MỤC LỤC
----
LỜI MỞ ĐẦU
I. NỘI DUNG TÌNH HUỐNG
1.1. Hoàn cảnh xuất hiện của tình huống. 4
1.2. Mô tả tình huống.
II. PHÂN TÍCH TÌNH HUỐNG.
2.1. Mục tiêu phân tích tình huống. 6
2.2. Cơ sở lý luận. 7
2.3. Phân tích diễn biến tình huống. 11
2.4. Nguyên nhân dẫn đến xảy ra tình huống. 16
2.5. Hậu quả tình huống. 17
III.XỬ LÝ TÌNH HUỐNG 18
3.1. Mục tiêu xử lý tình huống. 18
3.2. Xây dựng phương án xử lý tình huống. 18
3.3. Lựa chọn phương án xử lý. 21
IV. KIẾN NGHỊ 23
4.1. Kiến nghị với Đảng, Nhà Nước. 23
4.2. Kiến nghị với cơ quan chức năng. 24
V. KẾT LUẬN 25
TÀI LIỆU THAM KHẢO
LỜI MỞ ĐẦU
Trong thực tiễn xã hội ngày nay, cùng với sự phát triển mạnh mẽ trên các lĩnh vực của đời sống kinh tế-xã hội, tất yếu cũng nảy sinh nhiều sự vụ, sự việc bức xúc, phức tạp liên quan đến những vấn đề quan trọng trong đời sống hàng ngày của mỗi người dân chúng ta. Trong đó, có những vấn đề nổi cộm và còn tồn đọng kéo dài, liên quan đến công tác đầu tư xây dựng cơ bản và quản lý sử dụng đất đai, đó là vấn đề về đền bù, giải phóng mặt bằng để xây dựng các công trình phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế-xã hội.
Để phát triển kinh tế-xã hội nhanh và bền vững, một trong những nội dung cần tập trung thực hiện đó là vấn đề đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội, nhất là đầu tư hệ thống đường giao thông, các công trình phục vụ phát triển kinh tế-xã hội, phúc lợi công cộng, phục vụ dân sinh . Đây là vấn đề có ý nghĩa hết sức quan trọng, là động lực thúc đẩy sự phát triển toàn diện trên các lĩnh vực đời sống kinh tế-xã hội của một địa phương, quốc gia. Muốn thực hiện đầu tư đạt hiệu quả cao, một trong những khâu được xem là quan trọng nhất, cần phải tập trung thực hiện tốt, đó là khâu giải phóng mặt bằng, từ việc khảo sát, đo đạc, kiểm kê, áp giá bồi thường, quyết định thu hồi đất, đến khâu giải quyết các khiếu nại có liên quan, bàn giao mặt bằng, để đẩy nhanh tiến độ triển khai thi công, sớm hoàn thành công trình, đưa vào sử dụng
Đây cũng là những vấn đề rất thiết thực, bức xúc, nhưng lại rất đa dạng, diễn ra phức tạp, kéo dài và phát sinh khiếu nại liên tục. Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, quy định, ban hành nhiều loại văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến đất đai, về vấn đề bồi thường, hỗ trợ và tái định cư trong việc thu hồi đất, giải quyết các vấn đề liên quan đến công tác giải phóng mặt bằng xây dựng công trình. Các cơ quan có thẩm quyền, các ngành chức năng đã có nhiều cố gắng trong việc tìm hiểu, nghiên cứu, tìm ra nhiều giải pháp hữu hiệu nhất để tập trung thực hiện, nhưng thực tế vẫn còn những tồn tại, hạn chế nhất định; thậm chí có một số vụ, việc phát sinh trong công tác giải phóng mặt bằng kéo dài, gặp rất nhiều khó khăn, vướng mắc trong việc giải quyết, xử lý cho dứt điểm.
Về phía bản thân, mặc dù đang công tác ở cơ quan Đảng, nhưng cũng là người đang thực thi chức năng, nhiệm vụ là: trực tiếp tham mưu, phục vụ cho Thường trực Thị uỷ, Ban Thường vụ Thị uỷ Sa Đéc lãnh đạo, chỉ đạo phát triển toàn diện các lĩnh vực kinh tế-xã hội ở địa phương; trong đó, có nội dung tham mưu đề xuất các giải pháp lãnh đạo, chỉ đạo tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc, khắc phục những tồn tại, hạn chế, đẩy nhanh tiến độ giải phóng mặt bằng để khẩn trương thi công hoàn thành các công trình xây dựng cơ bản ở thị xã Sa Đéc.
Qua việc nhận thức được những yêu cầu bức xúc, tầm quan trọng và ý nghĩa của vấn đề nêu trên; với những kiến thức về lý luận quản lý Nhà nước đã được các Thầy, Cô truyền đạt, trang bị, cùng với việc nghiên cứu các tài liệu và tình hình thực tiễn ở địa phương, tôi quan tâm và chọn Đề tài: “Xử lý tình huống trong việc giải phóng mặt bằng Công trình xây dựng kè và cống thoát nước rạch Đình kênh Đông, rạch Đình kênh Tây thuộc khóm 4-phường 1-thị xã Sa Đéc” để làm đề tài cuối khoá “Lớp bồi dưỡng kiến thức quản lý nhà nước chương trình chuyên viên chính-khoá 12 năm 2011 .
Nội dung của Đề tài nhằm mô tả, phân tích quá trình diễn biến, nguyên nhân, hậu quả của tình huống, đồng thời đưa ra phương án giải quyết khả thi, tối ưu, cùng với bài học kinh nghiệm tổ chức thực hiện, những đề xuất kiến nghị mang tính chung nhất, góp phần tổ chức thực hiện, giải quyết đạt hiệu quả cao nhất các vấn đề liên quan đến công tác áp giá bồi thường, hỗ trợ và tái định cư, đặc biệt là đối với các khiếu nại phát sinh trong việc giải phóng mặt bằng để thi công Công trình xây dựng kè và cống thoát nước rạch Đình kênh Đông, rạch Đình kênh Tây thuộc khóm 4-phường 1-thị xã Sa Đéc nói riêng và nói chung cho nhiều công trình khác nữa.
Thật vậy, đây là vấn đề hết sức tế nhị, thiết thực, quan trọng, nhưng cũng rất đa dạng, phức tạp khi tổ chức thực hiện, nhất là đối với bản thân cần phải tiếp tục tìm hiểu, nghiên cứu sâu sắc và toàn diện hơn nữa mới có thể hiểu thấu đáo và phân tích được đầy đủ. Cho nên, về phương pháp nghiên cứu của Đề tài này, tôi chỉ nêu lên được những vấn đề mang tính chung nhất, trên cơ sở kết hợp những kiến thức về lý luận quản lý Nhà nước đã được truyền đạt với thực tiễn nhận thức về đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước và tình hình thực tế ở địa phương, đồng thời có tiếp thu, kế thừa những kết quả nghiên cứu cùng vấn đề này từ các tài liệu khác của những người đi trước, đó là cố gắng bước đầu của bản thân và cũng là cơ sở cho việc vận dụng vào công tác sau này.
Mặc dù đối tượng, phạm vi nghiên cứu tình huống của Đề tài không quá rộng, nhưng thực tiễn tình huống lại rất phong phú, khá phức tạp mà năng lực của bản thân còn nhiều khiếm khuyết, hạn chế; kính mong Quý Thầy, Cô, Bạn đọc thông cảm và bỏ qua đối với những sai sót nhất định, không sao tránh khỏi của lần đầu tiên viết về chuyên đề lĩnh vực này.
28 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 16856 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Giải quyết khiếu nại về bồi thường, giải phóng mặt bằng xây dựng công trình tại phường 1, Thị xã Sa Đéc, tỉnh Đồng Tháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đã được truyền đạt với thực tiễn nhận thức về đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước và tình hình thực tế ở địa phương, đồng thời có tiếp thu, kế thừa những kết quả nghiên cứu cùng vấn đề này từ các tài liệu khác của những người đi trước, đó là cố gắng bước đầu của bản thân và cũng là cơ sở cho việc vận dụng vào công tác sau này.
