Rõ ràng, nợ công đang trở thành một vấn nạn không chỉ đối với EU mà còn đối với nhiều nước trên thế giới. Khi khủng hoảng nợ dâng cao sẽ đẩy nhiều quốc gia EU đến những biến động chính trị - xã hội hết sức nóng bỏng.
Thông qua những vấn đề về nợ công hiện nay đã đề cập ở trên, có thể rút ra một số điều sau đây :
Thứ nhất, nợ công không chỉ là vấn đề của những nước chậm hoặc đang phát triển. So khoản nợ công với GDP, hiện nay, gánh trên vai gánh nặng nợ công lớn nhất là các nền kinh tế phát triển, trong đó, khu vực đồng ơ-rô đang đứng trước những thử thách to lớn khi Hy Lạp phải viện đến gói cứu trợ của EU và IMF để tránh rơi vào tình trạng vỡ nợ.
Thứ hai, khi nợ công quá lớn, việc thắt chặt chi tiêu, thực hiện chính sách “thắt lưng buộc bụng” để giảm thâm hụt ngân sách là điều kiện phải đáp ứng để được nhận sự hỗ trợ cần thiết từ các tổ chức tín dụng quốc tế, thế nhưng, “thắt lưng buộc bụng” lại dẫn tới những cuộc biểu tình phản đối của quần chúng, gây căng thẳng, bất ổn chính trị, xã hội, bởi những người nghèo, những người yếu thế trong xã hội là những người bị tác động mạnh nhất từ chính sách cắt giảm phúc lợi, cắt giảm chi tiêu của chính phủ.
Thứ ba, trong thời điểm hiện nay, khi nền kinh tế toàn cầu mới thoát khỏi khủng hoảng, bắt đầu có dấu hiệu phục hồi do kết quả của các gói kích thích kinh tế mà chính phủ các nước đã chi ra trong những năm trước đây, thì việc cắt giảm chi tiêu, tăng thuế sẽ làm giảm đầu tư, kìm hãm sự phục hồi của nền kinh tế, làm chậm tốc độ tăng trưởng, thậm chí có thể đẩy nền kinh tế vào “khủng hoảng kép”. Nghiêm trọng hơn, việc tung ra các gói kích thích kinh tế chính là một trong những nguyên nhân làm tăng nợ công của các chính phủ, vậy nếu như khủng hoảng “tái xuất” thì liệu các chính phủ có còn đủ khả năng xoay xở, cứu vãn nền kinh tế của mình? Vấn đề đặt ra cho các chính phủ là phải chèo lái để giải quyết được thâm hụt ngân sách nhưng không đẩy nền kinh tế trở lại tình trạng suy thoái, trong khi các biện pháp để giải quyết hai vấn đề này lại có tác động không thuận chiều.
12 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1840 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận EU với cuộc khủng hoảng nợ công hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CUỘC KHỦNG HOẢNG NỢ CÔNG HIỆN NAY Ở CHÂU ÂU
DẪN NHẬP
Có thể nói hầu hết các quốc gia đều có nợ công, dù ít hay nhiều, tạm thời hay mãn tính. Nợ công đóng một vai trò quan trọng trong sự phát triển nhưng sẽ trở thành quốc nạn khi bắt đầu gây tổn hại đến nền kinh tế. Nó có thể dẫn đến lạm phát, làm cho quốc gia mất khả năng thanh toán và các nhà đầu tư mất niềm tin…Hơn bao giờ hết, trong giai đoạn hậu khủng hoảng tài chính 2007 – 2008, nợ công đang là vấn đề nóng bỏng của nhiều nước. Không chỉ các nước nghèo, đang phát triển mà ngay cả Mỹ và một số nước đã phát triển trong Cộng đồng chung châu Âu cũng gặp phải vấn đề này. Nhận thức được đây là một đề tài lớn, rộng và mang tính kỹ thuật, từ những tư liệu tham khảo và sưu tầm trên các tạp chí và mạng internet, tôi chọn đề tài “EU VỚI CUỘC KHỦNG HOẢNG NỢ CÔNG HIỆN NAY”.
Trong bài viết này, phạm vi được xác định là nợ công ở châu Âu mà cụ thể là Liên minh châu Âu (EU), thời gian là chủ yếu từ năm 2009 – nay. Bài viết làm rõ các vấn đề sau: Nợ công và bản chất của nợ công; nguyên nhân và diễn biến của nợ công; những tác động, ảnh hưởng của nợ công đối với châu Âu và thế giới; Các biện pháp tháo gỡ đối với nợ công… và những đánh giá về nợ công hiện nay của EU.
Với nguồn tư liệu hạn chế và đây là vấn đề phức tạp, bài viết chắc chắn có nhiều thiếu xót, cũng như còn nhiều vấn đề cần phải nghiên cứu thêm. Kính mong đến sự nghiên cứu và đóng góp của Thầy.
NỘI DUNG
LIÊN MINH CHÂU ÂU VỚI CUỘC KHỦNG HOẢNG NỢ CÔNG HIỆN NAY
I. Khái niệm và bản chất của nợ công.
Nợ công là hậu quả của vấn đề chi tiêu công bất hợp lý. Chi tiêu công chính là các khoản chi của nhà nước (trung ương và chính quyền địa phương) thực hiện thông qua ngân sách Nhà nước. Chi tiêu công bao gồm các khoản chi để duy trì bộ máy nhà nước, chi đầu tư phát triển, chi các mục tiêu văn hóa-xã hội, chi quốc phòng, chi trả nợ nước ngoài và dự phòng. Mỗi quốc gia đều phải cân đối mức thu chi. Khi thu không đủ chi, nhà nước phải đi vay dẫn đến hình thành nợ công.
Nợ công (nợ chính phủ hoặc nợ quốc gia) là tổng giá trị các khoản tiền mà chính phủ thuộc mọi cấp từ trung ương đến địa phương đi vay nhằm tài trợ cho các khoản thâm hụt ngân sách.
Nợ công bao gồm:
1) Nợ trong nước (các khoản vay từ người cho vay trong nước);
2) Nợ nước ngoài (các khoản vay từ người cho vay ngoài nước);
3) Nợ ngắn hạn (từ 1 năm trở xuống), nợ trung hạn (từ trên 1 năm đến 10 năm) và nợ dài hạn (trên 10 năm).
Khi nợ trong nước lớn thì chính phủ buộc phải tăng thuế để trả lãi nợ vay. Thuế làm méo mó nền kinh tế, gây ra tổn thất vô ích về phúc lợi xã hội. Nợ nước ngoài lớn thì chính phủ buộc phải tăng cường xuất khẩu để trả nợ nước ngoài và do đó khả năng tiêu dùng giảm sút.
Khi xem xét bản chất của vấn đề nợ công, nếu chỉ xét tỷ lệ nợ công /GDP thì chưa đủ bởi tỷ lệ nợ công/GDP chỉ phản ảnh một phần nào đó về mức độ an toàn hay rủi ro của nợ công. Nếu xem xét tỷ lệ đó mà khẳng định nợ công an toàn thì chưa có cơ sở. Nợ công khoảng 100%GDP đủ để một nước như Hy Lạp rơi vào tình trạng phá sản, trong khi đó nợ công lên tới hơn 200% như Nhật Bản vẫn được coi là an toàn bởi vì nợ công của Nhật Bản chủ yếu là nợ vay trong nước .
