Tiểu luận Giải pháp phát triển xuất khẩu mặt hàng cà phê của Việt Nam sang thị trường ASEAN

Thúc đẩy xuất khẩu là một chủ trương lớn trong sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá của Đảng và Nhà nước ta. Là một nước nông nghiệp, hiện nay nguồn thu từ việc xuất khẩu nông sản, thủy sản đối với ngân sách là khá lớn. Ngoài lúa gạo, Việt Nam còn được biết đến là nước xuất khẩu cà phê đứng thứ hai trên thế giới. Cà phê là một mặt hàng nông sản nổi tiếng trên toàn thế giới với những câu chuyện như những huyền thoại về xuất xứ của cà phê. Không chỉ có vậy, với hương vị đặc trưng độc đáo và nét quyến rũ lạ thường , cà phê đã trinh phục đại bộ phận dân cư trên toàn thế giới khiến nhu cầu cà phê cần được giá trị xuất khẩu cao. Nó góp phần nâng cao đời sống của nhân dân, tăng cung cấp hay xuất khẩu ngày một tăng cao cả về số lượng và chất lượng.Với những điều kiên vị trí địa lý đất đai thổ nhưỡng,nguồn nhân lực dồi dào Việt nam hội tụ đầy đủ những điều kiện để trở thành nước xuất khẩu cà phê có chất lượng cho khu vực và cả trên thế giới.Xuất khẩu cà phê của Việt Nam hiện đã vượt qua con số 1 tỷ USD và chiếm vị trí thứ 2 thế giới, đứng sau Brazil. Riêng cà phê Robusta xuất khẩu, Việt Nam còn đứng trên cả Brazil và trở thành lớn nhất thế giới. Khu vực các tỉnh Tây Nguyên là “thủ phủ” cà phê Việt Nam. Bên cạnh những thị trường truyền thống như Mỹ, Nhật Bản, EU dường như Việt Nam đã hơi xao lãng một thị trường mà ở đó chúng ta có lợi thế khá lớn đó là ASEAN. Trong vài năm gần đây, lượng cà phê xuất khẩu sang ASEAN bắt đầu tăng nhưng vẫn chiếm tỷ trọng khá nhỏ trong kim ngạch xuất khẩu cà phê. Nhận thấy được vị trí của việc xuất khẩu cà phê vào thị trường ASEAN trong thời gian tới và nhằm đẩy mạnh duy trì kim ngạch xuất khẩu của cà phê trong những năm tiếp theo cần phải có những biện pháp thúc đẩy xuất khẩu cà phê. Với những lý do trên tôi xin đưa ra đề tài: “Giải pháp phát triển xuất khẩu mặt hàng cà phê của Việt Nam sang thị trường ASEAN”.

doc28 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1836 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Giải pháp phát triển xuất khẩu mặt hàng cà phê của Việt Nam sang thị trường ASEAN, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ích khoảng 500.000 ha, lượng cà phê xuất khẩu hàng năm của Việt Nam sang trên 70 quốc gia và vùng lãnh thổ, riêng năm xuất khẩu cà phê của nước ta đạt 1,18 triệu tấn, với kim ngạch 1,73 tỷ USD, tăng 11,71% về lượng so với năm 2008, năm 2010 có thể đạt con số 1,1 triệu tấn với kim ngạch là 1,67 tỷ USD. Theo ông Lương Văn Tự, Chủ tịch Hiệp hội Cà phê - Ca cao Việt Nam (Vicofa), WTO mang lại cho Việt Nam một “sân chơi” khổng lồ, với hơn 5 tỷ người tiêu thụ, 95% giá trị thương mại thế giới. Trong khi đó, dự báo nhu cầu tiêu thụ cà phê trên thế giới sắp tới mỗi năm tăng khoảng 2 triệu bao, dự kiến đến năm 2018, thế giới cần tới 140 triệu bao. Đây là cơ hội "vàng" cho cà phê Việt Nam . Theo dự báo, đến năm 2020, diện tích cà phê Việt Nam sẽ chỉ duy trì ở mức 500.000 ha như hiện nay đưa năng suất đến năm 2020 là 2,4 tấn/héc ta, có kim ngạch xuất khẩu đạt 2,4 - 2,5 tỉ đô la Mỹ; giữ vai trò điều tiết thị trường thế giới (Việt Nam hiện là nước xuất khẩu cà phê Robusta lớn nhất thế giới nhưng khả năng chi phối thị trường chưa có) Chính vì thế, mặc dù là thành viên của Tổ chức Cà phê thế giới, tổ chức đã có 25 nước chiếm 73,1% lượng cà phê xuất khẩu toàn cầu phải tuân thủ những tiêu chuẩn về cà phê xuất khẩu, thế nhưng Việt Nam hiện lại nằm trong số 26,9% lượng cà phê không tuân thủ tiêu chuẩn nào của Tổ chức Cà phê thế giới. Số lượng cà phê xuất khẩu bị thải loại còn chiếm tỷ lệ cao (hơn 80%) trong tổng số cà phê xuất khẩu bị thải loại của thế giới. Theo ông Đoàn Triệu Nhạn, Phó Chủ tịch Vicofa, cần phải tiến tới thống nhất quy chuẩn giữa người trồng cà phê, nhà sản xuất chế biến kinh doanh cà phê cần đầu tư để nâng cao chất lượng cà phê từ vườn rẫy đến sản phẩm chế biến sau thu hoạch, bỏ lối thu hoạch truyền thống “tuốt cành”, thay vào đó là thu hoạch có tuyển chọn. Đánh giá chung về triển vọng cà phê Việt Nam trên thị trường thế giới, các chuyên gia đều cho rằng, cơ hội lớn là rất lớn song nếu tiếp tục kinh doanh cà phê xuất khẩu theo kiểu “ăn xổi ở thì” như hiện nay thì Việt Nam khó có thể đạt được mục tiêu phát triển thương hiệu bền vững, ngoài ra sẽ vẫn tiếp tục làm mất đi cơ hội gia tăng lợi nhuận của mình, cũng như làm mất đi lợi thế của một nước nằm trong tốp đầu thế giới về xuất khẩu cà phê. 2.2.Vài nét khái quát về thị trường ASEAN. 2.2.1. Vài nét khái quát về thị trường ASEAN. 2.2.1.1. Quá trình ra đời và phát triển của Hiệp hội ASEAN. Ngày 8/8/1967, Bộ trưởng Ngoại giao các nước Indonesia, Thái Lan, Philippines, Singapore và Phó Thủ tướng Malaysia ký tại Bangkok bản Tuyên bố thành lập Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN). Từ 5 nước thành viên ban đầu, đến nay ASEAN đã có 10 quốc gia thành viên, gồm Indonesia, Thái Lan, Philippines, Singapore, Malaysia, Bruney (năm 1984), Việt Nam (năm1995), Lào (năm 1997), Myanmar (năm 1997) và Campuchia (năm1999). ASEAN có diện tích 4,5 triệu km2, dân số khoảng 575 triệu người và tổng sản phẩm quốc nội (GDP) đạt 2.487 tỷ USD (ước tính năm 2009). Thực tiễn đã chứng minh rằng, một Đông Nam Á thống nhất đã thúc đẩy cho hợp tác và vị thế ASEAN ngày càng lớn mạnh, là tiền đề quan trọng để ASEAN trở thành một cộng đồng. 2.2.1.2. Các nguyên tắc hoạt động chính của ASEAN. Các nguyên tắc làm nền tảng cho quan hệ giữa các quốc gia thành viên và với bên ngoài: Trong quan hệ với nhau, các nước ASEAN luôn tuân theo các nguyên tắc chính đã được nêu trong Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác ở Đông Nam Á là: - Cùng tôn trọng độc lập, chủ quyền, bình đẳng, toàn vẹn lãnh thổ và bản sắc dân tộc của tất cả các dân tộc; - Quyền của mọi quốc gia được lãnh đạo hoạt động của dân tộc mình, không có sự can thiệp, lật đổ hoặc cưỡng ép của bên ngoài; - Không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau; - Giải quyết bất đồng hoặc tranh chấp bằng biện pháp hoà bình, thân thiện; - Không đe dọa hoặc sử dụng vũ lực; - Hợp tác với nhau một cách có hiệu quả; Các nguyên tắc điều phối hoạt động của Hiệp hội: - Nguyên tắc nhất trí, tức là một quyết định chỉ được coi là của ASEAN khi được tất cả các nước thành viên nhất trí thông qua. - Nguyên tắc bình đẳng. - Nguyên tắc 6-X, theo đó hai hay một số nước thành viên ASEAN có thể xúc tiến thực hiện trước các dự án ASEAN nếu các nước còn lại chưa sẵn sàng tham gia, không cần phải đợi tất cả mới cùng thực hiện. Các nguyên tắc khác: Trong quan hệ giữa các nước ASEAN đang dần dần hình