Mặc dù đối tượng, phạm vi nghiên cứu tình huống của Đề tài không quá rộng, nhưng thực tiễn tình huống lại rất phong phú, khá phức tạp mà năng lực của bản thân còn nhiều khiếm khuyết, hạn chế; kính mong Quý Thầy, Cô, Bạn đọc thông cảm và bỏ qua đối với những sai sót nhất định, không sao tránh khỏi của lần đầu tiên viết về chuyên đề lĩnh vực này.
Xin chân thành cám ơn Ban Giám hiệu, giáo viên, cán bộ, công nhân viên trường Chính trị tỉnh Đồng Tháp đã tận tình giúp đỡ, hướng dẫn, tạo điều kiện cho tôi hoàn thành Chương trình học tập này.
NỘI DUNG TÌNH HUỐNG
Hoàn cảnh xuất hiện của tình huống
Thị xã Sa Đéc là một trong hai đô thị trung tâm kinh tế, văn hoá của Tỉnh Đồng Tháp; có tiềm năng, lợi thế phát triển mạnh về công nghiệp-xây dựng, thương mại-dịch vụ; vị trí địa lý và hệ thống giao thông đường bộ, đường thuỷ khá thuận lợi trong liên kết và hợp tác cùng phát triển với các huyện phía Nam thuộc Vùng Sa Đéc của Tỉnh (gồm: thị xã Sa Đéc, huyện Lấp Vò, Lai Vung, Châu Thành) và các trung tâm phát triển kinh tế Vùng Đồng bằng sông Cửu long (thành phố Cần Thơ, Long Xuyên, thị xã Vĩnh Long). Đầu tư phát triển thị xã Sa Đéc giữ vững và phát huy vai trò trung tâm kinh tế năng động, xứng đáng là đô thị loại III “xanh, sạch, đẹp”, có ý nghĩa quan trọng về nhiều mặt và là động lực thúc đẩy nhanh sự phát triển chung của toàn Vùng Sa Đéc và cả Tỉnh.
Trong những năm qua, mặc dù còn gặp nhiều khó khăn, thách thức, nhưng được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, hỗ trợ đầu tư của Trung ương, của Tỉnh, cùng với sự nỗ lực và quyết tâm cao của các cấp, các ngành và nhân dân Sa Đéc đã tập trung thực hiện có hiệu quả các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội của thị xã theo Kế hoạch đề ra. Kinh tế của thị xã luôn giữ vững ổn định và phát triển theo chiều hướng thuận lợi, năm sau cao hơn năm trước. Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân giai đoạn 2005-2010 đạt 19,56%; cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực, bảo đảm tính hợp lý, hiệu quả; việc huy động, sử dụng các nguồn lực xã hội cho đầu tư phát triển được tập trung thực hiện, đem lại những kết quả đáng phấn khởi; kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội được quan tâm đầu tư, thúc đẩy nhanh tiến trình đô thị hoá, vị thế của Sa Đéc được nâng lên; trong đó, lĩnh vực công nghiệp-xây dựng, chỉnh trang, tạo vẻ mỹ quan, phát triển đô thị, bảo vệ môi trường được thị xã chọn làm mũi đột phá, tạo tiền đề thuận lợi cho bước phát triển nhanh và bền vững ở các lĩnh vực khác.
Xuất phát từ yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội, tình hình thực tế của địa phương và nhu cầu bức xúc của nhân dân, nhất là trong lĩnh vực cấp thoát nước và vệ sinh môi trường đô thị; ngoài nguồn vốn đầu tư của Trung ương, của Tỉnh, thị xã Sa Đéc đã tập trung huy động tốt các nguồn vốn khác để đầu tư phát triển mạnh cho lĩnh vực này; trong đó, thị xã đã tranh thủ được nguồn vốn đầu tư từ Dự án nước sạch và vệ sinh môi trường do Chính phủ Úc (Australia) tài trợ tại 03 thị xã của Đồng bằng sông Cửu long gồm: thị xã Bạc Liêu, Hà Tiên và Sa Đéc. Dự án bắt đầu chính thức đi vào hoạt động vào tháng 10 năm 2000.
Tại thị xã Sa Đéc, Dự án có 06 mục tiêu phát triển chính, bao gồm: cấp nước, thoát nước, xử lý nước thải, chất thải rắn, xây dựng bờ kè, tăng cường năng lực và phát triển cộng đồng. Đến nay, thị xã đã có 06/06 dự án, công trình, hạng mục công trình do Chính phủ Úc tài trợ đang được triển khai thực hiện; trong đó, có Công trình xây dựng kè và cống thoát nước rạch Đình kênh Đông, rạch Đình kênh Tây thuộc khóm 4-phường 1-thị xã Sa Đéc-tỉnh Đồng Tháp. Công trình này trong quá trình tổ chức kiểm kê, áp giá bồi thường đã phát sinh vấn đề khiếu kiện của một số hộ dân nằm trong khu vực giải toả, đòi hỏi các cấp, các ngành chức năng phải tập trung giải quyết nhằm đẩy nhanh tiến độ hoàn thành khâu giải phóng mặt bằng, để bàn giao cho đơn vị thi công tiến hành xây dựng công trình và đây là tình huống của Đề tài được chọn.
Mô tả tình huống
Rạch Đình kênh Đông-kênh Tây thuộc khóm 5, phường 1, thị xã Sa Đéc, tỉnh Đồng Tháp bị ô nhiễm khá nghiêm trọng do thiếu nguồn nước lưu thông và có nhiều hộ dân sinh sống cặp 02 bờ rạch nhưng chưa ý thức cao trong việc giữ gìn vệ sinh môi trường, xả rác xuống rạch, gây mất vẻ mỹ quan đô thị.
Uỷ ban nhân dân phường 1 đã đề xuất Thị uỷ, Uỷ ban nhân dân thị xã có Kế hoạch giải toả các hộ sống cặp Rạch này để xây dựng kè 02 bên rạch, nhằm khắc phục ô nhiễm môi trường, tạo cảnh quan đô thị.
Xuất phát từ tình hình trên, Thị uỷ, Uỷ ban nhân dân thị xã đã thống nhất chủ trương và tập trung lãnh đạo, chỉ đạo khẩn trương tổ chức thực hiện.
Th chủ trương của Thị uỷ, Uỷ ban nhân dân thị xã; Uỷ ban nhân dân phường 1 đã mời tất cả 256 hộ dân nằm trong khu vực xây dựng công trình để tổ chức cuộc họp công bố chủ trương này và bước đầu các hộ dân đều tán thành.
Các ngành chức năng, các cơ quan, đơn vị có liên quan đã tập trung tổ chức thực hiện các bước quy trình đầu tư theo tiến độ Kế hoạch đề ra; tham mưu Uỷ ban nhân dân thị xã ban hành các quyết định thu hồi đất đối với các hộ dân sống cặp 02 bên rạch.
Sau khi nhận quyết định thu hồi đất, bồi thường thiệt hại, có 59/256 hộ dân khu vực công trình khiếu nại về đơn giá đền bù, sai lệch diện tích đất, loại đất, yêu cầu thêm về đền bù hoa màu, vật kiến trúc, bố trí tái định cư…
Uỷ ban nhân dân thị xã đã tập trung chỉ đạo giải quyết hợp lý, thoả đáng; 58/59 hộ khiếu nại đã đồng ý nhận tiền bồi thường theo quyết định thu hồi đất và đã di dời, bàn giao mặt bằng cho đơn vị xây dựng.
Riêng còn 01 trường hợp của hộ Bà Trần Thị Bảy, ngụ số nhà 470/9 khóm 4-phường 1-thị xã Sa Đéc, sau khi nhận Quyết định của Uỷ ban nhân dân thị xã về việc thu hồi đất, bồi thường thiệt hại; mặc dù hộ này đã thực hiện việc di dời nhà ở, công trình phụ, vật kiến trúc nằm trên phần đất qui hoạch nhưng vẫn chưa chịu bàn giao mặt bằng, với nội dung Bà nêu trong đơn khiếu nại là: Nhà nước chưa cho Bà nhận số tiền bồi thường đã ghi như trong Quyết định (do có phát sinh tranh chấp về đất đai trong nội bộ gia đình, Toà án nhân dân thị xã đang thụ lý giải quyết, nên cơ quan chức năng không cho Bà Bảy nhận tiền) và yêu cầu cơ quan chức năng sớm cho Bà nhận tiền bồi thường và một số yêu cầu khác (05 nội dung).