Vì vậy, khi xét đến nợ công, điều cốt lõi không chỉ cần quan tâm tới tổng nợ, nợ hàng năm phải trả mà phải quan tâm tới rủi ro và cơ cấu nợ. Nghĩa là phải tính tới khả năng trả nợ và rủi ro trong tương lai, chứ không chỉ là con số tổng nợ trên GDP. Mức độ an toàn hay nguy hiểm của nợ công không chỉ phụ thuộc vào tỷ lệ nợ/GDP mà quan trọng hơn, phụ thuộc vào tình trạng phát triển của nền kinh tế.
II. Nguyên nhân dẫn đến nợ công
Theo qui định của Khối sử dụng đồng tiền chung Châu Âu, tỷ lệ nợ công tối đa đối với một quốc gia thành viên là 60% GDP, thâm hụt ngân sách hàng năm không được vượt quá 3% GDP. Tuy nhiên, trên thực tế, hầu hết các quốc gia thuộc khu vực đồng tiền Euro không đáp ứng đầy đủ những tiêu chí đề ra. Năm 2009, Hy Lạp có số nợ lên tới 115,1% GDP và thâm hụt ngân sách ở mức 13,6% GDP. Tình trạng thu không đủ chi cũng diễn biến tại Tây Ban Nha với mức thâm hụt tương đương 11,2% GDP. Trong khi đó, nếu so sánh riêng về tỷ lệ nợ quốc gia với tổng thu nhập, Italia thậm chí bi quan hơn cả Hy Lạp.
So sánh rủi ro nợ công các nước
Quốc gia
Thâm hụt ngân sách 2010 (%GDP) Nợ GDP 2010 Nợ
nước ngoài
(% tổng nợ) Nợ
ngắn hạn
(% GDP) Tài khoản vãng lai 2010 (% GDP)
Hy Lạp -12.2 124.9 77.5 20.8 -10.0
Bồ Đào Nha -8.0 84.6 73.8 22.8 -9.9
Ireland -14.7 82.6 57.2 47.3 -1.7
Italy -5.3 116.7 49.0 5.7 -2.5
Tây Ban Nha -10.1 66.3 37.0 5.8 -6.0
Anh -12.9 80.3 22.1 3.3 -2.0
Mỹ -12.5 93.6 26.4 8.3 -2.6
Nguồn: European Commission, World Bank IMF
II.1. Nguyên nhân bên trong
Cuộc khủng hoảng bắt nguồn từ Hy Lạp: Chính phủ Hy Lạp phạm sai lầm trong quản lý và không trung thực khi thông báo số liệu kinh tế trong nhiều năm. Chính sự mất niềm tin làm cho Hy Lạp giải quyết khủng hoảng càng khó khăn. Bất kỳ quyết định nào của chính phủ Hy lạp về giải quyết vấn đề ngân sách đều bị hoài nghi, do đó càng khó cho giải quyết khủng hoảng. ngoài việc vốn đầu tư chạy khỏi Hy Lạp, khoảng 30% hoạt động của nền kinh tế nước này có gian lận, 90% những người có thu nhập cao khai thu nhậm dưới 30.000 Euro/năm nhằm tránh nộp thuế. Cả nước Hy Lạp chỉ có 15.000 người khai thu nhập trên 100.000 Euro/năm. Bộ trưởng tài chính Hy Lạp Papaconstantinou cho biết không ai có thể tin ở Hy Lạp chỉ có 15 000 người có thu nhập trên 100 000 Euro/năm. Bên cạnh đó, chính phủ Hy Lạp coi lĩnh vực công là nhân tố bảo hộ chứ không phải là động lực của nền kinh tế. một vấn đề liên quan đến tài chính khác của Hy Lạp là việc Nhà thờ, một trong những chủ sở hữu quỹ đất lớn nhất quốc gia này, lại không phải trả một đồng thuế nào. Mặc dù các nhà dân chủ xã hội đã yêu cầu Nhà thờ phải trả thuế như mọi người khác, nhưng cho đến nay chưa thấy có biện pháp nào được đưa ra áp dụng.
Các chính phủ thu không đủ chi: các nhà phân tích kinh tế đều cho rằng, khủng hoảng nợ công ở châu Âu là do chi tiêu của các chính phủ quá lớn,thậm chí còn cho rằng, những chính phủ đó không có trách nhiệm khi quyết định chi tiêu quá lớn so với nền kinh tế và tăng trưởng kinh tế của chính nước mình. Việc chi tiêu quá lớn đã tạo ra thâm hụt ngân sách và khủng hoảng nợ công(lương cao cho các nhà chính trị, công chức, hệ thống an sinh xã hội và lao động, chế độ nghỉ hưu sớm).
Vấn đề tỗ chức tài chính và điều hành kinh tế của EU: Do vấn đề về cơ cấu nên EU có hạn chế về điều hành nền kinh tế của Khối, các chính sách tiền tệ không đi cùng với cải cách thu thuế và lao động. EU và Ngân hàng Trung ương Châu Âu(ECB) cũng phản ứng chậm với các nền kinh tế khi gặp khủng hoảng. Bên cạnh đó, nhà kinh tế học Joseph Stiglitz, người đoạt giải thưởng Nobel kinh tế năm 2001 cho rằng, các biện pháp của các chính phủ hiện nay tập trung vào giảm thâm hụt ngân sách nên có thể đây cũng là nguyên nhân làm gia tăng rủi ro.
Áp lực của các nhóm tài phiệt: các nhà đầu cơ, các tổ chức tài chính lớn và các trung tâm quyền lực kinh tế kinh tế đã thuyết phục được các chính phủ chỉ điều chỉnh thể chế chứ không áp dụng các biện pháp cải cách các thể chế. Chính phủ các nước phải tốn nhiều tỷ Euro hỗ trợ các ngân hàng và cho các chương trình hỗ trợ hoạt động kinh tế nhằm cứu ngân hàng và nền kinh tế không bị đổ vỡ. điều này không tránh khỏi việc nợ công gia tăng. Trong khi đó, các ngân hàng tư nhân nhận tiền với lãi suất thấm, khoảng 1%, từ các ngân hàng trung ương với mục đính cung cấp tài chính cho các doanh nghiệp và tư nhân phát triển sản xuất nhưng lại dùng tiền đó để mua nợ của các chính phủ với lãi suất 4% hoặc 5%.
Vấn đề chính sách kinh tế tự do mới: Nhiều nhà nghiên cứu kinh tế cho rằng cuộc khủng khoảng hiện nay là do chính sách kinh tế tự do gây ra. Do vậy, các quốc gia muốn thoát khỏi cần phải từ bỏ chính sách kinh tế tự do mới và chuyển sang chính sách kinh tế của Keynes, chính sách kích cầu.