thành một số các nguyên tắc, tuy không thành văn, không chính thức song mọi người đều hiểu và tôn trọng áp dụng như: nguyên tắc có đi có lại, không đối đầu, thân thiện, không tuyên truyền tố cáo nhau qua báo chí, giữ gìn đoàn kết ASEAN và giữ bản sắc chung của Hiệp hội. 2.2.2. Tình hình nhập khẩu của ASEAN trong những năm gần đây. Trong những năm qua quan hệ thương mại hàng hóa song phương giữa Việt Nam và các nước thành viên ASEAN ngày càng phát triển và đạt được nhiều thành tựu khả quan. Theo số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan, trong những năm gần đây các thành viên ASEAN luôn là đối tác thương mại hàng hóa lớn nhất của Việt Nam với trị giá hàng hóa buôn bán hai chiều đạt mức tăng trưởng 25,9%/năm trong giai đoạn 2005-2008 và 13,3%/năm giai đoạn 2005-2009. ASEAN là thị trường xuất khẩu hàng hóa lớn thứ ba của các doanh nghiệp Việt Nam, chỉ sau thị trường Hoa Kỳ và thị trường các nước thành viên Liên minh châu Âu-EU. Còn ở chiều ngược lại, ASEAN là đối tác thương mại cung cấp nguồn hàng hóa lớn thứ hai cho các doanh nghiệp Việt Nam, chỉ đứng sau Trung Quốc. Kim ngạch xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và ASEAN tăng nhanh. Cụ thể trong năm 2005, tổng kim ngạch hàng hóa xuất nhập khẩu giữa Việt Nam-ASEAN chỉ đạt 14,91 tỷ USD trong khi đó con số này của năm 2008 là 29,77 tỷ USD, tăng gấp đôi so với năm 2005. Đến năm 2009, do chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới, tổng trị giá giao thương giữa Việt Nam với tất cả các quốc gia thành viên tổ chức liên kết khu vực này có sự giảm sút đáng kể, chỉ đạt con số 22,41 tỷ USD, giảm gần 25% so với một năm trước đó. Sang năm 2010, tình hình kinh tế thế giới hồi phục, nhờ đó, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang thị trường ASEAN trong 6 tháng đầu năm cũng đạt hơn 5,24 tỷ USD, tăng 18% so với cùng kỳ năm 2009 và chiếm 16,1% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Các nhóm hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam sang thị trường ASEAN vẫn là gạo và dầu thô với trị giá chiếm xấp xỉ 37% tổng kim ngạch hàng hóa Việt Nam xuất khẩu sang thị trường này. Trong số các nước ASEAN, Singapore luôn là đối tác lớn nhất với tổng trị giá hàng hóa trao đổi giữa hai nước là 3,25 tỷ USD. Tiếp theo là Thái Lan 3,12 tỷ USD và Malaixia 2,43 tỷ USD. Ngoài các thị trường trên, Campuchia, Lào và Phillipin là những thị trường đang được đánh giá có nhiều hứa hẹn bởi mức tăng trưởng hàng năm tương đối cao. Cùng với những thuận lợi về vị trí địa lý cũng như các yêu cầu của thị trường, thì cơ hội gia tăng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang các nước thành viên trong khối ASEAN còn rất lớn, bởi đến năm 2015, ASEAN sẽ xóa bỏ hoàn toàn các hàng rào phi thuế quan. Theo cam kết kể từ đầu năm 2010, sáu nước phát triển trong ASEAN gồm Indonesia, Philippines, Thái Lan, Malaysia, Singapore và Brunei bắt đầu áp dụng mức thuế suất 0% đối với hầu hết các mặt hàng. Các thành viên còn lại của ASEAN, trong đó có Việt Nam sẽ thực hiện muôn hơn, vào năm 2015. 2.3. Những thuận lợi và khó khăn của việc xuất khẩu cà phê vào thị trường ASEAN. 2.3.1. Thuận lợi. Là thành viên của ASEAN, Việt Nam có nhiều thuận lợi khi xuất khẩu sang thị trường các nước trong khu vực này do được hưởng thuế ưu đãi, vị trí địa lý thuận tiện các yêu cầu của thị trường không quá cao và phù hợp với khả năng của nhiều doanh nghiệp Việt Nam. Các nước ASEAN đã và đang thúc đẩy tiêu dùng nội địa, đẩy mạnh xuất khẩu nội khối và mở rộng hợp tác thương mại với Trung Quốc, Ấn Độ, các nước Trung Đông, châu Phi... đồng thời tận dụng cơ hội Mỹ quan tâm hơn tới ASEAN, nhằm phục hồi và duy trì tăng trưởng sau khủng hoảng. Năm 2010, nhiều hiệp định được triển khai đồng bộ, ASEAN đã tận dụng hiệu quả Hiệp định Thương mại hàng hóa ASEAN- Trung Quốc (ACFTA); Hợp tác ASEAN + 6 theo cơ chế hợp tác khu vực trong Hội nghị thượng đỉnh Đông Á... Trong năm nay, theo Thứ trưởng Nguyễn Thành Biên, tại khu vực mậu dịch tự do ASEAN, ASEAN-6 đã mở cửa thị trường cho hầu hết các mặt hàng nông, lâm, thủy sản được cắt giảm thuế từ 0% đến 5 %, đây là cơ hội lớn cho thủy sản Việt Nam thâm nhập vào các nước ASEAN. Việc cạnh tranh mở rộng xuất khẩu tới các thị trường này cộng với thời hạn 5 năm bảo lưu thuế, sẽ tạo không gian cho hàng xuất khẩu của Việt Nam vào các nước ASEAN. 2.3.1. Khó khăn. Trong khu vực ASEAN, ngoài Việt Nam thì Philipin, Malayxia cũng tham gia xuất khẩu cà phê, do đó trong khu vực, chúng ta cũng có sự cạnh tranh xuất khẩu mặt hàng này. Về mặt sản phẩm, trình độ thâm canh cà phê chưa đồng đều, chủng loại mặt hàng đơn điệu, tỷ lệ cà phê Robusta (95% diện tích) và Arabica (5%) chưa hợp lý. Giá thành cà phê còn cao do chi phí vật tư đầu vào, công lao động và tưới còn cao. Chất lượng cà phê không cao do thu hái lẫn quả xanh, lẫn tạp chất, ẩm độ cao, không đồng đều giữa các lô cà phê xuất khẩu, cạnh tranh trên thị trường còn yếu. Xuất khẩu cà phê chủ yếu thông qua trung gian. Chưa đánh giá được khả năng cung của cà phê một cách chính xác và kịp thời . Do sự phát triển nhảy vọt về diện tích và sản lượng dẫn đến mất cân đối nghiệm trọng giữa khâu sản xuất nông nghiệp và chế biến. Các giải pháp thâm canh tăng năng suất chưa chú trọng đến nâng cao chất lượng cà phê. Nhìn chung, cà phê Việt Nam phát triển chưa bền vững, còn chịu sự tác động lớn của thị trường và thời tiết. Chương III: Thực trạng xuất khẩu cà phê sang thị trường ASEAN 3.1. Thực trạng sản xuất cà phê của Việt Nam. Cây cà phê đầu tiên được đưa vào Việt nam từ năm 1870, mãi đến đầu thế kỷ 20 mới được phát triển trồng ở một số đồn điền của người Pháp. Năm 1930 ở Việt nam có 5.900 ha.Trong thời kỳ những năm 1960-1970, cây cà phê được phát triển ở một số nông trường quốc doanh ở các tỉnh miền Bắc, khi cao nhất (1964-1966) đã đạt tới 13.000 ha song không bền vững do sâu bệnh ở cà phê Arabica và do các yếu tố tự nhiên không phù hợp với cà phê Robusta nên một số lớn diện tích cà phê phải thanh lý. Cho đến năm 1975, đất nước thống nhất, diện tích cà phê của cả nước có khoảng trên 13.000 ha, cho sản lượng 6.000 tấn. Sau 1975, cà phê ở Việt Nam được phát triển mạnh tại các tỉnh Tây nguyên. Yêu cầu đầu tiên đối với việc thu hái cà phê là hái đúng tầm chín. Để có cà phê chất lượng cao nhất thiết phải có quả chín đỏ hay vừa chín, không hái quả xanh. Không để quả chín nẫu hay khô trên cây. Nếu có lẫn những loại này thì cần bỏ ra phơi riêng. Hái cà phê bằng cách dùng ngón tay bứt quả, không tuốt cành, không bứt cả chùm đối với cà phê chè. Phải bảo vệ cành, lá, nụ tránh ảnh hưởng tới vụ sau. Không để quả cà phê lẫn vào trong đất dễ bị nhiễm nấm