Sau khi nhận được đơn khiếu nại, Uỷ ban nhân dân thị xã đã ra Quyết định thành lập Tổ công tác của thị xã gồm các thành viên ở các ngành: Thanh tra, Tài chính-Kế hoạch, Tài nguyên-Môi trường, Quản lý đô thị thị xã và Uỷ ban nhân dân phường 1 để giải quyết việc khiếu nại.
PHÂN TÍCH TÌNH HUỐNG
Mục tiêu phân tích tình huống
Sau khi thu thập những sự việc đã xảy ra, thêm một số thông tin được điều tra từ những người lân cận, đảm bảo tính hợp lý, sát thực; mục tiêu phân tích của tình huống cần hướng tới một số vấn đề sau:
Đối với trường hợp khiếu nại của các hộ dân nằm trong khu vực giải toả xây dựng công trình, đặc biệt là của bà Trần Thị Bảy, cần tìm hiểu sâu sát thông tin, tình hình diễn biến, thu thập đầy đủ các chứng cứ, giấy tờ, những người có liên quan để phân tích, chứng minh nội dung khiếu nại là có cơ sở pháp lý hay không để xem xét việc khiếu nại là đúng hay sai. Từ đó áp dụng các quy định của pháp luật hiện hành để tiến hành các bước theo quy trình giải quyết một cách hợp lý, đảm bảo theo luật định.
Đồng thời qua đó chứng minh và trả lời cho các hộ có liên quan hiểu rõ việc các hộ khiếu nại là đúng hay sai.
Cơ sở lý luận
Theo Luật Khiếu nại tố cáo năm 1998 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2004 và năm 2005):
- Các khái niệm:
+ “Khiếu nại” là việc công dân, cơ quan, tổ chức hoặc cán bộ, công chức theo thủ tục do Luật này quy định đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xem xét lại quyết định hành chính, hành vi hành chính hoặc quyết định kỷ luật cán bộ, công chức khi có căn cứ cho rằng quyết định hoặc hành vi đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của mình.
+ “Tố cáo” là việc công dân theo thủ tục do Luật này quy định báo cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền biết về hành vi vi phạm pháp luật của bất cứ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào gây thiệt hại hoặc đe doạ gây thiệt hại lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức.
+ “Người khiếu nại” là công dân, cơ quan, tổ chức hoặc cán bộ, công chức thực hiện quyền khiếu nại.
+ “Người bị khiếu nại” là cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật bị khiếu nại.
+ “Người giải quyết khiếu nại” là cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền giải quyết khiếu nại.
+ “Quyết định hành chính” là quyết định bằng văn bản của cơ quan hành chính nhà nước hoặc của người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước được áp dụng một lần đối với một hoặc một số đối tượng cụ thể về một vấn đề cụ thể trong hoạt động quản lý hành chính.
+ “Quyết định giải quyết khiếu nại cuối cùng” là quyết định có hiệu lực thi hành và người khiếu nại không được quyền khiếu nại tiếp.
+ “Quyết định giải quyết khiếu nại có hiệu lực pháp luật” bao gồm quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu, quyết định giải quyết khiếu nại lần hai mà trong thời hạn do pháp luật quy định người khiếu nại không khiếu nại tiếp, không khởi kiện vụ án hành chính tại Toà án” (Điều 1, Luật Khiếu nại tố cáo sửa đổi, bổ sung năm 2005).
- Quyền khiếu nại: Khoản 1 Điều 1 quy định “Công dân, cơ quan, tổ chức có quyền khiếu nại quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan hành chính Nhà nước, của người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính Nhà nước khi có căn cứ cho rằng quyết định, hành vi đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của mình”.
- “Cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm kiểm tra, xem xét lại quyết định hành chính, hành vi hành chính hoặc quyết định kỷ luật của mình, nếu thấy trái pháp luật thì kịp thời sửa chữa, khắc phục để tránh phát sinh khiếu nại” (Điều 3)
- “Cơ quan, tổ chức, cá nhân trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm tiếp người đến khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh; tiếp nhận và giải quyết kịp thời, đúng pháp luật khiếu nại, tố cáo; xử lý nghiêm minh người vi phạm; áp dụng biện pháp cần thiết nhằm ngăn chặn thiệt hại có thể xảy ra; bảo đảm cho quyết định giải quyết được thi hành nghiêm chỉnh và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về quyết định của mình” (Điều 5 ).
- Người có trách nhiệm giải quyết khiếu nại, tố cáo mà không giải quyết, thiếu trách nhiệm trong việc giải quyết hoặc cố tình giải quyết trái pháp luật phải bị xử lý nghiêm minh, nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật” (Điều 6).
- “Cơ quan, tổ chức hữu quan có trách nhiệm phối hợp với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo; cung cấp thông tin, tài liệu có liên quan đến việc khiếu nại, tố cáo theo yêu cầu của cơ quan, tổ chức, cá nhân đó” (Điều 7).
- “Quyết định giải quyết khiếu nại phải được mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng. Quyết định giải quyết khiếu nại có hiệu lực pháp luật phải được cá nhân, cơ quan, tổ chức hữu quan nghiêm chỉnh chấp hành. Người có trách nhiệm thi hành quyết định giải quyết khiếu nại mà không thi hành phải bị xử lý nghiêm minh” (Khoản 1, Điều 8).
+ Người giải quyết tố cáo phải xem xét, kết luận về nội dung tố cáo, nếu có vi phạm thì phải kịp thời xử lý hoặc yêu cầu người có thẩm quyền xử lý người vi phạm.
+ Người bị thiệt hại được khôi phục quyền, lợi ích hợp pháp đã bị xâm phạm, được bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật.
- Uỷ ban nhân dân các cấp trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình tổ chức, chỉ đạo việc giải quyết khiếu nại, tố cáo; quản lý nhà nước về công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo trong phạm vi địa phương mình (Khoản 2, Điều 8).
- Thanh tra nhà nước các cấp trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình thanh tra việc chấp hành pháp luật về khiếu nại, tố cáo của các cơ quan hành chính nhà nước; xem xét, giải quyết khiếu nại, tố cáo theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật (Điều 10).
- Người khiếu nại có các quyền và nghĩa vụ sau (Điều 10):
+ Quyền: Tự mình khiếu nại …; Biết các bằng chứng để làm căn cứ giải quyết khiếu nại; đưa ra bằng chứng về việc khiếu nại và giải trình ý kiến của mình về bằng chứng đó; Được khôi phục quyền, lợi ích hợp pháp đã bị xâm phạm, được bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật; Khiếu nại tiếp hoặc khởi kiện vụ án hành chính tại Toà án theo quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo và pháp luật về tố tụng hành chính; Rút khiếu nại trong quá trình giải quyết khiếu nại…
+ Nghĩa vụ: Khiếu nại đến đúng người có thẩm quyền giải quyết; Trình bày trung thực sự việc, cung cấp thông tin, tài liệu cho người giải quyết khiếu nại; chịu trách nhiệm trước pháp luật về nội dung trình bày và việc cung cấp thông tin, tài liệu đó; Chấp hành nghiêm chỉnh quyết định giải quyết khiếu nại đã có hiệu lực pháp luật.”
- Người bị khiếu nại có các quyền và nghĩa vụ sau:
+ Quyền: Biết các căn cứ khiếu nại của người khiếu nại; Đưa ra bằng chứng về tính hợp pháp của quyết định hành chính, hành vi hành chính bị khiếu nại; Nhận quyết định giải quyết khiếu nại của người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần hai hoặc bản án, quyết định của Toà án đối với khiếu nại mà mình đã giải quyết nhưng người khiếu nại tiếp tục khiếu nại hoặc khởi kiện vụ án hành chính tại Toà án.