II.2. Nguyên nhân bên ngoài
Chiến dịch tấn công làm suy yếu đồng Euro: Ngay từ tháng 02/2010, Bộ trưởng xây dựng Tây Ban Nha José Blanco cho rằng có một chiến dịch tấn công đồng Euro trên các thị trường thế giới mà mục tiên nhằm vào Tây Ban Nha. Giới đầu cơ đang thực hiện các chiến dịch nhằm hạ thấp đồng Euro và kiếm lời. Họ chủ yếu đầu cơ trong ngắn hạn. Cũng có một số nhà kinh tế cho rằng cuộc khủng hoảng này do Anh và Mỹ tạo ra để nhằm hạ đồng Euro. Bởi theo họ, Anh luôi khó chịu với đồng Euro, còn Mỹ thì cảm thấy bị đồng Euro đe doạ, việc tấn công đồng Euro cũng để chuyển hướng dư luận về sự yếu kém của đồng đô la Mỹ và đồng Bảng Anh.
Các cơ quan đánh giá rủi ro trái phiếu vào thị trường tài chính: thị trường tài chính đóng vai trò gây bất ổn tình hình kinh tế vừa qua. Chỉ một năm trước đây, lãi suất dài hạn của các trái phiếu thấp ở mức kỷ lục tại thời điểm các chgính phủ phát hành trái phiếu mới, nhưng chỉ trong vài tuần, thị trường trái phiếu đã thay đổi mạnh. Bắt đầu từ cuộc khủng hoảng nợ ở Dubai, các cơ quan đánh giá rủi ro phát hiện có một cuộc khủng hoảng và hạ thấp trái phiếu của Dubai, thị trười tài chính Dubai chao đảo và giới tài phiệt đầu cơ được thu lời. Tiếp đó, các cơ quan đánh giá rủi ro tiếp tục đi tìm các khoản nợ chủ quyền khác và họ đã nhắm tới các nước Nam Âu, đầu tiên là Hy Lạp với nền kinh tế yếu, nợ công cao. Các cơ quan này mở rộng các hoạt động gâybất ổn trên thị trường tài chính. Các cơ quan đánh giá Standard & Poor’s và Fitch bắt đầu đánh giá nợ của Hy Lạp, hạ thấp trái phiếu của nước này thành trái phiếu rác. Kể từ đó, lãi suất trái phiếu của chính phủ Hy Lạp không ngừng tăng, thị trường chứng khoán Hy Lạp liên tục giảm. Cuối tháng 4/2010, Moody’s cảnh báo nợ công của Hy Lạp, hạ tiếp trái phiếu chính phủ Hy Lạp. Các trái phiếu 10 năm lãi suất tăng lên 8.74% và trái phiếu 2 năm lãi suất tăng lên 10%. Sau đó Standard % Poor’s tiếp tục hạ trái phiếu chính phủ làm tăng lãi suất trái phiếu 10 năm lên 10% vào cuối tháng 4/2010. Joseph Stiglitz cũng cho rằng, các cơ quan đánh giá rủi ro như Standard & Poors (S&P), Moody’s và Fitch là nhân tố góp phần vào sự bất ổn của các thị trường, đẩy các nước vào khủng hoảng.
Hoạt động đầu cơ tài chính: HIện tại Hy Lạp, Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha đang phải đối mặt với hoạt động đầu cơ tài chính rất cao. Những nạn nhân tiếp theo có thể sẽ là Aixơlen và Italia. Mục đính của đầu cơ là làm tăng lãi suất trái Phiếu chính phủ cao nhất có thể để thu lời. Thủ tướng Hy Lạp Papandreu công bố báo cáo cho biết, thâm hụt công của nước này năm 2009 gấp 3 lần so với mức chính phủ đã công bố trước đó và đạt tới 12.7% GDP, nợ công sẽ hơn 120% GDP năm 2010 và 135% GDP năm 2011. Chỉ riêng năm 2009 nợ công của Hy Lạp tăng 80 tỷ Euro, nợ nước ngoài lên 125% GDP.
Khi cho rằng không thể ép kinh tế Hy Lạp hơn nữa, các nhà đầu cơ đã quay sang tập trung chú ý vào Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha. Thực tế, nợ công được thương lượng thông qua các ngân hàng tư nhân và giá do các ngân hàng này ấn định. Các tổ chức tài chính như Alpha Bank, Bank of America-Merrill Lynch, ngân hàng thương mại, ING và société Genérale có nhiều cơ hội đầu cơ. Phát khai hoả đầu tiên cho đầu cơ là việc IMF đưa ra báo cáo ngày 22/4/2010, theo đó nền kinh tế Bồ Đào Nha đang xấu đi. Kinh tế Bồ Đào Nha sẽ tăng trưởng thấp hơn dự báo và sẽ không giảm được thâm hụt: thâm hụt công sẽ là 7,5% GDP, dự báp trước đó là 6,6% thất nghiệp sẽ ở mức từ 10-11%. Hậy quả, các trái phiếu 10 năm của Bồ Đào Nha vược qua ngưỡng 4,77% và hiện Bồ Đào nNha cùng Hy Lạp, Aixơlen là những nước chắn chắn không thực hiện giảm nợ công, mặc dù nợ công của Bồ Đào Nha chỉ là 86% GDP. Hiện tại các luồng thông tin, tin đồn và dư luận cho rằng nền kinh tế Tây Ban Nha là yếu kém và điều này đã làm cho thị trường chứng khoán nước này sụt giảm nghiêm trọng. Sau Hy Lạp, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Italia, Aixơlen, các nhà đầu cơ bắt đầu chĩa mũi nhọn vào Pháp. Việc làm này đã làm cho thị trường ngoại hối giảm mạnh. EURO chỉ còn 1,2 USD
Môi trường quốc tế không thuận lợi Mỹ đe doạ đưa ra các số liệu tiêu cực của các doanh nghiệp là cho thị trường chứng khoán Mỹ giảm. Tập đoàn đầu tư và đánh giá. Moody’s “đổ thêm dầu vào lửa” khi cảnh báo tài chính công của Mỹ và Anh đang xấu đi. Khi mối đe doạ khủng khoảng nợ công của Hy Lạp có thể lan sang các quốc gia khác như Tây Ban Nha, Italia và Bồ Đào Nha… để đối phó với khủng khoảng, các nhà đầu tư buộc phải rời khỏi các nước này, làm cho các nước rơi vào cảnh thiếu tiền. Vốn đầu tư bị rút khỏi Hy Lạp không ngừng tăng. Chỉ tính riêng trong tháng 1/2010 đã có 8 đến 10 tỷ Euro bị rút khỏi Hy Lạp, con số này cao hơn số tiền trái phiếu mà chính phủ Hy Lạp đã phát haq2nh lần gần đây nhất.
Tóm lại, cuộc khủng hoảng nợ công của các nước châu Âu bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân, cả bên trong lẫn bên ngoài. Âm mưu và ý đồ của giời tài phiệt tiếp tục gây áp lực lên thị trường tài chính nhằm đầu cơ kiếm lời trong ngắn hạn. Gói cứu trợ 750 tỷ Euro có tác dụng trong ngắn hạn, nhưng về trung hạn, nguy cơ tiềm ẩn vẫn còn cao, vẫn còn có nghi ngờ về các món nợ công và sự bất ổn tài chính. Tình hình này có thể ảnh hưởng đến nền kinh tế châu Âu, nhưng cũng có thể gây ra hiệu ứng đối với cả thế giới.
III. Diễn biến cuộc khủng hoảng nợ công.
Cuộc khủng hoảng nợ công của Hy Lạp đã làm rung động thị trường tài chính châu Âu và toàn cầu. Khủng hoảng nợ công ảnh hưởng đến không chỉ một vài nước trong khu vực châu Âu (Ailen, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha…) mà liên quan đến hầu hết các nền kinh tế thế giới.