bệnh. Cà phê hái xong phải chế biến ngay. Nếu không kịp phải trải quả cà phê trên nền gạch cho thoáng mát, không quá dày 30 – 40 cm. Không ủ đống cà phê làm cho quả cà phê nóng và lên men. Không giữ cà phê hái về quá 24giờ. Bao bì đựng sản phẩm cà phê quả tươi và phương tiện vận chuyển phải sạch, không có mùi phân bón, mùi hoá chất… Có hai phương pháp chế biến: Chế biến khô và chế biên ướt. Với cà phê chè hầu hết là dùng phương pháp chế biến ướt và cả một phần cà phê vối cũng chế biến theo phương pháp ướt (hoặc nửa ướt) nếu có yêu cầu của khách hàng. Cà phê vối Tây Nguyên, do mùa thu hoạch thường là mùa khô nên người ta áp dụng chế biến khô để tận dụng năng lượng mặt trời. Chế biến ướt: Cà phê sau khi hái về phải chọn lọc loại riêng quả xanh, quả khô, loại bỏ cành lá rụng và đất đá… Quả cà phê chín được đưa vào máy xát tươi để tách vỏ qủa ra. Nhân cà phê đã tách vỏ quả, còn vỏ trấu gọi là cà phê thóc. Cà phê thóc phải loại bỏ lớp nhớt bên ngoài vỏ trấu. Đó là giai đoạn ngâm và rửa. Vì thế người ta gọi phương pháp này là chế biến ướt. Và cà phê chế biến theo phương pháp này “cà phê rửa”. Cà phê thóc loại bỏ lớp nhớt bên ngoài và được rửa sạch là cà phê thóc ướt. Cà phê này qua phơi sấy cho khô, có độ ẩm dưới 10 – 12% gọi là cà phê thóc sấy khô. Nếu cà phê quả tươi là nguyên liệu (đầu vào) của quá trình chế biến ướt thì sản phẩm cà phê thóc khô là đầu ra của quá trình này. Cà phê thóc khô qua quá trình xát khô, loại bỏ vỏ trấu, đánh bóng ( loại bỏ vỏ lụa dính bên ngoài nhân cà phê) sẽ thu được cà phê nhân. Cà phê nhân còn qua phân loại mới trở thành cà phê thương phẩm cho việc buôn bán. Chế biến khô: Quả cà phê đưa về không xát tươi mà đưa ra phơi khô cho đến khi độ ẩm xuống còn 12 – 13 %. Thường 1 mẻ cà phê phơi khô mất 25 -30 ngày. Đưa cà phê phơi khô vào xát bằng máy xát khô cà phê, loại bỏ vỏ qủa, vỏ trấu khô ta được cà phê nhân thành phẩm. Ngoài hai phương pháp trên, ở nước ta thường áp dụng phương pháp chế biến nửa ướt. Ở phương pháp này, người ta xát tươi quả cà phê bằng loại máy xát tươi kèm theo đánh sạch một phần nhớt rồi mang phơi, không ủ len men và rửa sạch hoàn toàn. Cà phê thành phẩm đưa vào bảo quản phải đảm bảo đã được phơi sấy đạt đến độ ẩm 11 -12 % và không để cà phê khô bị ướt trở lại. Giảm tỷ lệ tạp chất trong cà phê thành phẩm xuống mức thấp nhất, tối đa không quá 0,5 %. Trên lý thuyết quá trình sản xuất là vậy nhưng do thói quen cố hữu "tuốt cành" khi thu hoạch cà phê của người nông dân (80% nông dân áp dụng cách này) do đó quả xanh chín lỗn lộn dẫn đến chất lượng cà phê không cao, thiếu ổn định khiến lượng cà phê bị thải loại. Ngoài ra còn là do công nghệ nhà máy chế biến của nước ta hiện vẫn còn yếu, so với yêu cầu về chất lượng sản phẩm, đặc biệt là chất lượng xuất khẩu thì năng lực chế biến ở khâu sơ chế chỉ đạt khoảng 20%, khâu tinh chế đạt 40%, công nghệ sấy chất lượng cao mới chỉ đạt 20%. 3.2. Thực trạng xuất khẩu cà phê của Việt Nam. 3.2.1. Sản lượng, kim ngạch xuất khẩu của cà phê Việt Nam trong những năm gần đây. Theo số liệu của trang web Wikipedia, Việt Nam là một trong 17 nước xuất khẩu caphê lớn nhất thế giới. Trong đó, đứng đầu là Braxin, và Tổng sản lượng của ba quốc gia đứng đầu là Brasil, Việt Nam và Colombia nhiều hơn tất cả các nước khác cộng lại. * Sản lượng trong những năm gần đây :{Nguồn : Wikipedia + Tổng cục hải quan} Sản lượng cà phê (nghìn bao) Tổ chức Cà phê Thế giới (ICO) Quốc gia Niên vụ 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 Db 2010 Brasil (R/A) T.4-T.3 48.480 28.820 39.272 32.944 46.700 39.100 53.300 44.800 55.300 Việt Nam (R/A) T.10-T.9 11.555 15.230 13.844 11.000 13.500 15.500 15.830 16.670 17.366 Colombia (R/A) T.10-T.9 11.889 11.197 11.405 11.550 11.420 12.500 12,515 8,664 11.500 Trong niên vụ 2006 - 2007 Việt Nam xuất khẩu khoảng 1,2 triệu tấn, 6 tháng đầu niên vụ 2007 - 2008 đạt 580.000 tấn. Theo số liệu hải quan hải quan tính chung 4 tháng đầu năm 2009, cả nước đã xuất khẩu được 555 nghìn tấn cà phê với trị giá 832 triệu USD, tăng 31,4% về lượng nhưng giảm 2,5% về kim ngạch so với cùng kỳ năm 2008. Theo số liệu do Tổng cục Hải quan vừa công bố : chỉ tính riêng trong tháng 7/2010, nước ta đã xuất khẩu gần 89,5 nghìn tấn cà phê, đạt kim ngạch 137,5 triệu USD. Phân tích xu hướng biến động của chuỗi giá trị xuất khẩu thủy sản trong những năm qua cho thấy khối lượng cà phê xuất khẩu năm 2010 có thể đạt con số 1,1 triệu tấn với kim ngạch là 1,67 tỷ USD. Thị trường xuất khẩu cà phê của Việt Nam rất rộng, hiện có trên 70 quốc gia trên thế giới nhập khẩu cà phê từ Việt Nam, ngoài những nước nhập khẩu chính ở Châu Âu, Hoa Kỳ, Châu Á, còn có các nước Trung Cận Đông, Châu Phi, một số nước trong hiệp hội ASEAN và Trung Mỹ. Trong đó Mĩ và EU là hai bạn hàng lớn nhất, một số nước EU nhập khẩu nhiều cà phê Việt Nam như Italia, Đức, Tây Ban Nha.. Từ số liệu năm 2005 đến 2010. ta thấy : Sản lượng cà phê của Việt Nam chiếm khoảng từ 12.43 % đến gần 15 % sản lượng của thế giới 3.2.2 Giá cả và chất lượng cà phê. * Giá cà phê trên thị trường thế giới Tuy nhiên, giá cà phê xuất khẩu của Việt Nam thường thấp hơn cùng loại của nước ngoài từ 100 – 150 USD/ tấn. Chủ yếu là do chất lượng cà phê của ta. Điểm yếu nhất của việc xuất khẩu cà phê của Việt Nam là chất lượng cà phê Việt Nam không đồng đều và không ổn định, đặc biệt là khối lượng lớn cà phê của Việt Nam bị thải loại ở một vài thị trường. Mặt khác, hầu hết cà phê xuất khẩu của Việt Nam hiện nay chưa áp dụng TCVN cho kiểm tra chất lượng mà dựa trên sự thỏa thuận giữa bên mua và bên bán bằng cách áp dụng phân loại chất lượng theo tỷ lệ hạt đen, hạt vỡ, tạp chất. Đây là cách phân loại đơn giản và lạc hậu không phù hợp với việc mua bán trên thương trường quốc tế 3.3. Đánh giá chung về hoạt động xuất khẩu cà phê trên Việt Nam. Như đã phân tích ở trên, Việt Nam là nước xuất khẩu cà phê lớn thứ 2 thế giới, tuy nhiên các nước nhập khẩu chủ yếu là Mĩ và EU. Một phần lớn đó là do thói quen và thị hiếu tiêu dùng ở các nước khác nhau thì khác nhau. Khu vực ASEANvốn dĩ không phải thị trường tiêu thụ cà phê lớn của chúng ta, tuy nhiên đó là một khu vực tiềm năng để gia tăng sản lượng xuất khẩu của Việt Nam. Thuận lợi mà chúng ta có được là vị trí địa lý gần gũi, khí hậu và thói quen tiêu dùng tương tự, chúng ta có khả năng quảng bá và phát triển hơn. ASEAN cũng là khu vực kinh tế đang phát triển, đây là một cơ hội lớn để mở rộng thị trường. Tuy nhiên, chúng ta phải đối mặt với một số khó khăn. Ví dụ như đối thủ cạnh tranh. Indonesia là một đối thủ cạnh tranh lớn của chúng ta. 1/6 dân số Đông Nam Á ở bán đảo Java { Indonesia} và đây cũng là một nước xuất khẩu cà phê