+ Nghĩa vụ: Tiếp nhận, thông báo bằng văn bản cho người khiếu nại về việc thụ lý để giải quyết khiếu nại đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính bị khiếu nại; Giải trình về tính hợp pháp, đúng đắn của quyết định hành chính, hành vi hành chính bị khiếu nại, cung cấp thông tin, tài liệu liên quan khi người giải quyết khiếu nại lần hai yêu cầu; Chấp hành nghiêm chỉnh quyết định giải quyết khiếu nại đã có hiệu lực pháp luật;
Như vậy, theo quy định của các Điều Luật nêu trên, thì các hộ dân nằm trong khu vực giải toả công trình xây dựng kè rạch Đình kêng Đông-kênh Tây ở phường 1 thị xã Sa Đéc có quyền khiếu nại quyết định thu hồi đất, bồi thường thiệt hại của tổ chức, người có thẩm quyền theo quy định của pháp luật. Đây là những đối tượng chịu tác động trực tiếp của Quyết định hành chính về bồi hoàn, thu hồi đất, giải phóng mặt bằng do Uỷ ban nhân dân thị xã Sa Đéc ban hành; vì họ có căn cứ cho rằng quyền và lợi ích của mình bị xâm phạm; đồng thời đã thực hiện khiếu nại đúng theo những thủ tục, trình tự mà pháp luật quy định như: thời hiệu khiếu nại, thời hạn khiếu nại, gửi đơn khiếu nại, đơn khiếu nại phải được gửi đến đúng người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại…
- Căn cứ giải quyết Khiếu nại tố cáo:
+ Luật Khiếu nại tố cáo năm 1998 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2004 và năm 2005);
+ Nghị định số 136/2006/NĐ-CP ngày 14 tháng 11 năm 2006 của Chính phủ Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Khiếu nại, tố cáo và các Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Khiếu nại, tố cáo.
+ Thông tư số 01/2009/TT-TTCP ngày 15 tháng 12 năm 2009 quy định quy trình giải quyết tố cáo;
+ Nghị định số 197/2004/NĐ-CP ngày 01 tháng 12 năm 2004 của Chính phủ về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất;
+ Quyết định số 72/QĐ-UBND-TL ngày 12 tháng 9 năm 2002 của Uỷ ban nhân dân tỉnh Đồng Tháp về việc thành lập Hội đồng Đền bù Tái định cư cấp thị xã;
+ Kế họach Tái định cư- Tập I (Khung chính sách tái định cư của Dự án);
+ Phương án Bồi thường, hỗ trợ và tái định cư;
+ Bảng tổng hợp chi tiết tạm tính Phương án Bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khu vực công trình; cùng các qui định có liên quan khác về việc qui định khung chính sách và đơn giá bồi thường giải toả mặt bằng triển khai Dự án Cấp thoát nước và Vệ sinh môi trường tại thị xã Sa Đéc.
+ DỰ ÁN: Xây dựng kè rạch Đình kênh Đông - rạch Đình kênh Tây thuộc địa bàn Khóm 4, Phường 1, thị xã Sa Đéc, tỉnh Đồng Tháp.
+ Các Nghị định của Chính phủ; Quyết định, Qui định của Ủy ban nhân Tỉnh Đồng Tháp; Quyết định và Công văn chỉ đạo của Uỷ ban nhân dân thị xã Sa Đéc có liên quan.
+ Bộ hồ sơ khiếu nại của Bà Trần Thị Bảy đã được thụ lý giải quyết.
Phân tích diễn biến tình huống
Để thực hiện tốt công tác giải phóng mặt bằng, tạo điều kiện đẩy nhanh tiến độ đầu tư xây dựng công trình; các ngành chức năng, các cơ quan, đơn vị có liên quan đã tập trung tổ chức thực hiện các bước theo qui trình, đảm bảo tiến độ Kế hoạch đề ra. Thực hiện tinh thần chỉ đạo của Uỷ ban nhân dân tỉnh Đồng Tháp, Uỷ ban nhân dân thị xã đã ban hành Quyết định số 72/QĐ-UBND-TL ngày 12 tháng 9 năm 2002 về việc thành lập Hội đồng Đền bù Tái định cư cấp thị xã, gồm các thành viên thuộc Uỷ ban nhân dân thị xã và các ngành có liên quan đến công tác giải phóng mặt bằng. Lực lượng này cùng với nhóm chuyên trách Tái định cư của Ban quản lý Dự án cấp nước và Vệ sinh môi trường thị xã (thuộc Công ty Cấp nước và Vệ sinh môi trường tỉnh Đồng Tháp-đơn vị được Uỷ ban nhân dân tỉnh Đồng Tháp giao làm Chủ đầu tư công trình) chịu trách nhiệm soạn thảo các văn bản, kế hoạch tái định cư chi tiết dưới sự hỗ trợ của Công ty Tư vấn Úc (GHD) và Công ty Thiết kế kỹ thuật của Việt Nam (WASE) đồng quản lý, gọi tắt là Nhà thầu Quản lý Úc (AMC).
Căn cứ Nghị định số 197/2004/NĐ-CP của Chính phủ; Kế hoạch tái định cư -Tập 1 (Khung chính sách tái định cư của Dự án) đã được Uỷ ban nhân dân tỉnh Đồng Tháp-đại diện cho Chính phủ Việt Nam ký kết với tổ chức đại diện phía Chính phủ Úc (nhà thầu Quản lý Úc-AMC) vào ngày 02 tháng 7 năm 2002 tại Văn phòng AusAID-thành phố Hồ Chí Minh và Quyết định số 1601/QĐ-UBND-HC ngày 10 tháng năm 2003 của Uỷ ban nhân dân tỉnh Đồng Tháp, cùng các qui định có liên quan khác về việc qui định khung chính sách và đơn giá bồi thường giải toả mặt bằng triển khai Dự án Cấp thoát nước và Vệ sinh môi trường tại thị xã Sa Đéc; đơn vị chủ đầu tư Dự án, Ban Quản lý Cấp nước và Vệ sinh môi trường thị xã đã phối hợp với Tổ Khảo sát, đo đạc, kiểm kê, áp giá bồi thường và tái định cư của Dự án tiến hành thực hiện các bước theo qui trình và xây dựng Bảng tổng hợp chi tiết tạm tính Phương án Bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khu vực công trình.
Ngày 15 tháng 5 năm 2006, đơn vị chủ đầu tư phối hợp cùng Uỷ ban nhân dân phường 1-thị xã Sa Đéc tiến hành niêm yết Bảng tổng hợp tạm tính Phương án áp giá bồi thường, giải phóng mặt bằng tại Uỷ ban nhân dân phường 1, đồng thời tổ chức cuộc họp để thông báo chủ trương xây dựng công trình và lấy ý kiến đóng góp của các hộ dân khu vực công trình đối với Bảng tạm tính áp giá bồi thường.
Qua việc niêm yết và tổ chức lấy ý kiến, các hộ dân đã đóng góp nhiều ý kiến tâm huyết, sát thực liên quan đến việc xây dựng Phương án Bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, nhằm đảm bảo tính chu đáo, chính xác, khả thi, hiệu quả của Phương án. Nhìn chung, đa số hộ dân khu vực công trình đều đồng tình, thống nhất với Dự thảo Phương án đã niêm yết, đồng thời đề nghị Chủ đầu tư và Uỷ ban nhân dân phường 1 sớm tổ chức triển khai thực hiện, đưa công trình vào sử dụng. Tuy nhiên, có một số hộ dân yêu cầu cần điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung một số vấn đề về diện tích đất, loại đất, đơn giá đền bù, về đền bù hoa màu, vật kiến trúc, bố trí tái định cư .v.v… nguyên nhân do trong Dự thảo Phương án tạm tính có một số vấn đề chưa chính xác, phù hợp với thực tế. Đơn vị lập Phương án Bồi thường đã ghi nhận và tiến hành rà soát, kiểm tra, tiếp tục điều chỉnh, bổ sung đối với từng trường hợp cụ thể yêu cầu điều chỉnh và hoàn chỉnh Phương án theo các ý kiến đóng góp hợp lý (các hộ dân đều có ký biên bản khảo sát, đo đạc sau khi điều chỉnh), đồng thời thông qua Hội đồng Đền bù tái định cư thị xã cho ý kiến trước khi trình cấp có thẩm quyền phê duyệt.