Những diễn biến quan trọng trong khủng hoảng nợ châu Âu tính từ tháng 11/2009 khi chính phủ mới của Hy Lạp tuyên bố nâng gấp đôi ước tính về thâm hụt ngân sách năm 2009
- 11/2009. Thủ tướng Hy Lạp cho biết thâm hụt ngân sách năm 2009 sẽ ở mức 12,7% GDP, cao gấp đôi con số công bố trước đó và sẽ cố gắng cứu Hy Lạp khỏi khả năng vỡ nợ.
- 22/12/2009, Moody xếp hạng nợ công Hy Lạp từ A1 xuống mức A2 bởi thâm hụt ngân sách của nước này tăng cao. Đây là cơ quan thứ ba hạ xếp hạng tín dụng của Hy Lạp.
- 14/01/2010, Chính phủ Hy Lạp công bố kế hoạch bình ổn, tuyên bố muốn giảm thâm hụt ngân sách xuống mức 208% GDP vào năm 2012.
- 29/01/2010, Chính phủ Tây Ban Nha công bố kế hoạch tiết kiệm 50 tỷ euro tương tương 70 tỷ USD, trong đó tổng số tiền chi tiêu giảm tương đương 4% GDP. Lương lao động trong lĩnh vực công giảm 4%.
- 11/4/2010, Bổ trưởng tài chính các nước thuộc khu vực đồng tiền chung châu Âu chấp thuận kế hoạch 30 tỷ euro dành cho Hy lạp, tuy nhiên Hy Lạp tuyên bố không cần.
- 23/4/2010, Hy Lạp cầu cứu EU và IMF.
- 02/5/2010, Thủ tướng Hy Lạp cho biết, chính phủ nước này đã đạt được thỏa thuận với EU và IMF để nhận được gói giải cứu, đổi lại nước này phải giảm chi tiêu 30 tỷ euro trong 3 năm tới.
- 9/5/2010, IMF đơn phương chấp thuận trước một phần kế hoạch giải cứu, cung cấp lập tức 5,5 tỷ euro.
- 10/5/2010, các nhà hoạch định chính sách kinh tế toàn cầu đưa ra kế hoạch khẩn cấp trị giá 750 tỷ euro để hỗ trợ thị trường tài chính và vực dậy đồng euro, ngăn đồng tiền này chịu ảnh hưởng tệ hại từ khủng hoảng nợ Hy Lạp. Gói giải cứu bao gồm 440 tỷ euro từ các nước thuộc khu vực đồng tiền chung châu Âu, 60 tỷ euro từ công cụ nợ của châu Âu. IMF đóng góp 250 tỷ euro, tổng số tiền lên đến 750 tỷ euro, tương đương khoảng gần 1.000 tỷ USD tính theo tỷ giá ở thời điểm đó. Gói giải cứu Hy Lạp nhận được bao gồm 110 tỷ euro trong 3 năm. Đây là nước đầu tiên tại khu vực đồng tiền chung châu Âu được hỗ trợ. Chính phủ Đức đồng ý góp 22,4 tỷ euro tương đương 30 tỷ USD cho kế hoạch cứu Hy Lạp.
- 27/5/2010, Quốc hội Tây Ban Nha chấp thuận kế hoạch thắt chặt ngân sách nhằm tiết kiệm 15 tỷ euro tương đương 18,4 tỷ USD.
- 18/5/2010, Chính phủ Đức, trong nỗ lực ngăn hoạt động đầu cơ tài chính được coi như nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng nợ, công bố cấm bản khống vô căn cứ cổ phiếu của 10 tổ chức tài chính lớn nhất tại Đức, trái phiếu chính phủ và hợp đồng hoán đổi vỡ nợ tín dụng (CDS),
- 25/5/2010, Nội các Italia bỏ phiếu thông qua kế hoạch thắt chặt ngân sách, tiết kiệm 24 tỷ euro với mục tiêu đến năm 2012 đưa thâm hụt ngân sách GDP từ mức 5,3% của năm 2009 về mức 2,7% GDP.
- 28/5/2010, Fitch hạ xếp hạng tín dụng của Tây Ban Nha từ AAA xuống AA+ bởi nợ tiêu dùng và doanh nghiệp tại nước này tăng lên mức quá cao, đó là chưa kể đến nợ công đang ở mức đáng báo động.
- 29/5/2010, hàng ngan người biểu tình ở Lisbon- Bồ Đào Nha để phản đối kế hoạch thắt chặt ngân sách của Chính phủ.
- 7/6/2010, Đảng của Thủ tướng Đức chấp thuận kế hoạch thắt chặt ngạn sách và thuế để hoàn thành mục tiêu đưa thâm hụt ngân sa1hc của Đức về mức qui định của liên minh Châu Âu trong khoảng thời gian từ nay đến năm 2013.
- 8/6/2010, Công đoàn Tây Ban Nha công bố 75% người lao động trong lĩnh vực công không đi làm để thể hiện sự phản đối kế hoạch thắt chặt chi tiêu của Chính phủ. Tỷ lệ lạm phát của Hy Lạp tháng 5/2010 tăng 5,4%, vượt mọi kỳ vọng của các chuyên gia và lên mức cao nhất từ tháng 8/1997.
- 9/6/2010, kế hoạch thắt chặt ngân sách được bàn đến trong các cuộc bầu cử và đang có chủ trương này đã chiến thắng. Tuy nhiên, cuối cùng, thật khó để các nhà hoạch định chính sách thống nhất với nhau.
- 10/6/2010, thỏa thuận cải tổ thị trường lao động Tây Ban Nha sụp đổ. Chính phủ buộc phải áp dụng quy định tuyển dụng và sa thải lỏng lẻo hơn dù không có sự hỗ trợ của Nghiệp đoàn Lao động.
IV. Tác động từ cuộc khủng hoảng nợ công.
Cuộc khủng khoảng nợ công của các nước khu vực đồng Euro đã làm đồng Euro mất giá so với đồng nhân dân tệ. Điều này sẽ làm tăng áp lực chi phí cho các nhà sản xuất Trung Quốc, tác động tiêu cực đến xuất khẩu Trung Quốc, hàng hoá xuất sang EU sẽ kém cạnh tranh, ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế của nước này. Bên cạnh đó, trong nhiều năm gần đây, nhằm tránh lệ thuộc quá nhiều vào trái phiếu kho bạc Mỹ. Trung Quốc đã đa dạng hoá nguồn dự trữ ngoại tệ, mở rộng nắm giữ trái phiếu chính phủ của các nước châu Âu. Với cuộc khủng hoảng hiện nay tại châu Âu, Trung Quốc mất khá nhiều tiền trong tổng số giá trị dự trù ngoại hối của mình.
Cuộc khủng hoảng nợ công buộc các chính phủ châu Âu thực hiện chính sách tài chính thắt chặt. Các chính sách này có thể cũng ảnh hưởng đến hàng hoá xuất khẩu của Trung Quốc. Ngày 31/5/2010, Thủ tướng Trung Quốc Ôn Gia Bảo cho rằng cuộc đấu trang ngăn chặn gia tăng nợ chủ quyền tạo ra mối đe doạ đến việc khôi phục tăng trưởng kinh tế toàn cầu. Ông cho biết, vẫn còn quá sớm để rút các gói kích thích kinh tế đã triển khai trong cuộc khủng hoảng 2007-2009.
