hội. II. Các trang web tham khảo. NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docbai_tieu_luan_7178.doc
Tài liệu liên quan