Căn cứ Phương án Bồi thường, hỗ trợ và tái định cư công trình xây dựng kè và cống thoát nước rạch Đình kênh Đông, rạch Đình kênh Tây đã được Uỷ ban nhân dân tỉnh Đồng Tháp phê duyệt theo Quyết định số 638/QĐ-UBND-HC ngày 08 tháng 5 năm 2006; Uỷ ban nhân dân thị xã đã ra Quyết định về việc thu hồi quyền sử dụng đất và bồi thường thiệt hại về đất, nhà ở, công trình phụ, hoa màu, hỗ trợ chính sách đối với 263 hộ dân nằm trong khu vực công trình bị ảnh hưởng.
Sau khi nhận quyết định thu hồi đất, bồi thường thiệt hại, đa số các hộ dân khu vực công trình (204/263 hộ) đều nhất trí cao với các nội dung của Quyết định, đồng ý nhận tiền bồi thường và bàn giao đất cho đơn vị thi công. Việc bồi thường, giải phóng mặt bằng diễn ra theo đúng Kế hoạch đề ra; tuy nhiên, quá trình thực hiện đã phát sinh đơn khiếu nại của 59/263 hộ dân khu vực công trình, chủ yếu xoay quanh một số vấn đề như: về đơn giá đền bù, sai lệch diện tích đất, loại đất, yêu cầu thêm về đền bù hoa màu, vật kiến trúc, bố trí tái định cư.
Qua bước đầu tổng hợp, đối chiếu, phân tích của các ngành chức năng; trong tổng số 59 đơn khiếu nại thì có đến 41 đơn khiếu nại với nội dung yêu cầu, đòi hỏi thiếu căn cứ, không hợp lý (chủ yếu đòi nâng giá đền bù) vì không nằm trong các qui định của Phương án Bồi thường, hỗ trợ và tái định cư đã được Uỷ ban nhân dân Tỉnh phê duyệt. Riêng 18 đơn còn lại có những nội dung khiếu nại đúng, có cơ sở, do trong quá trình tổ chức thực hiện công tác khảo sát, đo đạc, kiểm kê, áp giá bồi thường, Tổ công tác đã chủ quan, thực hiện chưa chặt chẽ, đầy đủ, có một số sai sót, nhầm lẫn về cách thức đo đạc, tính toán diện tích, loại đất, khung giá đền bù… cần tập trung nghiên cứu, giải quyết. Xin đơn cử điển hình 01 tình huống cụ thể của hộ Bà Trần Thị Bảy.
Sau khi nhận Quyết định của Uỷ ban nhân dân thị xã về việc thu hồi đất, bồi thường thiệt hại; vào ngày 07 tháng 7 năm 2006, Bà Trần Thị Bảy, ngụ số nhà 470/9 khóm 4-phường 1-thị xã Sa Đéc, tỉnh Đồng Tháp đã làm đơn khiếu nại, với những nội dung trong Đơn Khiếu nại như sau: (Trích lại nguyên văn)
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
----------------------------------
ĐƠN KHIẾU NẠI
-------
Kính gửi: BAN QUẢN LÝ CẤP THOÁT NƯỚC VÀ VỆ SINH MÔI TRƯỜNG THỊ XÃ SA ĐÉC
--------
Tôi tên: Trần Thị Bảy, ngụ số nhà 470/9 khóm 4-phường 1-thị xã Sa Đéc, tỉnh Đồng Tháp. Nay đệ đơn này kính xin quý Ông vui lòng giải đáp những thắc mắc khiếu nại của gia đình chúng tôi:
1- Nhà tôi nằm sát mé lộ đường Nguyễn Cư Trinh, như vậy nhà tôi thuộc cự ly a, nhưng bị xếp loại là cự ly b, kéo theo phần đất lâu năm nằm sát mé lộ và phần hỗ trợ đất lâu năm liền kề đất thổ cũng giảm theo.
2- Phần đất bị Nhà nước thu hồi chiếm hơn 50% đất nhà, xin được mua lại trong khu tái định cư để chia lại cho con đã trưởng thành.
3- Phần gạch lót nền mua 72.000 đồng/m2, trong khi Nhà nước chỉ đền 20.000 đồng/m2.
4- Cửa sắt mua hơn 5.000.000 đồng trong khi Nhà nước chỉ đền 1.670.000 đồng.
5- Xin được hỗ trợ để di dời bàn Bida và phần thu nhập bị thất thu trong lúc di dời nhà.
Trong khi chờ đợi, xin nhận nơi đây lòng biết ơn của gia đình chúng tôi.
Sa Đéc, ngày 07 tháng 7 năm 2006.
(đã ký tên)
Trần Thị Bảy
Sau khi nhận được các đơn khiếu nại, Uỷ ban nhân dân thị xã đã ra Quyết định thành lập Tổ công tác của thị xã gồm các thành viên ở các ngành: Thanh tra, Tài chính-Kế hoạch, Tài nguyên-Môi trường, Quản lý đô thị thị xã và Uỷ ban nhân dân phường 1 để giải quyết việc khiếu nại.
Thực hiện Quyết định của Uỷ ban nhân dân thị xã, Tổ công tác đã tiến hành khảo sát, đo đạc, kiểm tra, thu thập các tài liệu, hồ sơ liên quan Dự án; tổ chức làm việc với các phòng, ban chức năng có liên quan và Uỷ ban nhân dân phường 1, đồng thời tiếp xúc, tổ chức đối thoại trực tiếp với các hộ dân khiếu nại.
Qua xem xét 59 đơn khiếu nại, đối chiếu với các văn bản, báo cáo của Hội đồng Bồi thường thị xã và các qui định có liên quan làm căn cứ để giải quyết; Uỷ ban nhân dân thị xã đã ra Quyết định bác đơn đối với 41/59 đơn khiếu nại, với lý do: nội dung trong các đơn khiếu nại này không phù hợp với qui định tại Phương án Bồi thường, hỗ trợ và tái định cư của Dự án đã được Uỷ ban nhân dân Tỉnh phê duyệt (chủ yếu khiếu nại về đơn giá đền bù).
Đối với 18 đơn khiếu nại còn lại, có một số nội dung hợp lý, cần được tiếp tục xem xét, giải quyết; Uỷ ban nhân dân thị xã đã chỉ đạo Thanh tra thị xã phối hợp với các cơ quan, đơn vị có liên quan và Uỷ ban nhân dân phường 1 tiến hành thẩm tra, xác minh, làm rõ các vấn đề liên quan để có biện pháp giải quyết đồng bộ, thoả đáng các vụ việc.
Qua công tác thẩm tra, xác minh; trên cơ sở xem xét, cân nhắc, đối chiếu với các qui định; đồng thời tiếp xúc, đối thoại trực tiếp với các hộ dân khiếu nại để làm rõ các vấn đề liên quan; Uỷ ban nhân dân thị xã đã ra quyết định giải quyết đối với 18 vụ việc khiếu nại, đảm bảo các bước qui trình giải quyết theo đúng Luật định, tạo điều kiện thuận lợi, nhanh chóng hoàn thành công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng để bàn giao cho đơn vị thi công, sớm đưa công trình vào sử dụng.
Sau khi nhận Quyết định giải quyết, hầu hết các hộ khiếu nại cơ bản đều đồng tình, thống nhất với các nội dung giải quyết được nêu trong quyết định và chấp hành nhận tiền bồi thường, bàn giao mặt bằng cho đơn vị thi công (không có hộ dân nào tiếp tục làm đơn khiếu nại).