Mỹ cũng chịu tác động của cuộc khủng hoảng từ châu Âu, đặc biệt là tác động đến khả năng khôi phục kinh tế Mỹ. Trước mắt, khủng hoảng nợ châu Âu làm cho thị trường tài chính Mỹ đi xuống bởi Mỹ là chủ nợ lớn của các nước thuộc khu vực đồng Euro(ước tính hơn 1000 tỷ đôla Mỹ) và nếu đồng euro mất giá so với đồng đôla Mỹ, các hoạt động xuất nhập khẩu của Mỹ bị ảnh hưởng tiêu cực. Bên cạnh đó, lợi nhuận của các công ty Mỹ có thị phần tại châu Âu giảm do thị trường châu Âu đóng góp 20% tổng doanh thu của các công ty sản xuất hàng tiêu dùng của Mỹ. Việc tiếp tục gia tăng bất ổn ở thị trường tài chính và các điều kiện tính dụng thắt chặt ở châu Âu có thể làm giảm ý chí của các công ty cho vay, cho thuê của Mỹ, vì vậy tác động đến khôi phục kinh tế của Mỹ. Tổng thống Mỵ Obama đã kêu gọi lãnh đạo của các nước EU có các biện pháp mạnh nhằm ngăn chặn khủng hoảng nợ công. Ngày 11/5.2010, tổng thống Obama đã điện đàm với thủ tướng của Tây Ban Nha Zapatero về tầm quan trọng của Tây Ban Nha trong việc thực mện các biện pháp mạnh nhằm cuảng cố nền kinh tế Tây Ban Nha cũng như của châu Âu và xây dựng niềm tin đối với thị trường. Bộ trưởng tài chính Mỹ Grithner cho rằng, các biện pháp của châu Âu chưa đúng tầm, cần phải được tăng cường hơn nữa. Cục Dự trữ liên bang Mỹ cũng quyết định hỗ trợ đối với các nền kinh tế châu Âu bằng việc mở lại chương trình cho ECB và các ngân hàng nước ngoài khác vay bằng tiền đôla Mỹ .
Cuộc khủng hoảng nợ châu Âu kéo theo một loạt hệ quả tất yếu: tốc độ phục hồi kinh tế thế giới chậm lại, có thể theo hình chữ W thay vì chữ V; khu vực hâu Âu sẽ phải chậm khiến tình hình thất nghiệp và lạm phát tăng cao, đồng euro mất giá; tăng trưởng GDP giảm sút, làm cho thu nhập thực tế người dân và cầu tiêu dùng với hàng nhập khẩu giảm mạnh.
Do lo ngại tác động tiêu cực từ khủng hoảng nợ công, nhiều ngân hàng trung ương các nước phát triển vẫn duy trì mức lãi suất sàn thấp lịch sử nhằm kích thích phục hồi kinh tế và chấp nhận lạm phát trong chừng mực nhất định. Lãi suất cơ bản tiệm cận 0% ở hầu hết các nước: FED (Mỹ): 0,25%; ECB (EU): 1%; BOE (Anh): 0,5%; Nhật bản 0,1%.
Khủng hoảng nợ công châu Âu có thể tạo ra hai tác động trái chiều hoàn toàn với luồng vốn FDI trên phạm vi toàn cầu. Những quốc gia có trình độ phát triển tương đương với các nước thuộc EU sẽ hưởng lợi do nguồn vốn FDI sẽ dịch chuyển từ các nước châu Âu sang các quốc gia này khi nhà đầu tư muốn tránh thuế thu nhập doanh nghiệp đang có xu hướng tăng cao tại các quốc gia châu Âu.
Các nhà đầu tư trên thể giới đang tìm vàng như một nơi trú ẩn an toàn trước nguy cơ cuộc khủng hoảng châu Âu ngày một lan rộng, làm cho giá vàng trong thời gian qua tăng mạnh, lên mức trên 1.300 USD/ounce. Hiện tượng này phản ánh về nhu cầu dự trữ an toàn hơn so với đồng tiền giấy, sau khi nhiều cá nhân và tổ chức ở châu Âu, châu Á đua nhau mua vàng, bạch kim và bạc.
Vấn đề Hy Lạp đang làm cho các nhà đầu tư trên thế giới càng trở nên thận trọng hơn với các quốc gia có vấn nạn tương tự. Ba số liệu cảnh báo bao gồm: Nợ công nhiều thể hiện ở tỷ lệ nợ trên GDP cao; Chi tiêu quá mức thể hiện ở mức thâm hụt ngân sách lớn so với GDP; và tốc độ tăng trưởng GDP sụt giảm.
Khủng hoảng nợ công ở châu Âu cũng tạo ra những biến động khó lường về tỷ giá. Đồng USD và đặc biệt là đồng Yên sẽ tiếp tục tăng mạnh so với đồng euro do tính an toàn từ phía các đồng tiền này. Từ khi cuộc khủng hoảng có dấu hiệu nghiêm trọng, đồng ERU mất giá tương đối so với USD. Sang tháng 6 tỷ giá USD/EUR chỉ còn 1,19, rất thấp so với mức xấp xỉ 1,4 của đầu tháng ba, do đó sẽ tạo ra những rủi ro nhất định trong việc vay trả ngoại tệ cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu cũng như cho hoạt động ngoại hối của các ngân hàng thương mại .
Hiện nay, để giải quyết khủng hoảng nợ công, các chính phủ đang áp dụng biện pháp thắt chặt tài chính như giảm chi tiêu, tăng tuế, giảm lương và tư nhân hoá. Tuy nhiên, các biện pháp thắt chặt tài chính có thể sẽ làm giảm cầu nội địa, cả trở kích thích kinh tế cần thiết và gây khó khăn cho việc khôi phục kinh tế ở các nước khu vực đồng Euro.
Cuộc khủng hoảng nợ công ở châu Âu ít nhiều cũng tác động đến kinh tế Việt Nam. Do chính sách thắt chặt tài chính của EU nên cầu nội địa EU giảm và điều này sẽ ảnh hưởng đến xuất khẩu của Việt Nam, đặc biệt là các mặt hàng dệt may, thuỷ sản và một số mặt hàng khác đang được sản xuất trong các khu chế xuất và khu công nghiệp Việt Nam có bạn hàng từ các nước sử dụng đồng Euro.
IV. Giải pháp tháo gỡ cho khủng hoảng nợ công.
Mặc dù là một nước nhỏ, song với tư cách là một thành viên của EU đang lâm nguy, và “việc vỡ nợ”, nếu xảy ra, của Hy Lạp sẽ là khởi đầu cho một phản ứng domino tài chính ra toàn EU và thậm chí cả thế giới, giống như vụ Lehman Brothers trước đây, nên EU và các tổ chức tài chính quốc tế khác không thể làm ngơ bỏ mặc Hy Lạp một mình chống chọi với “núi nợ khổng lồ” đang đè nặng lên nền kinh tế ốm yếu của họ. Không những thế, việc cứu trợ Hy Lạp của EU còn là một biểu hiện về tính cố kết của EU mà lâu nay người ta thường cố công ca ngợi và xây đắp, còn nếu không, mọi nỗ lực và thành quả của liên kết EU hàng chục năm nay có thể sẽ bị “trôi xuống song xuống biển”. Nên kiểu gì, EU và sau đó là các tổ chức tài chính quốc tê cũng phải ra tay.