lớn của thế giới { dựa trên số liệu của ICO – năm 08/09 }. Đối với mặt hàng cà phê, kim ngạch xuất khẩu sang ASEAN năm 2007 đạt 145 triệu USD. Dự kiến, kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này năm 2008 đạt 155 triệu USD, tăng 7% so với năm 2007. Năm 2008, Philippine đã mua 19.330 tấn, Malaysia mua 17.903 tấn, Thái Lan cũng đã tăng sản lượng lên 11.949 tấn. Các thị trường mà Việt Nam có kim ngạch xuất khẩu thấp nhất gồm Lào (100 triệu USD), Myanmar (15 triệu USD) và Brunei (5 triệu USD). Với Myanmar, việc đẩy mạnh giao thương khó khăn vì tình hình chính trị không ổn định, cơ chế thanh toán có nhiều bất cập. Còn Brunei là thị trường hẻo lánh, ít dân, do vị trí địa lý và điều kiện không thuận lợi nên quan hệ thương mại giữa hai nước gần như chưa phát triển. Thị trường Lào có thể phát triển được, nhưng tương lai sẽ cần những đầu tư lớn. Bên cạnh hai loại sản phẩm chính là cà phê chè và cà phê vối, Việt Nam hiện nay còn sản xuất được cà phê chồn ( cà phê Weasel ). Đại diện một công ty cà phê cho biết sau khi thu mua phân chồn lẫn cà phê từ người nuôi, họ chế biến và bán với giá hơn 600 USD một kg. Dù Việt Nam có sản xuất cà phê chồn, thậm chí có loại hảo hạng, nhưng cho đến nay cà phê Kopi Luwak của Indonesia vẫn nổi tiếng là đắt nhất thế giới và được nhiều người biết đến hơn, đại diện của Trung Nguyên chia sẻ. Mặt hàng này khá có tiềm năng xuất khẩu nhưng kể cả những người có tiền cũng khó mà mua cà phê chồn Weasel vì mỗi năm Trung Nguyên chỉ sản xuất được từ 40 đến 50 kg. Do đó, sản phẩm này hiện chưa dành xuất khẩu mà chỉ bán ở số lượng nhất định theo đơn đặt hàng của các khách hàng VIP. Chương IV: Một số giải pháp phát triển xuất khẩu mặt hàng cà phê của Việt Nam sang thị trường ASEAN. 4.1. Dự báo thị trường cà phê thế giới: cung cầu thị trường cà phê của ASEAN. ASEAN- một thị trường đáng để chinh phục, với sự hỗ trợ của ASEAN và EU, của chính phủ hai nước, với sự hoạt động năng động của các bên, hợp tác giữa ASEAN - Việt Nam – EU - Cộng hoà Pháp trong lĩnh vực kinh tế thương mại, sẽ phát triển sâu rộng” . Trong những năm qua quan hệ thương mại hàng hóa song phương giữa Việt Nam và các nước thành viên ASEAN ngày càng phát triển và đạt được nhiều thành tựu khả quan. Theo số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan, trong những năm gần đây các thành viên ASEAN luôn là đối tác thương mại hàng hóa lớn nhất của Việt Nam với trị giá hàng hóa buôn bán hai chiều đạt mức tăng trưởng 25,9%/năm trong giai đoạn 2005-2008  và 13,3%/năm trong giai đoạn 2005-2009. ASEAN là thị trường xuất khẩu hàng hóa lớn thứ ba của các doanh nghiệp Việt Nam, chỉ sau thị trường Hoa Kỳ và thị trường các nước thành viên Liên minh châu Âu-EU. Còn ở chiều ngược lại, ASEAN là đối tác thương mại cung cấp nguồn hàng hóa lớn thứ hai cho các doanh nghiệp Việt Nam, chỉ đứng sau Trung Quốc. Sang năm 2010, tình hình kinh tế thế giới hồi phục, nhờ đó, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang thị trường ASEAN trong 6 tháng đầu năm cũng đạt hơn 5,24 tỷ USD, tăng 18% so với cùng kỳ năm 2009 và chiếm 16,1% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Trong kỳ họp thứ 6 vừa qua ở ChiengRai TháiLan hội nghị đã thảo luận về xúc tiến thương mại cà phê của các nước ASEAN. Các đại biểu công nghiệp và xuất khẩu Indonesia đưa ra quan niệm ASEAN có ảnh hưởng nhất định trong khu vực là yếu tố quan trọng về phát triển thị trường ASEAN. Trong hiệp hội có những nước có tiềm năng sản xuất cà phê to lớn như Việt Nam, Indonesia, Thái Lan, Philipppines, Campuchia và Lào và cũng có tiềm năng tiêu dùng to lớn. Ngoài ra ASEAN còn có công nghệ chế biến cà phê lớn như Malaysia, Singapore. Trong tương lai ASEAN sẽ mở rộng sự hợp tác với các khu vực khác. Việt Nam ủng hộ ý tưởng thành lập Câu lạc bộ hay là Hiệp hội cà phê ASEAN. Ngoài ra cũng chia sẻ quan điểm nếu dỡ bỏ hàng rào quan thuế và các rào cản kỹ thuật thì sản xuất và thương mại cà phê sẽ phát triển có hiệu quả hơn. Các đại biểu Việt Nam, Indonesia, Thái Lan đã họp và nhất trí tổ chức Câu lạc bộ cà phê của ASEAN (CCA: Coffee club of ASEAN) với thành phần các doanh nghiệp tư nhân với sự giúp đỡ và quan sát của cơ quan nhà nước. Tháng đầu  của năm 2010, kim ngạch xuất khẩu sang thị trường ASEAN của Việt Nam đạt 850,6 triệu USD, tăng 8,4% so với tháng 12 năm 2009 và tăng 60,60% so với cùng kỳ năm trước.Theo đó, thuế trung bình mà các nước ASEAN đánh vào hàng hoá Trung Quốc sẽ giảm từ 12,8% xuống còn 0,6% khiến cho hàng hóa Trung Quốc càng có nhiều lợi thế hơn, nhất là về giá. Tháng đầu  của năm 2010, kim ngạch xuất khẩu sang thị trường ASEAN của Việt Nam đạt 850,6 triệu USD, tăng 8,4% so với tháng 12 năm 2009 và tăng 60,60% so với cùng kỳ năm trước. Mặt hàng cà phê cũng có mức tăng lần lượt là 41,18% và 19,76% so với tháng trước và cùng kỳ năm ngoái. 4.2. Phương hướng xuất khẩu cà phê của Việt Nam. Dự kiến kim ngạch xuất khẩu đến năm 2010 đạt 220 triệu USD, tăng bình quân 15%/năm. Tuy nhiên, để đạt được kim ngạch xuất khẩu nêu trên cần tuyên truyền, khuyến khích các doanh nghiệp chú trọng đến vấn đề chất lượng để tăng thêm giá trị gia tăng. Chính phủ Việt Nam đã có quyết định số 150/2005/TTg quyết định ổn định diện tích từ 450-500.000ha, sản lượng khoảng 1triệu tấn. Tiếp đó ngày 26/8/2008 Bộ trưởng Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn cũng đã có quyết định phê duyệt đề án Nâng cao năng lực cạnh tranh của cà phê đến 2015 và định hướng 2020. Nâng cao chất lượng và sản lượng bằng cách áp dụng GAP trong sản xuất thu hái và GMP trong chế biến cà phê thực hiện tiêu chuẩn nhà nước 4193/2005 và đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm. Đẩy mạnh khâu chế biến sâu như rang xay và cà phê hòa tan để nâng cao giá trị thương mại cho mỗi kilogram cà phê. Sản xuất cà phê có chứng chỉ như Utz Certified, Good inside, Rainforest Alliance, Organic coffee, Fair Trade….cung cấp cà phê đặc biệt (speciality Robusta coffee) cho các siêu thị các thị trường chọn lọc (selected markets) và đặc biệt là tham gia sản xuất cà phê được đánh giá theo Bộ quy tắc chung cho cộng đồng cà phê (4C compliant coffee) cho sản xuất đại trà. Tăng cường công tác thông tin thị trường và xúc tiến thương mại vào các thị trường lớn, các doanh nghiệp rang xay…mở rộng tiêu dùng cà phê trong nước. Bộ trưởng Cao Đức Phát chỉ rõ: Nâng cao chất lượng và giá trị gia tăng là hướng đi của cà phê Việt Nam, không mở rộng diện tích mà tập trung khai thác triệt để lợi thế để có kim ngạch xuất khẩu lớn, phải “tấn công” mạnh mẽ hơn vào phần giá trị thặng dư mà các nhà nhập khẩu - chế biến cà phê rang xay, cà phê chế biến sâu đang nắm giữ (ước tính đến 