Riêng đối với trường hợp của hộ Bà Trần Thị Bảy, ngụ số nhà 470/9 khóm 4-phường 1-thị xã Sa Đéc; mặc dù hộ này đã thực hiện việc di dời nhà ở, công trình phụ, vật kiến trúc nằm trên phần đất qui hoạch nhưng vẫn chưa chịu bàn giao mặt bằng; với lý do Bà nêu là: Nhà nước chưa cho Bà nhận số tiền bồi thường đã ghi như trong Quyết định (do có phát sinh tranh chấp về đất đai trong nội bộ gia đình, Toà án nhân dân thị xã đang thụ lý giải quyết, nên cơ quan chức năng không cho Bà Bảy nhận tiền) và yêu cầu cơ quan chức năng sớm cho Bà nhận tiền bồi thường và một số yêu cầu khác như trong Đơn khiếu nại nêu trên (05 nội dung).
Qua đánh giá, phân tích diễn biến của vụ việc và theo dõi tình hình nêu trên, bản thân xin trình bày nguyên nhân xảy ra và hậu quả và đề xuất, lựa chọn phương án xử lý như sau:
Nguyên nhân dẫn đến xảy ra tình huống
Nguyên nhân xảy ra tình huống khiếu nại nêu trên là do:
- Công tác quản lý đất đai của ngành chức năng và chính quyền địa phương có mặt chưa chặt chẽ, dẫn đến việc đo đạc số diện tích đất thực tế so với diện tích ghi trong Giấy Chứng nhận quyền sử dụng đất ở một số hộ chưa khớp, có sự chênh lệch; việc xác định loại đất để áp giá đền bù chưa sát hợp.
- Công tác khảo sát, đo đạc, kiểm kê, áp giá bồi thường của ngành chức năng tuy được tập trung thực hiện các bước theo qui trình, nhưng quá trình thực hiện đã thể hiện tính chủ quan, thiếu chặt chẽ, dẫn đến việc đo đạc, ghi chép có trường hợp nhầm lẫn, bỏ sót, thiếu chính xác.
- Một số hộ dân chưa thông hiểu và nắm vững các qui định của Nhà nước về vấn đề bồi thường, hỗ trợ và tái định cư; hoặc hiểu chưa đúng, hiểu sai lệch vấn đề, dẫn đến việc khiếu nại.
- Thời gian từ lúc tiến hành kiểm kê, đo đạc, áp giá bồi thường đến khi trao Quyết định thu hồi đất và bồi tường thiệt hại cho các hộ dân khá dài (khoảng từ vài tháng đến 01 năm); do vậy, mức giá áp dụng ở thời điểm kiểm kê so với thời điểm trao Quyết định có sự chênh lệnh, từ đó dẫn đến khiếu nại.
- Khi nghe thông tin, dư luận qui hoạch đối với khu đất xây dựng công trình thì giá đất tại thời điểm trước khi có qui hoạch và khi ngành chức năng tiến hành qui hoạch sẽ có mức chênh lệch rất lớn, thậm chí giá tăng đột biến, gây ra rất nhiều khó khăn khi tiến hành áp giá, bồi thường, đồng thời sẽ phát sinh nhiều khiếu nại, yêu cầu nâng giá đất bồi thường.
Trong các nguyên nhân trên, nguyên nhân chủ yếu là do: một bộ phận nhân dân nhận thức và hiểu chưa đúng, đầy đủ các qui định liên quan đến vấn đề về bồi thường, giải toả, hỗ trợ, tái định cư nên có những yêu cầu, đòi hỏi thiếu căn cứ; một số hộ dân chưa thật sự quan tâm tham gia đóng góp ý kiến để cùng với Tổ khảo sát, đo đạc, kiểm kê, áp giá bồi thường và tái định cư của Dự án thực hiện tốt việc kiểm kê, tính toán áp giá cho chính xác ngay từ đầu, thậm chí đến khi đã có Bảng tạm tính Phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư được niêm yết tại Uỷ ban nhân dân phường và trong cuộc họp lấy ý kiến đóng góp của các hộ dân khu vực công trình mà cũng thiếu quan tâm đóng góp để kịp thời điều chỉnh, bổ sung, đến khi Phương án Bồi thường được phê duyệt và nhận được Quyết định thu hồi đất, bồi thường thiệt hại đối với từng hộ dân mới phát sinh đơn khiếu nại.
Hậu quả tình huống
Qua sự việc nêu trên, phần nào đã có tác động ảnh hưởng đến tình hình phát triển chung của thị xã, cụ thể:
- Đây là Dự án đầu tư do Chính phủ Úc tài trợ, mục tiêu của Dự án là cải thiện phúc lợi cho nhân dân ở 03 thị xã, trong đó có thị xã Sa Đéc, nhằm cải tạo và mở rộng hệ thống cấp thoát nước và vệ sinh môi trường, tạo vẻ mỹ quan đô thị, nhất là đối với những địa bàn khó khăn, nhóm đối tượng nghèo; ngoài ra còn tăng cường năng lực quản lý cho các cơ quan Nhà nước các cấp trong công tác lập kế hoạch. Do vậy, khi quá trình tổ chức thực hiện Dự án xảy ra những vấn đề không hay như: phát sinh khiếu nại, một số hộ dân chưa chịu bàn giao mặt bằng thi công và yêu cầu, đòi hỏi về quyền lợi không hợp lý khác sẽ có dư luận, ảnh hưởng không tốt về mặt chính trị, nhất là đối với dự án có vốn đầu tư nước ngoài; đồng thời, địa phương sẽ gặp khó khăn, hạn chế trong việc quan hệ, kêu gọi, thu hút đầu tư từ các đối tác, tổ chức trong và ngoài nước.
- Việc thực hiện công tác khảo sát, đo đạc, kiểm kê, áp giá bồi thường của cơ quan chức năng còn chủ quan, có trường hợp sai sót, thiếu chính xác, chưa hợp lý; công tác quản lý đất đai có mặt chưa chặt chẽ có thể sẽ ảnh hưởng đến lòng tin, sự đồng thuận trong nhân dân.
- Việc phát sinh khiếu nại của các hộ dân làm ảnh hưởng đến tiến độ thi công công trình, kéo dài thời gian, gây thiệt hại về tiền của và công sức.
XỬ LÝ TÌNH HUỐNG
Mục tiêu xử lý tình huống
Sau khi thu thập những sự việc đã xảy ra, thêm một số thông tin được điều tra từ những người lân cận, đảm bảo tính hợp lý, sát thực; mục tiêu của tình huống cần giải quyết tốt một số vấn đề sau:
- Chấp hành thực hiện một cách nghiêm các qui định của Hiến pháp và pháp luật.
- Thực hiện việc giải quyết các khiếu nại của nhân dân phải đảm bảo dân chủ, công khai, hợp tình, hợp lý, đúng các bước qui trình theo Luật định.
- Bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân theo qui định của pháp luật Nhà nước Việt Nam Xã hội chủ nghĩa.
- Củng cố, nâng cao niềm tin, tăng cường sự đoàn kết, thắt chặt “Tình làng, Nghĩa xóm”, tạo sự đồng thuận cao trong nhân dân đối với chủ trương của Đảng và Nhà nước, nhất là đối với chính quyền địa phương.
- Tạo môi trường chính trị, kinh tế-xã hội ổn định, nâng cao uy tín, tạo hình ảnh, bức tranh sáng, hấp dẫn của địa phương trong quan hệ, kêu gọi, vận động, thu hút các nguồn lực để đầu tư phát triển trên địa bàn, nhất là đối với các đối tác, dự án đầu tư nước ngoài.
Xây dựng phương án xử lý tình huống
* Phương án 1: Tiến hành họp dân để vận động, thuyết phục, giáo dục; đồng thời ra quyết định bác đơn, không giải quyết theo các nội dung khiếu nại. Vì công tác áp giá bồi thường, giải phóng mặt bằng, các chính sách hỗ trợ… đã được các cấp, các ngành, cơ quan chức năng lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện các bước theo qui trình, đảm bảo dân chủ, công khai, minh bạch, chấp hành nghiêm các qui định của Nhà nước (các hộ dân đã được hưởng đầy đủ các chế độ, chính sách về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư theo đúng qui định). Cụ thể: giải thích cho hộ khiếu nại của Bà Trần Thị Bảy thông hiểu đây là chủ trương đúng đắn của Nhà nước, các nội dung khiếu nại của Bà là không có cơ sở, sai với qui định, vì các cơ quan Nhà nước đã thực hiện theo đúng các qui định về áp giá bồi thường, hỗ trợ và tái định cư.