Trước nguy cơ khủng hoảng nợ công ngày càng căng thẳng có thể gây ra hiệu ứng “Domino”, đầu tháng 5/2010, EU và Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) đã nhất trí dành một gói cứu trợ dài hạn trị giá 110 tỷ EUR, tương đương khoảng 136 tỷ USD trong vòng 3 năm, cho Hy Lạp nhằm giúp nước này thoát khỏi bờ vực nợ công .
Đồng thời, ngày 10/5/2010, EU và IMF đã nhất trí thiết lập “Quỹ chống khủng hoảng” trị giá 750 tỷ EUR (1000 tỷ USD). Theo đó, các nước châu Âu đưa ra 572 tỷ USD (440 tỷ EUR) khoản vay mới và bơm thêm 778 tỷ USD (60 tỷ EUR) cho chương trình vay đang thực hiện. IMF cũng sẽ đóng góp 325 tỷ USD (250 tỷ EUR) cho gói cứu trợ . Gói cứu trợ mới này có quy mô còn lớn hơn cả gói cứu trợ ngân hàng của Mỹ hai năm trước đây nhằm củng cố niềm tin của thị trường.
Để đổi lấy gói cứu trợ khẩn cấp, chính quyền Athens đã chấp nhận điều kiện phải cắt giảm chi tiêu, cụ thể lương tháng thứ 13 và 14 cùng các loại tiền thưởng khác của nhân viên nhà nước sẽ bị cắt hoàn toàn trong khi lương sẽ không được tăng trong vòng 3 năm. Lương hưu của cả khu vực công và tư đều bị giảm mạnh, còn thuế giá trị gia tăng sẽ tăng từ 21% - 23%. Chi phí quốc phòng và hệ thống y tế quốc gia cũng sẽ bị cắt. Kế hoạch vô cùng khắc nghiệt này nhằm đưa mức thâm thụt ngân sách của Hy Lạp xuống dưới 3% GPD vào năm 2014 và ngay lập tức đã gây ra làn sóng phản đối .
Tây Ban Nha cũng sẽ thực hiện các biện pháp cắt giảm 6 tỷ euro đầu tư công, cắt giảm 5% lương nhân viên nhà nước, cũng như giảm lương hưu và đầu tư vào các chính quyền vùng để giảm thâm hụt ngân sách khoảng 15 tỷ euro trong giai đoạn 2010 -2011, đưa xuống mức còn 6% GDP vào năm 2011 .
Chính phủ Bồ Đào Nha cũng công bố sẽ cắt giảm 5% tiền lương của công chức và quan chức nhà nước, trong đó có cả các bộ trưởng, tăng 1% nhằm đưa thuế giá trị gia tăng lên 21%. Thủ tướng Bồ Đào Nha Jose Socrates cũng cam kết sẽ giảm thâm hụt ngân sách từ 9,4% năm 2009 xuống còn 4,6% vào cuối năm 2011, trong khi tăng từ 1 – 1,5% mức thuế thu nhập đối với những người có thu nhập cao .
Mới đây, để củng cố hơn nữa hệ thống ngân hàng tài chính và củng cố niềm tin của các nhà đầu tư toàn cầu, EU đã tiến hành kiếm tra “sức khỏe” của 91 ngân hàng trong 20 nước thành viên, kết quả có 7 ngân hàng không đủ tiêu chuẩn là: Hypo Real Estate của Đức, Agricultural Bank of Greece SA của Hy Lạp và 5 ngân hàng khác của Tây Ban Nha. Các ngân hàng này cần tăng vốn thâm 3,5 tỷ EUR, tương đương 4,5 tỷ USD, để duy trì tỷ lệ vốn ở mức 6% .
Về thời hạn kéo dài các giải pháp cứu trợ, kích cầu, quan điểm của Hội đồng châu Âu cho đến thời điểm này là:
+ Rút lui khỏi các gói kích thích ngay khi có sự hồi phục ở các doanh nghiệp, tuy nhiên thời gian sẽ là khác nhau đối với các nước, cần phải có sự phối hợp chặt chẽ ở tầm EU;
+ Hỗ trợ thất nghiệp ngắn hạn chỉ nên thực sự dừng lại khi mà sự đổi chiều trong tăng trường GDP được sự xác lập vì việc làm thường có độ trễ so với tăng trưởng;
+ Các sơ đồ hỗ trợ các lĩnh vực của nền kinh tế thực nên kết thúc sớm hơn vì chúng đòi hỏi chi phí ngân sách lớn và thường có thể có tác động làm biến dạng thị trường thống nhất;
+ Hỗ trợ tiếp cận thị trường vốn nên được duy trì cho tới khi có tín hiệu rõ ràng là các điều kiện tài chính của các doanh nghiệp đã thực sự quay về với trạng thái bình thường;
+ Rút lui sự hỗ trợ lĩnh vực tài chính, khở động sơ đồ bảo lãnh chính phủ sẽ tùy thuộc vào tình hình của nền kinh tế nói chung và vào sự ổn định của hệ thống tài chính.
VI. Tương lai nợ công của EU
Tại Tây Ban Nha, các nghiệp đoàn công nhân lĩnh vực công đang dự định tổ chức thêm nhiều cuộc đình công để phản đối chính sách cắt giảm chi tiêu 5% của Chính phủ. Theo giới phân tích, chính sách cắt giảm chi tiêu hiện nay sẽ dẫn đến nhiều rủi ro. Theo thống kê cua Tạp chí Y khoa Anh (BMJ), ở thồi điểm cuối tháng 6/2010, nếu trung bình cắt giảm trợ cấp xã hội 80 euro/người, tỷ lệ tỷ vong vì bệnh tim tăng 2,8%. Trong khi các nhà chính trị không muốn nhìn tấy hậu quả cua các “liệu pháp sốc”, nhiều nhà khoa học tin rằng những liệu pháp như vậy có lien hệ mật thiết với mức tử vong của đất nước .
“Sức khỏe” của người dân hay “sức khỏe” của quốc gia, khi ma khủng hoảng ngân sách đang trở thành cụm từ đáng sợ nhất đối với các nước đầu tư khu vực Châu Âu. Một loạt quốc gia bao gồm Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Ailen đã thực hiện ngay các biện pháp cắt giảm chi tiêu, huy động ngân sách nhằm tránh sa vào vết xe đổ của Hi Lạp. Hồi tháng 5/2010, Itali đưa ra cam kết cắt giảm thâm hụt ngân sách 24 tỷ euro (tương đương 30 ty USD) từ nay cho đến năm 2012. Ngay cả những người khổng lồ cua khu vực như Đức cũng đã phải run sợ. Hôm 8/6/2010, nước này công bố một loạt chính sách nhằm tiết kiệm khoảng 80 tỷ USD từ nay đến năm 2014. Thủ tướng Đức Angwela Merkel hy vọng hành động này sẽ trở thành một ví dụ cho các thành viên khác của EU tham khỏa. Tương tự, Pháp cũng tuyên bố hành động để giảm thâm hụt như xóa bỏ một số chính sách miễn giảm thuế, ngừng các chương trình chi tiêu tốn kém kể từ năm 2011.