90% so với 10% dành cho người trồng và chế biến cà phê nhân xô). Giải pháp kỹ thuật không thiếu, vấn đề quan trọng là phải đề ra cho được các cơ chế, chính sách cụ thể để nâng cao chất lượng, sức cạnh tranh của cà phê Việt Nam và phải có các biện pháp chỉ đạo quyết liệt. Cụ thể: - Trong lĩnh vực trồng trọt, Bộ giao Cục Trồng trọt chủ trì, phối hợp với Viện khoa học NLN Tây Nguyên hoàn thành việc soạn thảo quy trình sản xuất tốt (GAP) đối với cà phê và các chính sách để người dân và các doanh nghiệp thực hiện; có quy chế quản lý và hướng dẫn việc tổ chức xác nhận. Trên cơ sở đó, mở rộng diện tích sản xuất cà phê hữu cơ, kết hợp với việc tái canh, thay thế các vườn cà phê già cỗi. Các tổ chức khuyến nông phải tập trung nguồn lực, tổ chức các hoạt động tập huấn, chuyển giao tiến bộ kỹ thuật cho nông dân trong lĩnh vực này; các doanh nghiệp cần chủ động tạo liên kết, hỗ trợ nông dân sản xuất nguyên liệu sạch hơn, đảm bảo thu mua cà phê chất lượng tốt với giá cả cao hơn. - Trong lĩnh vực chế biến – thương mại, Cục Chế biến thương mại nông lâm thuỷ sản và nghề muối xây dựng ngay các chính sách (tín dụng, thuế) nhằm khuyến khích, tạo điều kiện thúc đẩy các doanh nghiệp chế biến sản phẩm có giá trị gia tăng cao, áp dụng các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật tiên tiến để trình Chính phủ; phối hợp với các Bộ, ngành xây dựng chính sách hỗ trợ nông dân, doanh nghiệp xử lý môi trường trong chế biến ướt nhằm nâng cao giá trị sản phẩm và phát triển bền vững. Nỗ lực hơn trong xúc tiến thương mại đối với ngành hàng cà phê; đưa nội dung mở cửa thị trường cho cà phê chế biến sâu của Việt Nam thâm nhập thị trường thông qua đàm phán Quốc tế. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn sẽ cùng Hiệp hội Cà phê – Ca cao kiến nghị Chính phủ quy chế quản lý xuất khẩu cà phê (như đối với lúa gạo) trên cơ sở phù hợp với Luật Thương mại. Bộ trưởng Cao Đức Phát yêu cầu lãnh đạo UBND, Sở NN-PTNT các tỉnh trồng cà phê cần chỉ đạo sâu sát hơn, làm tốt chức năng quản lý nhà nước trên địa bàn, trong đó có việc UBND tỉnh Đắc Lắc cần quy định cụ thể về ghi nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý cà phê Buôn Ma Thuột để từng bước xây dựng và khẳng định thương hiệu. Tổng Công ty Cà phê Việt Nam cần có chuyển biến mạnh mẽ hơn nữa, khẳng định thương hiệu Vinacafe trên trường quốc tế. Để xây dựng một ngành cà phê phát triển bền vững, chúng ta cần đảm bảo toàn ngành có một diện tích và sản lượng cà phê ổn định với gần nửa triệu hecta cà phê hàng năm sản xuất ra khoảng 900.000 tấn (16 triệu bao); không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm, quan tâm đầy đủ vấn đề vệ sinh – an toàn- thực phẩm vì các tổ chức quốc tế quan tâm nhiều đến các vấn đề này. Với cà phê Robusta nếu được hái chin và chế biến theo phương thức ướt hoặc nửa ướt vẫn có thể cho sản phẩm có chất lượng cao và bán với giá tốt; cần xây dựng mạng lưới thông tin đầy đủ, kịp thời là cơ sở cho các nhà sản xuất và kinh doanh ra quyết định chính xác, tránh thu thiệt. Tất cả những vấn đề nêu trên đều nhằm xác định phương hướng đi tới ngành cà phê Việt Nam. Với những đề án về thâm canh cây công nghiệp lâu năm trong đó cà phê, nâng cao năng lực cạnh tranh của cà phê đến 2015 và định hướng 2020 của Bộ Nông Nghiệp và Phát triển nông thôn, sự quan tâm đầu tư của Chính phủ và các Bộ ngành Tài chính, Ngân hàng, ngành cà phê Việt Nam sẽ thực hiện được chương trình phát triển bền vững của mình và có vị thế vững chắc trên thị trường cà phê quốc tế. * Phương hướng xuất khẩu cà phê của nước ta. - Định hướng về dài hạn: Sản xuất cà phê phải đáp ứng nhu cầu thị trường về chất lượng cà phê xuất khẩu, chủng loại cà phê xuất khẩu, độ an toàn của cà phê xuất khẩu và sản xuất cà phê có vai trò gì đối với quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn cũng như đối với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Định hướng này đã giúp cho người nông dân có thêm trí thức kinh nghiệm trong sản xuất, nắm bắt thông tin về giá cả thị trường một cách nhanh chóng. Đồng thời tạo ra các mối quan hệ trong sản xuất và hợp tác quốc tế, tranh thủ sự giúp đỡ của nhiều nước có nền kinh tế phát triển, cơ sở sản xuất kĩ thuật dồi dào, có kinh nghiệm trong mua bán cà phê. Định hướng này đã phát huy tốt tính năng của mọi thành phần kinh tế, huy động được vốn và lao động sản xuất cà phê nơi có nguồn lợi lớn hơn nhưng thiếu đầu tư. Đồng thời khẳng định vị trí của sản xuất cà phê xuất khẩu của Việt Nam, là hướng đi dài từ đó để người dân yên tâm hơn vào sự đầu tư phát triển kinh doanh. - Định hướng về hiệu quả kinh tế kết hợp với bảo vệ môi trường . Sản xuất cà phê xuất khẩu phải có lãi thực sự. Định hướng này kết hợp với dự toán về điều kiện tự nhiên ở khu vực sản xuất cà phê để bố trí sản xuất hợp với nhu cầu thị trường. Đây là một định hướng đúng đối với các nhà kinh doanh cà phê xuất khẩu. Trong nguy cơ mất cân bằng sinh thái diễn ra mạnh mẽ thì việc triển khai các tiềm năng hiện có để phát triển trồng cà phê phải đảm bảo làm sao vừa tăng khối lượng và chất lượng cà phê xuất khẩu vừa đảm bảo môi trường sinh thái, tạo ra sự phát triển bền vững cho ngành hoạt động nói riêng và nền kinh tế nói chung, về giá phải trả cho sự phá huỷ môi trường sinh thái là rất đắt. - Định hướng về hiệu quả xã hội. Cây cà phê thích hợp với các vùng đồi núi hơn là vùng đồng bằng. Khi phát triển sản xuất cây cà phê sẽ kéo theo sự xuất hiện hàng loạt các công trình kinh tế xã hội. Điều đó sẽ làm cải thiện đời sống nhân dân ở miền núi. Cùng với việc thu hút một đội ngũ lao động dồi dào sẽ là một phương tiện rất tốt để giảm bớt tỷ lệ lao động thất nghiệp ở các vùng này. Như vậy hiệu quả xã hội rất lớn do việc phát triển sản xuất cà phê xuất khẩu làm thay đổi đời sống nhân dân theo hướng có lợi nhất. - Định hướng kết hợp nguồn lực trong nước tranh thủ tối đa nguồn lực từ bên ngoài. Cần phải xác định nguồn vốn trong nước là chủ yếu, nguồn vốn nước ngoài là quan trọng để phát huy nội lực, khai thác ngoại lực thực hiện có hiệu quả mục tiêu đề ra là thu hút đầu tư nước ngoài, vay vốn lãi xuất thấp, mở rộng liên doanh liên kết. Để đầu tư vào chế biến nâng cao chất lượng cà phê xuất khẩu, mở rộng xuất khẩu ổn định thì ngành sản xuất cà phê cần chú ý các điểm cơ bản sau: + Khối lượng sản phẩm lớn, cơ cấu xuất khẩu cân đối và hợp lý. + Từng bước mở rộng diện tích cà phê để thay đổi cơ cấu mặt hàng cà phê. + Tăng cường chế biến để nâng cao chất lượng sản phẩm. + Tiếp cận thị trường tiêu thụ cà phê của các nước trên thị trường cà phê thế giới tập trung xuất khẩu vào thị trường có nhu cầu lớn và tiến tới xuất khẩu trực tiếp. + Mở rộng tăng cường hoạt động quảng cáo. - Cơ chế quản lý các doanh nghiệp sản xuất cà phê. Cơ chế này phải phù hợp với đặc điểm sản xuất kinh doanh của ngành, phù hợp với mô hình kinh tế thị trường có sự điều tiết của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa cần có sự phân định và giải quyết mối quan hệ giữa chức năng kinh tế và chức năng xã hội của các doanh nghiệp nhà nước và giữa chức năng kinh doanh của doanh nghiệp với chức năng quản lý hành chính kinh tế của nhà nước, tránh khuynh hướng nhà nước can thiệp quá sâu hoặc doanh nghiệp tự phát. 4.3. Một số giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu cà phê sang thị trường ASEAN. 