- Ưu điểm:
+ Giải quyết theo Phương án này, kết quả trước mắt đạt được là các đơn khiếu nại sẽ nhanh chóng được giải quyết qua việc tuyên truyền, giải thích, giáo dục, thuyết phục, vận động các hộ dân khiếu nại chấp hành, hy sinh quyền lợi trước mắt nhưng bù lại sẽ được hưởng lợi về sau.
+ Việc giải phóng mặt bằng công trình, triển khai thi công sẽ nhanh chóng được thực hiện.
- Hạn chế, nhược điểm:
+ Người dân bị mất quyền lợi, sự đồng thuận trong nhân dân sẽ không cao, do vậy sẽ gây ra dư luận không tốt, phát sinh khiếu nại vượt cấp.
+ Lòng tin của nhân dân đối với Nhà nước bị ảnh hưởng, do các ngành chức năng không tiếp tục tìm hiểu, thẩm tra kỹ các vấn đề liên quan để nghiên cứu, xem xét tìm biện pháp giải quyết có lợi cho nhân dân.
* Phương án 2: Ngoài việc tiến hành họp dân để tuyên truyền, giải thích, giáo dục, thuyết phục, vận động chấp hành; cần xem xét cụ thể từng nội dung để vận dụng, có biện pháp linh động trong việc giải quyết, theo hướng tạo điều kiện cho nhân dân được hưởng lợi nhiều nhất. Cụ thể: đối với 05 nội dung khiếu nại của Bà Trần thị Bảy, sau khi xem xét, nhận thấy các nội dung khiếu nại đều có cơ sở, vì hoàn cảnh gia đình của Bà đang khó khăn, phải di dời nhà, bỏ công ăn việc làm, thất thu kinh tế gia đình… Tuy nhiên, chỉ có thể giải quyết cho Bà ở 02 nội dung khiếu nại đầu tiên trong Đơn khiếu nại, đó là: khảo sát, đo đạc, đối chiếu các căn cứ qui định để điều chỉnh về diện tích, loại đất, áp giá đền bù ở mức cao hơn, đồng thời vận dụng, linh động giải quyết tái định cư cho Hộ của Bà Bảy (mặc dù cách giải quyết này không nằm trong qui định của Phương án Bồi thường nhưng do Nhà nước đã Quyết định thu hồi đất ở của Bà khá nhiều, trên 50%); các nội dung khiếu nại còn lại vẫn bác đơn, với lý do không phù hợp với qui định tại Phương án Bồi thường, hỗ trợ và tái định cư đã được Uỷ ban nhân dân Tỉnh phê duyệt. Đồng thời, Uỷ ban nhân dân thị xã ra Quyết định giải quyết.
- Ưu điểm:
+ Giải quyết theo Phương án này, các hộ dân sẽ được hưởng quyền lợi nhiều nhất, mặc dù Nhà nước giải quyết không hết các yêu cầu, có hy sinh một ít quyền lợi nhỏ.
+ Các đơn khiếu nại cũng sẽ nhanh chóng được giải quyết qua việc tuyên truyền, giải thích, giáo dục, thuyết phục, vận động các hộ dân khiếu nại chấp hành và giải quyết nhu cầu bức xúc về chỗ ở cho nhân dân.
+ Nhân dân rất đồng thuận, phấn khởi, thấy được sự quan tâm, hỗ trợ tích cực của các cơ quan Nhà nước; việc giải phóng mặt bằng công trình, triển khai thi công sẽ nhanh chóng được thực hiện.
- Hạn chế, nhược điểm:
+ Phương án này do địa phương linh động, tìm cách giải quyết theo hướng vừa có lợi cho hộ của Bà Bảy, vừa muốn đẩy nhanh tiến độ giải phóng mặt bằng, nhưng việc giải quyết không nằm trong qui định của Phương án Bồi thường, hỗ trợ và tái định cư đã được Uỷ ban nhân dân Tỉnh phê duyệt.
+ Tính kỷ cương, kỷ luật và hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước không cao.
+ Có thể sẽ có những hộ khác tương tự như trường hợp của Bà Bảy sẽ so sánh và tiếp tục phát sinh khiếu nại.
* Phương án 3: Ngoài việc tiến hành họp dân để tuyên truyền, giải thích, giáo dục, thuyết phục, vận động chấp hành; các nội dung khiếu nại cụ thể phải được thực hiện giải quyết theo đúng qui định. Cụ thể: đối với 05 nội dung khiếu nại của Bà Trần thị Bảy, sau khi xem xét, cân nhắc, mặc dù các nội dung khiếu nại đều có cơ sở, do hoàn cảnh gia đình của Bà đang khó khăn như: phải di dời nhà, bỏ công ăn việc làm, thất thu kinh tế gia đình… Tuy nhiên, chỉ có thể giải quyết cho Bà đối với 01 nội dung khiếu nại đầu tiên trong Đơn khiếu nại, các nội dung khiếu nại còn lại đều bị bác, không giải quyết, kể cả yêu cầu về hỗ trợ tái định cư; đó là: Qua công tác khảo sát, đo đạc, rà soát, đối chiếu các qui định xét thấy cần điều chỉnh theo yêu cầu của Bà Bảy, vì Tổ Khảo sát, đo đạc, kiểm kê, áp giá bồi thường và tái định cư của Dự án khi lần đầu tiến hành đo đạc đã có sai sót, không chính xác so với thực tế đã thẩm tra, xác minh lại; cho nên, Uỷ ban nhân dân thị xã đã ra Quyết định giải quyết trường hợp này cho Bà.
- Ưu điểm:
+ Giải quyết theo Phương án này sẽ đảm bảo được cả 02 yếu tố: hợp tình, hợp lý. Các hộ dân được các cơ quan chức năng Nhà nước quan tâm nghiên cứu từng nội dung khiếu nại cụ thể để tìm biện pháp giải quyết theo hướng tạo điều kiện để nhân dân được hưởng quyền lợi nhiều nhất, nhưng vẫn phải đảm bảo tuân thủ nghiêm các qui định của pháp luật, nhất là các qui định trong Phương án Bồi thường, hỗ trợ và tái định cư của Dự án đã được Uỷ ban nhân dân Tỉnh phê duyệt.
+ Tính kỷ cương, kỷ luật, hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước được tôn trọng, đảm bảo thực hiện.
+ Thể hiện tính công khai, minh bạch, phát huy dân chủ, tính nghiêm minh trong quá trình tổ chức thực hiện; Uy tín của các cơ quan Nhà nước được nâng lên.
- Hạn chế, nhược điểm:
+ Phải thực hiện nhiều bước thủ tục khi giải quyết, chậm thời gian.
+ Tiến độ thi công công trình sẽ ảnh hưởng kéo dài.
Lựa chọn phương án xử lý
Qua xem xét, phân tích nội dung giải quyết của 03 Phương án nêu trên; căn cứ tình hình thực tế của địa phương và các qui định của Nhà nước, xét thấy Phương án 3 là Phương án khả thi, tối ưu và hiệu quả nhất, đảm bảo theo qui định và hợp lòng dân.
Để thực hiện theo Phương án 3, cần tiến hành theo các bước như sau:
Thành lập Tổ công tác giải quyết khiếu nại:
Sau khi nhận được đơn khiếu nại, Uỷ ban nhân dân thị xã ra Quyết định thành lập Tổ công tác của thị xã gồm các thành viên ở các ngành: Thanh tra, Tài chính-Kế hoạch, Tài nguyên-Môi trường, Quản lý đô thị thị xã và Uỷ ban nhân dân phường 1 để tổ chức thực hiện việc giải quyết các nội dung khiếu nại.
Tiến hành tiếp xúc với các hộ dân khiếu nại để tiếp tục khảo sát, đo đạc, đối chiếu, thẩm tra, xác minh:
Thực hiện Quyết định của Uỷ ban nhân dân thị xã, Tổ công tác tiến hành khảo sát, đo đạc, kiểm tra, thu thập các tài liệu, hồ sơ liên quan Dự án; tổ chức làm việc với các phòng, ban chức năng có liên quan và Uỷ ban nhân dân phường 1, đồng thời tiếp xúc, tổ chức đối thoại trực tiếp với các hộ dân khiếu nại.