Tuy nhiên, làn song cắt giảm ngân sách lại làm dấy lên nỗi lo mới. Giới đầu tư quan ngại liệu sự cắt giảm quá hà khắc có phải là con dao hai lưỡi, đẩy các nền kinh tế rơi trở lại vùng suy thoái. Phe ủng hộ việc cắt giảm ngân sách trấn an rằng bức tranh thực tế không hẳn sẽ là quá tồi tệ. Ví dụ điển hình là biện pháp giảm thâm hụt khoảng 80 tỷ euro của Đức sẽ được thực hiện trong vòng 4 năm. Theo tính toán thì mục tiêu tiết kiệm ngân sách sẽ sớm đạt được vào năm 2013 hay châm nhất vào cuối năm 2014, trong khi đó ngay từ năm 2011 Đức có thể gặt hái hiệu quả từ việc giảm thâm hụt ngân sách 11,2 tỷ euro, ít hơn 0,5% GDP. Nếu đạt được mục tiêu như dự định, Đức sẽ xua tan được mối nghi ngai mức thâm hụt có thể lên đến 1,5% - 2% GDP trong năm nay.
Đối với các nước nhỏ và có nguy cơ vỡ nợ cao, con đường giải quyết thâm hụt sẽ gian nan hơn, nhất là Hy Lạp, “tâm điểm” của cuộc khủng hoảng nợ công hiện tại khi thâm hụt ngân sách của nước này ở mức 13,6% GDP và nợ công lên tới 115,1% GDP. Tuy nhiên, ngân hang Barclays Capital cũng lưu ý rằng những nền kinh tế này chỉ đóng một vai trò nhỏ trong EU. Chẳng hạn, Hy Lạp chỉ chiếm 2,6% tổng sản phẩm của khu vực đồng tiền chung euro. Do đó, các biện pháp cắt giảm thâm hụt ở Hy Lạp, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha sẽ chỉ ảnh hưởng tương đối nhỏ đối với toàn khu vực.
Tuy nhiên, nhiều người vẫn lo ngại về ảnh hưởng của làn sóng cắt giảm này. Có nhiều chính sách còn kéo dài tới những năm sau, do đó hiệu quả và hậu quả của nó vẫn chưa thế kết luận ngay lập tức. Bên cạnh đó, những người theo lý thuyết của nhà kinh tế học Keynes tin rằng, việc cắt giảm chi tiêu ngân sách tất yếu sẽ làm suy yếu tăng trưởng GDP. Hành động của các nước nhằm giải quyết thâm hụt ngân sách có thể gây lo láng cho người tiêu dung, vì việc tăng thuế để giảm nợ công có thể sẽ làm tổn hại tới tình hình tài chính cá nhân. Nghiên cứu của chuyên gia Christiane Nickel và chuyên gia Isabel Vansteenkiste từ Ngân hàng Trung ương Châu Âu (ECB) cho thấy có sự lien quan giữa thâm hụt ngân sách cao với tăng các khoản tiết kiêm tư nhân.
Nhưng trong một số trường hợp khác , việc giảm chi ngân sách có thể hỗ trợ tăng trưởng, hoặc gây ra ít thiệt hại hơn so với các mô hình của Keynes. Nghiên cứu của chuyên gia Alberto Alesina từ Đại học Harvard và chuyên gia Roberto Perotti từ đại học Bocconi cho thấy việc điều chỉnh ngân sách dựa cắt giảm các khoản chi cho phúc lợo xã hội, cắt giảm tiền công chức sẽ mang lại lợi ích về lâu dài, kéo mức nợ công xuống thấp hơn và kích thích tăng trưởng GDP nhanh hơn so với việc giảm chi ngân sách dựa trên việc tăng thuế và cắt giảm đầu tư công.
Hầu hết các nước châu Âu đều chọn kế hoạch giảm tiền lương khu vực công và phúc lợi, là các hình thức cắt giảm ngân sách ít gây tổn hại cho quá trình phục hồi kinh tế. Việc cắt giảm mạnh tay chi tiêu khu vực công và phụ cấp đã được tiến hành ở Ailen, Tây Ban Nha và Hy Lạp. Italia dự định giảm lương khu vực công trong ba năm. Đức và Hy Lạp sẽ giảm chi lương hưu. Bồ Đào Nha giảm trợ cấp thất nghiệp .
Nhìn chung việc giảm thâm hụt ngân sách bằng bất cứ phương thức nào cũng hiếm khi tạo hiệu ứng tốt cho tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, trong giai đoạn kinh tế suy yếu tai một số nước châu Âu, đặc biệt là Hy Lạp đang đối mặt với nguy cơ vỡ nợ hay Đức là vấn đề thắt chặt chi tiêu tiêu dùng, thì biện pháp giảm lương khu vực công và phúc lợi xã hội có thể sẽ có tác dụng giảm thâm hụt ngân sách, tuy nhiên vẫn khó tránh khỏi rủi ro chi tiêu sụt giảm
KẾT LUẬN
Rõ ràng, nợ công đang trở thành một vấn nạn không chỉ đối với EU mà còn đối với nhiều nước trên thế giới. Khi khủng hoảng nợ dâng cao sẽ đẩy nhiều quốc gia EU đến những biến động chính trị - xã hội hết sức nóng bỏng.
Thông qua những vấn đề về nợ công hiện nay đã đề cập ở trên, có thể rút ra một số điều sau đây :
Thứ nhất, nợ công không chỉ là vấn đề của những nước chậm hoặc đang phát triển. So khoản nợ công với GDP, hiện nay, gánh trên vai gánh nặng nợ công lớn nhất là các nền kinh tế phát triển, trong đó, khu vực đồng ơ-rô đang đứng trước những thử thách to lớn khi Hy Lạp phải viện đến gói cứu trợ của EU và IMF để tránh rơi vào tình trạng vỡ nợ.
Thứ hai, khi nợ công quá lớn, việc thắt chặt chi tiêu, thực hiện chính sách “thắt lưng buộc bụng” để giảm thâm hụt ngân sách là điều kiện phải đáp ứng để được nhận sự hỗ trợ cần thiết từ các tổ chức tín dụng quốc tế, thế nhưng, “thắt lưng buộc bụng” lại dẫn tới những cuộc biểu tình phản đối của quần chúng, gây căng thẳng, bất ổn chính trị, xã hội, bởi những người nghèo, những người yếu thế trong xã hội là những người bị tác động mạnh nhất từ chính sách cắt giảm phúc lợi, cắt giảm chi tiêu của chính phủ.
Thứ ba, trong thời điểm hiện nay, khi nền kinh tế toàn cầu mới thoát khỏi khủng hoảng, bắt đầu có dấu hiệu phục hồi do kết quả của các gói kích thích kinh tế mà chính phủ các nước đã chi ra trong những năm trước đây, thì việc cắt giảm chi tiêu, tăng thuế sẽ làm giảm đầu tư, kìm hãm sự phục hồi của nền kinh tế, làm chậm tốc độ tăng trưởng, thậm chí có thể đẩy nền kinh tế vào “khủng hoảng kép”. Nghiêm trọng hơn, việc tung ra các gói kích thích kinh tế chính là một trong những nguyên nhân làm tăng nợ công của các chính phủ, vậy nếu như khủng hoảng “tái xuất” thì liệu các chính phủ có còn đủ khả năng xoay xở, cứu vãn nền kinh tế của mình? Vấn đề đặt ra cho các chính phủ là phải chèo lái để giải quyết được thâm hụt ngân sách nhưng không đẩy nền kinh tế trở lại tình trạng suy thoái, trong khi các biện pháp để giải quyết hai vấn đề này lại có tác động không thuận chiều.