4.3.1.Giải pháp vi mô. 4.3.1.1. Các giải pháp về thị trường: Chuyển dịch cơ cấu cây trồng. Có thể tạo bước đột phá về chuyển dịch cơ cấu cây trồng trong phát triển vùng trồng cà phê theo phương thức cổ phần hoá.Ngành cà phê Việt Nam chủ trương đổi mới phương hướng sản xuất cà phê theo hai hướng : Giảm bớt diện tích cà phê Robusta, chuyển các diện tích càphê phát triển kém không có hiệu quả sang các loại cây trông khác. Mở rộng diện tích cà phê Arabica ở những nơi có điều kiện khí hậu đất đai thật thích hợp. Mở rộng mô hình sản xuất cà phê chồn. Từ lợi nhuận khổng lồ mà loại sản phẩm này thu về nên có chính sách phù hợp để phát triển nó. Mục tiêu cuối cùng của chiến lược này là giữ tổng diện tích cà phê không đổi ở mức hiện nay hoặc giảm chút ít, nằm trong khoảng từ 450.000ha đến 500.000ha, nhưng cơ cấu chủng loại cà phê cần thay đổi.Tham khảo từ kinh nghiệm trong nước và quốc tế cho thấy sự chuyển dịch cơ cấu này là hợp lý đối với nông nghiệp Việt Nam cũng như đối với thị trường cà phê quốc tế. Tất nhiên tiến độ chuyển dịch này nhanh hay chậm cũng còn tuỳ thuộc vào khả năng cung cấp tài chính của nhà nước cho nông dân vì đây cũng là một việc làm tốn kém và đòi hỏi một sự chuyển giao kỹ thuật đầy đủ, chu đáo. Ngoài ra vấn đề đổi giống mới tốt hơn cho các vườn cà phê cũng là một khâu quan trọng cần được đầu tư và cũng cần thời gian. Đây cũng là một chương trình trung hạn của ngành cà phê Việt Nam. Mở rộng các chủng loại mặt hang cà phê xuất khẩu không chỉ có cà phê nhân sống. Việt Nam hiện có hai nhà máy sản xuất cà phê hoà tan đang hoạt động, một là Nhà máy cà phê Biên Hoà thuộc VINACAFE, một là của Nestle Thái Lan.Vấn đề là tìm thị trường mở rộng thị trường tiêu thụ để tạo điều kiện mở rộng sản xuất. Vấn đề cà phê dạng lỏng đóng hộp cũng đang được xem xét Mở rộng thị trường cho cà phê ở Việt Nam ở thị trường ASEAN đồng thời xúc tiến việc tiêu thụ cà phê ở thị trường nội địa. Đổi mới, nâng cao hiệu quả của việc tiếp thị, tìm kiếm thị trường là một yêu cầu bức thiết của ngành Việt nam. Hiện nay cà phê Việt nam được xuất sang trên 50 quốc gia và vùng lãnh thổ nhưng còn thiếu những thị trường truyền thống. Những bạn hàng lâu năm, đáng tin cậy còn chưa thật nhiều. Vì vậy càng cần phải tạo sự tin cậy của ngành cà phê Việt Nam với thị trường ASEAN. ASEAN là một thị trường tiềm năng cần phải tập trung khai thác của ngành cà phê Việt Nam. Cần tạo nhiều điều kiện và tìm kiếm nhiều bạn hang ở khu vưc Đông Nam Á đưa ASEAN thành thị trường truyền thống và là bạn hàng lâu năm của ngành cà phê Việt Nam.Ngành cà phê Việt nam cũng còn chưa tham gia các thị trường kỳ hạn. Đó cũng là mặt hạn chế của ngành cà phê . Một vấn đề đáng quan tâm nữa là tiềm năng thị trường trong nước còn chưa được khai thác. Mặc dù người Việt nam có tập quán uống trà từ lâu đời nhưng với lớp trẻ hiện nay việc xúc tiến tiêu thụ cà phê có nhiều triển vọng. - Tổ chức tốt công tác thông tin,dự báo thị trường và thông tin thương mại Thông tin thị trường là yếu tố quan trọng với bất kỳ ngành sản xuất sản phẩm nào,với ngành cà phê cũng vậy thong tin là yếu tố quan trọng trong việc đưa ra các quyết đinh về phát triển sản phẩm. Công tác dự báo thị trường phải được tổ chức một cách chặt chẽ và theo những thong tin chính xác từ công tác dự báo nhà quản lý mới đưa ra quyết định cho sản xuất và hướng đi cho thị trường cà phê. - Đầu tư xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng phục vụ cho ngành cà phê. Áp dụng công nghệ sau thu hoạch tiên tiến đổi mới thiết bị nâng cao chất lượng sản phẩm kết hợp với bảo vệ môi trường. Trong những năm gần đây công nghiệp sơ chế cà phê ở Việt Nam đã có nhiều tiến bộ. Người ta đã trang bị thêm nhiều thiết bị mới chất lượng tốt trong chế biến. Tuy nhiên với cà phê Arabica thì chế biến vẫn còn là một việc làm có nhiều khó khăn, đặc biệt là ở khâu đầu tiên lột vỏ quả, làm sạch nhớt. Nhiều nơi có khó khăn vì lượng nước sạch dùng cho chế biến quá lớn và nó cũng dẫn đến khó khăn về xử lý nước thải không gây ô nhiễm môi trường. Các chuyên gia nước ngoài trong chương trình GTZ của Đức và dự án ba bên của các tập đoàn nước ngoài thực hiện ở Công ty hồ tiêu Tân Lâm - Quảng Trị đã đạt kết quả tốt trong khâu xử lý nước thải. Và việc nghiên cưu khoa học kỹ thuật nông lâm nghiệp EakMat ở ĐakLak đang nghiên cứu sử dụng máy làm sạch nhớt kiểu Penagos rất tiết kiệm nước của Colombia cũng hứa hẹn nhiều triển vọng. Việc chuẩn bị thực hiện dự án nâng cao chất lượng cà phê thong qua ngăn ngừa sự hình thành nấm mốc cũng có một vị trí quan trọng trong việc cải tiến chất lượng cà phê. - Bồi dưỡng các bộ trong ngành cà phê Các cán bộ lãnh đạo, quản lý, đặc biệt là quản lý cấp cơ sở có vai trò then chốt trong việc xây dựng lãnh đạo đưa ra hệ thống văn bản cũng như chính sách phát triển hướng đi cho sản phẩm cà phê của nước ta Để đạt được hiệu quả trong công tác quản lý đội ngũ lãnh đạo và quản lý phải có kiến thức và kỹ năng phù hợp, đủ năng lực giải quyết các vấn đề đặt ra của sự phát triển ngành cà phê theo cơ chế thị trường.Có thể quản lý ,chỉ đạo, điều hành tốt công việc được giao, đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý cần có những kiến thức, kỹ năng rất cụ thể đó là phải có tầm nhìn chiến lược, kỹ năng quản trị nội bộ, kỹ năng phân tích chính sách, kỹ năng ra quyết định, kỹ năng quản lý sự thay đổi. Do vậy việc bồi dưỡng cán bộ phải luôn được chú trọng, các bộ ngành có lien quan cần thường xuyên tổ chức các buổi nâng cao kỹ năng nghiệp cụ và trình độ chuyên môn cho các cán bộ cũng như các buổi huấn luyện thực hành học tập kinh nghiệm của các nước có ngành cà phê phát triển. 4.3.1.2. Giải pháp nâng cao sức cạnh tranh cho mặt hàng cà phê. Về phương hướng, nâng cao năng lực cạnh tranh của cà phê Việt Nam trên cơ sở khai thác tối đa lợi thế so sánh của sản phẩm trên thị trường xuất khẩu và nội địa; phát triển toàn diện, bền vững, hiện đại hóa đồng bộ các khâu: sản xuất nông nghiệp – chế biến công nghiệp – giao dịch thương mại. Đến năm 2020, toàn bộ sản phẩm cà phê Việt Nam được sản xuất – chế biến hợp chuẩn, hợp quy, giao dịch bình đẳng tại các sàn giao dịch trong nước và nước ngoài với giá bán ngang bằng hoặc cao hơn giá sản phẩm cùng loại trên thị trường; giá trị gia tăng của sản phẩm do yếu tố chất lượng mang lại tăng từ 30 – 50% (tính theo giá cố định); hạn chế tối đa những thiệt hại đối với ngành cà phê do sự biến động bất lợi của thị trường thế giới; góp phần ổn định cuộc sống, cải thiện thu nhập của người trồng cà phê, trong đó phần đông là đồng bào các dân tộc thiểu số; nâng cao lợi nhuận của doanh nghiệp và vị thế của cà phê Việt Nam trên trường quốc tế; đóng góp đáng kể vào quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa Đất nước. 1. Xây dựng chiến lược phát triển thị trường, điều chỉnh hợp lý cơ cấu sản phẩm hướng đến các thị trường có giá trị gia tăng cao. – Xây dựng chiến lược phát triển thị trường đối với cà phê nước ta đến năm 2015, 2020 và xa hơn. Chú trọng các thị trường có khả năng tiêu thụ lớn, như Trung Quốc, Đông Âu. – Điều chỉnh cơ cấu sản phẩm theo hướng: + Tăng tỷ lệ xuất khẩu cà phê nhân sang các thị trường cao cấp, phấn đấu đến 2015 có 50 – 70% sản lượng cà phê Việt Nam tham gia giao dịch tại các sàn giao dịch quốc tế có chất lượng cao. + Phát triển mạnh cà phê hoà tan, cà phê rang xay, nâng mức chế biến sâu các sản phẩm cà phê đạt 20% vào năm 2015 và 30% vào năm 2020. + Tăng mức tiêu dùng nội địa đạt 10 – 15% tổng sản lượng. 2. Ổn định diện tích trồng cà phê theo quy hoạch; thực hành các quy trình canh tác bền vững. –Triển khai quy hoạch chi tiết và ổn định diện tích trồng cà phê phù hợp với quyết định 150/2005/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ. Theo đó diện tích ổn định từ 450.000-500.000 ha, sản lượng khoảng 1 triệu tấn, trong đó cà phê arabica (chè) chiếm khoảng 10% diện tích ở những vùng có điều kiện sinh thái phù hợp. Tiếp tục phát huy ưu thế của cà phê robusta (vối) ở các tỉnh Tây Nguyên; tiến hành thâm canh cao 200.000 ha cà phê theo quyết định số 3988/QĐ-BNN-TT của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Đối với diện tích cà phê không đúng quy hoạch, nơi có dộ dốc cao, vùng đất trũng, xa nguồn nước tưới cần chuyển sang trồng cây khác. –Triển khai có hiệu quả chương trình giống, nghiên cứu và chuyển giao nhanh vào sản xuất các loại giống mới có năng suất, chất lượng, độ đồng đều cao, đáp ứng đủ nhu cầu giống cho cải tạo, trồng mới. Thực hành các giải pháp kỹ thuật để lai ghép các dòng vô tính cao sản, chất lượng cao, kháng bệnh, chín muộn và đồng đều trong cải tạo các vườn cà phê già cỗi. Nâng cấp và đầu tư mới các trung tâm nhân giống, phấn đấu ở mỗi tỉnh có một trung tâm, mỗi huyện có một trạm giống. –Tăng cường cây che bóng, áp dụng quy trình thâm canh thực hành nông nghiệp tốt (GAP), thân thiện với môi trường; từng bước nâng tỷ lệ áp dụng sản xuất bền vững, sản xuất cà phê có chứng chỉ đạt 50% diện tích vào năm 2015 và 80% vào năm 2020. –Tổ chức và hướng dẫn nông dân thu hái đúng kỹ thuật; có các biện pháp kinh tế để ngăn chặn tình trạng hái “tuốt cành, hạn chế đến mức thấp nhất tỷ lệ quả non xanh. 3. Tập trung nâng cao chất lượng, đa dạng hoá sản phẩm chế biến; xây dựng và khẳng định thương hiệu cà phê Việt Nam trên trường Quốc tế. –Đầu tư, nâng cấp hệ thống sân phơi và máy sấy đối với việc sơ chế bằng phương pháp khô. Khuyến khích nông dân hợp tác, thực hiện việc sơ chế cà phê thóc quy mô lớn và áp dụng phương pháp chế biến ướt, hoặc bán ướt đối với cả cà phê vối, đảm bảo phẩm cấp nguyên liệu cho các quá trình chế biến tiếp theo. –Từng bước hiện đại hoá các cơ sở tái chế – phân loại cà phê nhân xuất khẩu. Khuyến khích các doanh nghiệp chủ động đầu tư trang bị các máy, thiết bị tiên tiến, áp dụng tự động hoá dây chuyền sản xuất và giám sát chất lượng sản phẩm, áp dụng hệ thống quản lý theo tiêu chuẩn ISO: 9000, HACCP, ISO: 14000; đảm bảo từ sau năm 2010, hầu hết các cơ sở chế biến cà phê nhân xuất khẩu tuân thủ các tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật quốc gia, phù hợp với yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế. –Tăng cường năng lực chế biến sâu, khuyến khích doanh nghiệp trong nước và nước ngoài đầu tư chế biến cà phê hòa tan, cà phê rang xay…đến 2015 đạt sản lượng từ 10.000 – 15.000 tấn/năm, trong đó 50% xuất khẩu. –Tập trung đầu tư nghiên cứu chế tạo trong nước các dây chuyền sản xuất cà phê công suất nhỏ và vừa, có công nghệ hiện đại, phù hợp với quy mô sản xuất. Chú trọng các biện pháp xử lý ô nhiễm môi trường đảm bảo sản xuất an toàn, bền vững. –Nâng cao nhận thức của doanh nghiệp trong việc xây dựng thương hiệu, củng cố sự tin cậy đối với khách hàng và là công cụ bảo vệ lợi ích của doanh nghiệp. Trên cơ sở cải thiện chất lượng sản phẩm, ngành cà phê và từng doanh nghiệp phải tích cực xúc tiến việc xây dựng và phát triển thương hiệu cà phê Việt Nam nói chung và của mỗi doanh nghiệp nói riêng, từng bước khẳng định xuất xứ và uy tín của cà phê Việt Nam trên trường quốc tế. 4. Xây dựng hệ thống tiêu thụ cà phê hiện đại, thích ứng với quá trình giao dịch mua bán trong nước và quốc tế . Hoàn thiện hệ thống thông tin về môi trường kinh doanh, thông tin về hệ thống phân phối, giá cả mặt hàng hiện hành…chủ động áp dụng thương mại điện tử trong giao dịch mua, bán, ký gửi cà phê trong nước và quốc tế. Trên cơ sở đúc rút kinh nghiệm sàn giao dịch hiện có ở Buôn Mê Thuột và học tập kinh nghiệm các sàn giao dịch lớn trên thế giới, tiến hành xây dựng Đề án phát triển hệ thống thương mại cà phê ở nước ta, bảo đảm tính hiện đại, văn minh thương mại và thích ứng với quá trình mua, bán, ký gửi ở từng vùng trong nước và quốc tế. Phấn đấu đến năm 2015, đầu tư xây dựng và đưa vào hoạt động 02 sàn giao dịch cà phê tại Tây Nguyên và Thành phố Hồ Chí Minh, áp dụng các phương thức mua bán hiện đại như giao dịch kỳ hạn…phòng ngừa rủi ro khi có biến động giá trên thị trường; thí điểm đưa cà phê Việt Nam giao dịch tại các sàn giao dịch quốc tế (New York; Luân Đôn). 5. Đổi mới các hình thức tổ chức sản xuất, tạo liên kết, gắn bó lợi ích giữa người trồng, doanh nghiệp chế biến và các cơ sở dịch vụ. –Phát triển hình thức kinh tế hợp tác, hộ trang trại sản xuất lớn. Nhà nước có cơ chế, chính sách khuyến khích nông dân tích tụ đất, hình thành các tổ hợp tác, nhóm nông hộ sản xuất cà phê. –Thực hiện liên kết “4 nhà”, trong đó các doanh nghiệp cần chủ động liên kết với các hộ nông dân, hỗ trợ sản xuất, phân phối lợi ích hợp lý, để phát triển vùng nguyên liệu theo quy hoạch, nhằm ổn định sản lượng và chất lượng nguyên liệu cho chế biến. –Khuyến khích hình thành các doanh nghiệp nông nghiệp trên cơ sở người dân đóng góp cổ phần bằng giá trị quyền sử dụng đất và giá trị vườn cà phê để tổ chức sản xuất lớn theo hướng bền vững, bảo vệ tài sản và cùng hưởng lợi thông qua sản xuất, chế biến, dịch vụ và hỗ trợ của Nhà nước (như đầu tư đường, thuỷ lợi, giống, khuyến nông, bảo vệ thực vật…). 6. Tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách hỗ trợ ngành cà phê phát triển, nâng cao hiệu quả sản xuất – kinh doanh. Phối hợp với các cơ quan hữu quan, nghiên cứu, đề xuất với Chính phủ các chính sách khuyến khích, hỗ trợ nông dân, các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế tổ chức sản xuất lớn, an toàn, bền vững. Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi để hình thành hệ thống giao dịch, ký, gửi cà phê đảm bảo đầy đủ tính pháp lý, công khai, minh bạch, tạo điều kiện mang lại nhiều giá trị hơn cho người trồng cà phê. Mở rộng và nâng cấp hệ thống thông tin chuyên ngành để giúp cho người dân, doanh nghiệp đầu tư phát triển sản xuất phù hợp với nhu cầu của thị trường và tiêu thụ sản phẩm có hiệu quả. Tiếp tục hoàn thiện chính sách, hỗ trợ xúc tiến thương mại, khuyến khích xuất khẩu thông qua Hiệp hội ngành hàng. Chuyển từ chính sách can thiệp thị trường, trợ cấp xuất khẩu sang hỗ trợ nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của cà phê trên thị trường trong nước, khu vực và quốc tế, như: thành lập các trung tâm giới thiệu sản phẩm ở nước ngoài, tham gia hội chợ, triển lãm, quảng bá sản phẩm. Khuyến khích các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh cà phê thành lập Quỹ xúc tiến thương mại, Quỹ bảo hiểm ngành hàng để thực hiện các chương trình quảng cáo kích cầu cà phê trong nước và khắc phục rủi ro trong sản xuất – kinh doanh, đặc biệt trước những biến động tiêu cực của thị trường cà phê thế giới. Tổng dự toán vốn đầu tư toàn xã hội để thực hiện Đề án nâng cao năng lực cạnh tranh cà phê Việt Nam đến 2015 là 32.759 tỷ đồng. Trong đó, nguồn vốn được phân bổ: –Từ Ngân sách nhà nước, tập trung chủ yếu cho đầu tư kết cấu hạ tầng (giao thông, thủy lợi, phục vụ sản xuất, hỗ trợ xây dựng hạ tầng thương mại…); nghiên cứu khoa học, khuyến nông, xúc tiến thương mại: 469 tỷ đồng, chiếm 1,5 %; –Từ nguồn tài trợ ODA cho đầu tư cải tạo, thâm canh, thực hiện sản xuất an toàn, bền vững: 13.705 tỷ đồng, chiếm 41,8%; –Nguồn vốn tự có của các doanh nghiệp và nông dân: 18.585 tỷ đồng, chiếm 56,7%. 4.3.2. Giải pháp vĩ mô 4.3.2.1. Cần tạo lập môi trường pháp lý thuận lợi cho doanh nghiệp xuất khẩu cà phê của Việt Nam từng bước nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường ASEAN. Một là: hoàn thiện môi trường pháp lý, tạo thuận lợi cho việc thành lập và hoạt động của doanh nghiệp, đơn giản hoá, minh bạch hoá các quy định liên quan đến điều kiện gia nhập thị trường, hoạt động kinh doanh. Nghiên cứu sửa đổi, bổ sung những điều khoản của Nghị định 90/2001/NĐ-CP của Chính phủ về trợ giúp phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ, cụ thể hoá quản lý Nhà nước đối với xúc tiến phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa như hỗ trợ tiếp cận nguồn tài chính, kỹ thuật công nghệ, phương thức hỗ trợ. Sửa đổi, bổ sung các luật thuế để cải tiến toàn diện hệ thống thuế theo hướng đơn giản và điều chỉnh mức thuế phù hợp với quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Mở rộng phạm vi thực hiện cơ chế tự kê khai, tính thuế, tự nộp thuế, quy định rõ quyền và trách nhiệm của cơ quan thuế, đối tượng nộp thuế và các tổ chức, cá nhân có liên quan. Hai là: tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp tiếp cận đất đai để làm mặt bằng sản xuất. Tiếp tục triển khai thực hiện luật Đất đai, các văn bản dưới luật, phát huy tính tự chủ của UBND các cấp, nâng cao vai trò, trách nhiệm của các ngành chức năng. Rà soát lại quỹ đất, lập quy hoạch, kế hoạch chi tiết sử dụng đất đến cấp xã, phường, thực hiện công khai, minh bạch, giúp doanh nghiệp có nhu cầu chính đáng có đất, địa điểm phục vụ sản xuất kinh doanh. Ba là: nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Thiết lập môi trường pháp lý thuận lợi cho việc phát triển thị trường dịch vụ phát triển kinh doanh. Tiếp tục triển khai thực hiện chương trình trợ giúp đào tạo nguồn nhân lực cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ, nâng cao hiệu quả bồi dưỡng kiến thức khởi nghiệp, quản trị doanh nghiệp cho đội ngũ doanh nhân. Có chính sách khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư ứng dụng công nghệ, thiết bị tiên tiến hiện đại, sản xuất sản phẩm mới có sức cạnh tranh, có khả năng xuất khẩu. 4.3.2.2. Xây dựng chính sách để phát triển mặt hàng xuất khẩu chủ lực Cà phê sang thị trường ASEAN. - Nâng cao chất lượng cà phê Việt Nam và sản xuất cà phê giá trị gia tăng - Mở rộng các chủng loại mặt hàng cà phê - Sản xuất cà phê chất lượng cao, cà phê hữu cơ, cà phê đặc biệt, hảo hạng - Có nghiên cứ khoa học chuyển dịch cơ cấu sản phẩm Robusta và Arabica - Nỗ lực xây dựng thương hiệu cà phê 4.3.2.3. Gắn nhập khẩu công nghệ thiết bị máy móc chất lượng cao với xuất khẩu cà phê. - Đổi mới công nghệ, thiết bị chế biến, khuyến khích áp dụng tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm nhà nước phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế. Đẩy mạnh xuất khẩu cà phê theo tiêu chuẩn TCVN4193-2001. - Hiện đại hóa công nghệ sau thu hoạch như phơi, sấy, bảo quản, vận chuyển, chế biến cà phê lâu năm theo hướng đồng bộ. Tổ chức thu gom hàng hóa trên cơ sở ký kết hợp đồng đầu tư ứng trước và tiêu thụ sản phẩm giữa người sản xuất với các doanh nghiệp kinh doanh, chế biến, xuất khẩu cà phê. Nâng cấp hệ thống kết cấu hạ tầng nông thôn, nhất là điện, đường giao thông ở các vùng sản xuất cà phê lớn, chất lượng cao. Thu hút mạnh các dự án FDI vào sản xuất và chế biến cà phê lâu năm bằng các chính sách và cơ chế hấp dẫn. 4.3.2.4. Hỗ trợ tín dụng cho các doanh nghiệp xuất khẩu cà phê sang thị trường ASEAN. Xây dựng môi trường tài chính linh hoạt, năng động để doanh nghiệp dễ dàng tiếp cận các nguồn vốn, loại hình tín dụng. Ðẩy mạnh việc tái cơ cấu các ngân hàng thương mại Nhà nước để cung cấp các dịch vụ hiệu quả hơn, chú trọng phục vụ các doanh nghiệp dân doanh, đơn giản hóa thủ tục, nới lỏng các điều kiện cho vay. Triển khai nhanh lập quỹ bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp tại các địa phương, thành lập thí điểm một số quỹ đầu tư mạo hiểm cấp vốn cho doanh nghiệp. Hoàn thiện khung pháp lý cho hoạt động của thị trường cho thuê tài chính, phát triển thị trường chứng khoán...

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docGi7843i php pht tri7875n xu7845t kh7849u m7863t hng c phamp.doc
Tài liệu liên quan