Thứ tư, khi nợ công liên tục tăng cao, nền kinh tế bị hạ bậc tín nhiệm theo báo cáo của các tổ chức chuyên đi đánh giá tín nhiệm các công ty và quốc gia khác, niềm tin của người dân và giới đầu tư bị lung lay, khi đó nền kinh tế dễ trở thành mục tiêu tấn công của các thế lực đầu cơ quốc tế.
Thứ năm, việc căn cứ vào mức nợ công trên GDP để xác định tình trạng nợ công là hết sức quan trọng, tuy nhiên, điều quan trọng không kém là phân tích “thực chất” nợ công. Đó là: nợ chính phủ là vay nợ trong nước hay vay nợ nước ngoài; tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế, hay tình trạng “sức khỏe” nói chung của nền kinh tế; lượng dự trữ quốc gia…
Như vậy, việc đánh giá đúng nợ công và “thực chất” nợ công của một nền kinh tế, một quốc gia là vô cùng quan trọng, đặc biệt trong những thời điểm nhạy cảm. Bởi lẽ, nếu chỉ chú trọng vào con số tỷ lệ nợ công cao một cách thuần túy sẽ gây nên hiệu ứng tâm lý hoang mang, kích động, thiếu tin tưởng, làm gia tăng căng thẳng xã hội, bị giới đầu cơ lợi dụng tấn công, dễ gây rối loạn nền kinh tế, thậm chí dẫn nền kinh tế đến bên bờ vực phá sản. Ngược lại, nếu yên tâm với tỷ lệ nợ công còn trong giới hạn an toàn, mà không phân tích cẩn trọng, chú ý đúng mức đến khoản nợ đó được hình thành như thế nào, bằng cách nào, thực trạng nền kinh tế ra sao và khả năng trả nợ thế nào…, cũng sẽ dễ đẩy nền kinh tế rơi vào vòng xoáy thâm hụt ngân sách – “thắt lưng buộc bụng” – tác động tiêu cực đến tăng trưởng…
Với các bức tranh nợ công nêu trên, có thể khẳng định mỗi nước dù ở mức độ nào cũng liên quan đến nợ công và nợ công vẫn thực sự cần thiết cho mọi nền kinh tế, cho mọi quốc gia. Điều quan trọng cần bàn đó là qui mô nền kinh tế như thế nào thì có khả năng hấp thụ nguồn tín dụng tương ứng. Hiện tại thế giới chưa có công thức chuẩn xác cho mọi trường hợp nợ công và như vậy nợ công vẫn là câu chuyện dài, vì lẽ đó mỗi quốc gia cần nhận thức và xử lý các vấn đề phát sinh từ nợ công cho phù hợp.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hải Ninh (2010), Hy Lạp – Khủng hoảng tài chính và hướng khắc phục, Tạp chí Nghiên cứu châu Âu, số 3.
2. Hoa Hữu Cường (2010), Khủng hoảng nợ công tai châu Âu, những tác động và bài học đối với nền kinh tế Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu châu Âu, số 8.
3. Nguyễn An Hà (2010), Một số điều chỉnh chính sách sau khủng hoảng của Liên minh châu Âu, Tạp chí Nghiên cứu châu Âu, số 8.
4. Phương Nhung (2010), Bức tranh phúc lợi xã hội ở châu Âu hậu khủng hoảng nợ công, Tạp chí Nghiên cứu châu Âu, số 9.
5. Nguyễn Nhâm (2010), Khủng hoảng nợ công ở châu Âu – phản ứng của các nước lớn, Tạp chí nghiên cứu châu Âu, số 10.
6. Bài phỏng vấn của BTV Nguyễn Hà với TS.Nguyễn An Hà (2010), Khủng hoảng nợ công EUROZONE, Tạp chí Nghiên cứu châu Âu, số 12.
7. Phạm Đỗ Chí (2010), Rút bài học sớm từ khủng hoảng nợ châu Âu, Thời báo kinh tế Sài Gòn, ngày 11/6.
8. ATP Việt Nam (2010), Tác động từ khủng hoảng nợ châu Âu, ngày 19/5.
9. Hà Chí (2010), Đồng euro phải chăng đang gãy chết”, Vietnamnet, ngày 19/6.
10. Phạm Quốc Trụ, Nợ công tràn lan ở nhiều nước đe dọa nền kinh tế thế giới,
11. Phạm Quốc Trụ, Khủng hoảng nợ công,
12. Tuyết Trần (2007,dịch), Tình trạng nợ quốc gia tại Pháp và Đức, Tài liệu tham khảo bằng tiếng Pháp và tiếng Đức: Các dữ liệu công bố chính thức của Insee, Comptes nationaux Base 2000 et Banque de France, Ministère de l’Économie, des finances et de l’emploi, tạp chí Marianne, tạp chí Der Spiegel, Verbraucherzentraler Bundesverband (VZBV), và các trang trên mạng
1. Phạm Thị Thanh Bình, Nợ công Hy Lạp – nguyên nhân và bản chất. Tạp chí điện tử
2. Châu Âu – nỗi lo nợ,
3. Cảnh báo về khủng hoảng nợ quốc gia trong năm 2011,
4. Châu Âu khó xử trước nguy cơ Aixlen không thanh toán nợ nhà nước,
5. Cơn bão nợ châu Âu – những hệ lụy với Việt Nam,
6. TTXVN, Eurozone trước nguy cơ lâm khủng hoảng nợ công, Thứ sáu, 26/11/2010.
7. Khủng hoảng Hy Lạp đẩy ngân hàng châu Âu vào thế hiểm,
8. Khủng hoảng nợ nguy cơ lan rộng khắp châu Âu,
9. Liên minh tiền tệ châu Âu đi về đâu,
10. Nguồn gốc của bi kịch nợ công ở Hy Lạp, Theo VnEconomy.
11. Những con nợ khổng lồ của thế giới, Nguồn: Báo điện tử doanh nhân toàn cầu.
12. Những mốc chính của khủng hoảng nợ châu Âu,
13. Nợ công đang tàn phá “mái nhà chung” châu Âu, TTXVN/Vietnam+.
14. Toàn cảnh khủng hoảng tài chính châu Âu,
15. Các website: vnexpress.net; taichinhthegioi.com; vietnamnet; tgvn.com.vn; sgttonline.com; tapchicongsan.org.vn; x-cafevn.org; vitinfo.com.vn; tintuconline.vietnamnet.vn; baodientu.chinhphu.vn; bbc.co.uk; thanhnien.com.vn; vietnamplus.vn; vneconomy.vn; luatviet.net; vssc.com.vn; atpvietnam.com; vovnews.vn; iwep.org.vn; nghiencuubiendong.com…
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- khung hoang no chau au.doc