Đối với hộ của Bà Trần Thị Bảy, Tổ công tác đã làm việc theo qui trình, tiến hành đo đạc, rà soát, đối chiếu các hồ sơ, tài liệu có liên quan như: Bản đồ giải thửa đất, giấy Chứng nhận Quyền sử dụng đất của hộ, Biên bản đo đạc lần đầu trước khi khiếu nại…; sau khi xem xét, cân nhắc, Tổ công tác phát hiện có nội dung xác định về diện tích, loại đất của hộ Bà Bảy nằm trong vùng qui hoạch được ghi trong Biên bản đo đạc lần trước có sai sót so với các giấy tờ có liên quan và thực tế kiểm tra tại hộ, kéo theo việc xác định số lượng diện tích từng loại đất và áp dụng mức giá bồi thường thấp, làm thiệt hại cho hộ. Các nội dung khiếu nại khác còn lại, qua xem xét không nằm trong qui định của Phương án Bồi thường, hỗ trợ và tái định cư của Dự án đã được Uỷ ban nhân dân Tỉnh phê duyệt, nên Tổ công tác đã giải thích cho hộ thông hiểu.
Đề xuất các phương án giải quyết và chọn phương án khả thi, trình cơ quan chức năng ra Quyết định giải quyết:
Qua công tác rà soát, kiểm tra, tiếp xúc đối với từng hộ khiếu nại, có ý kiến đóng góp của các ngành chức năng, các đơn vị có liên quan; Tổ công tác đã xây dựng Báo cáo tổng hợp, đề xuất các phương án giải quyết khả thi, trình Uỷ ban nhân dân thị xã xem xét, quyết định.
Trên cơ sở tham mưu đề xuất các phương án giải quyết của các ngành chức năng, các đơn vị có liên quan; Uỷ ban nhân dân thị xã đã ban hành các Quyết định giải quyết đối với từng hộ khiếu nại cụ thể.
Đối với các nội dung khiếu nại của Bà Trần Thị Bảy (gồm 05 nội dung nêu trên); Uỷ ban nhân dân thị xã đã ra Quyết định số 08/QĐ-UBND-HC ngày 24 tháng 01 năm 2006 về việc giải quyết đơn của Bà Trần Thị Bảy khiếu nại về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư. Nội dung của Quyết định gồm:
+ Chấp thuận bồi thường 33,6 m2 đất thổ cư theo cự ly a và 238m2 theo loại đất lâu năm cho Bà Trần Thị Bảy.
+ Bác các yêu cầu còn lại của Bà Trần Thị Bảy. Lý do: Bà Trần Thị Bảy đã được bồi thường, hỗ trợ theo Phương án Bồi thường, hỗ trợ và tái định cư đã được Uỷ ban nhân dân Tỉnh phê duyệt.
Trao Quyết định và tổ chức thực hiện:
Sau khi có Quyết định giải quyết của cơ quan thẩm quyền, Uỷ ban nhân dân phường 1 đã phối hợp với Thanh tra thị xã mời Bà Trần Thị Bảy để phổ biến và trao Quyết định thực hiện (Có kèm theo Quyết định-Trang sau).
KIẾN NGHỊ
Kiến nghị với Đảng, Nhà Nước
Để công tác giải phóng mặt bằng được thuận lợi, hạn chế khiếu nại phát sinh, tạo điều kiện đẩy nhanh tiến độ thi công công trình; trong quá trình tổ chức thực hiện, xin đề xuất kiến nghị một số vấn đề cần tập trung thực hiện tốt như:
- Bản chất Nhà nước ta là Nhà nước của dân, do dân và vì dân, tất cả quyền lực thuộc về nhân dân; do đó, khi tiến hành qui hoạch xây dựng các dự án đầu tư phải xuất phát từ điều kiện, tình hình thực tế của địa phương, vào tâm tư, nguyện vọng và sự đóng góp của nhân dân, theo phương châm là làm thế nào để người dân nằm trong khu vực qui hoạch xây dựng được hưởng lợi nhiều nhất, nhưng vẫn phải đảm bảo theo đúng qui định; như vậy, các dự án sẽ đảm bảo được tính khả thi và hiệu quả cao.
- Một trong những yếu tố có tính quyết định, mang lại thành công trong quá trình giải quyết các khiếu nại, tố cáo của công dân trong việc đền bù, giải phóng mặt bằng là tính khách quan của các bên tham gia quan hệ đó, nhất là bên đại diện cho quyền lực Nhà nước. Do vậy, quá trình tổ chức thực hiện, giải quyết các vấn đề phải nghiên cứu, nắm vững các qui định của Nhà nước có liên quan, bám sát thực tế, đảm bảo giải quyết “thấu tình, đạt lý”; đặc biệt là chính quyền địa phương phải phối hợp chặt chẽ với các cơ quan chức năng, các đơn vị có liên quan để thực hiện tốt công tác tuyên truyền, vận động, giải thích trước một bước khi tiến hành qui hoạch xây dựng để nhân dân nắm, thông hiểu, có sự đồng thuận cao trong tổ chức thực hiện dự án; đảm bảo phát huy quyền làm dân chủ của nhân dân theo phương châm: “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”.
- Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, đảm bảo pháp chế Xã hội chủ nghĩa, đòi hỏi các cơ quan Nhà nước, các tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế, đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân phải nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp và pháp luật. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật; từng bước nâng cao ý thức tuân thủ pháp luật cho mọi thành viên trong xã hội, xử lý nghiêm minh những người lợi dụng chức quyền, những người cố tình kéo dài, không chịu chấp hành theo qui định.
- Tiếp tục nghiên cứu, rà soát, điều chỉnh, bổ sung, đổi mới các cơ chế, chính sách có liên quan đến công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng; sửa đổi, hoàn thiện và xây dựng mới các văn bản qui phạm pháp luật. Ngoài việc đền bù theo các qui định, đề nghị Nhà nước cần có chính sách xã hội hỗ trợ các gia đình chính hoàn cảnh khó khăn bị thiệt hại, để ổn định sản xuất kinh doanh và cuộc sống.
- Nhất quán quan điểm: Đối với chủ trương đền bù, giải toả nói chung, đề nghị Tỉnh giải quyết nhất quán với chủ trương đã đề ra ngay từ đầu và có sự thống nhất với địa phương; tránh trường hợp các hộ khiếu nại lên Tỉnh và Tỉnh giải quyết có phần tăng thêm, làm chậm tiến độ đền bù, giải toả của địa phương.
Kiến nghị với cơ quan chức năng
Để công tác áp giá bồi thường, hỗ trợ và tái định cư đối với từng dự án, công trình xây dựng được thuận lợi, hạn chế thấp nhất phát sinh khiếu nại từ trong nhân dân; qua nghiên cứu, tìm hiểu tình hình thực tế, xin đề xuất các cơ quan chức năng một số vấn đề như sau:
Một là: Chủ động tăng cường sự phối hợp chặt chẽ giữa các ngành chức năng, các đơn vị có liên quan với địa phương tích cực tuyên truyền, phổ biến sâu rộng trong nhân dân về quan điểm, chủ trương của Đảng và chính sách pháp luật Nhà nước khi tiến hành qui hoạch xây dựng công trình. Đây là khâu mấu chốt, có tầm quan trọng và có ý nghĩa quyết định đến tính khả thi, hiệu quả của công trình. Thực tế cho thấy, địa phương nào làm tốt khâu này sẽ đảm bảo cho công tác áp giá bồi thường được thuận lợi, hạn chế thấp nhất những khiếu nại không đáng có.
Hai là: Thực hiện tốt việc rà soát, kiểm tra, có biện pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả, hiệu lực quản lý Nhà nước trong lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản và quản lý, sử dụng đất đai; đảm bảo công tác này phải được thực hiện chặt chẽ, ổn định, đi vào nề nếp, có khoa học, đạt hiệu quả cao.
Ba là: Các cơ quan chức năng, các đơn vị có liên quan khi tiến hành khảo sát, đo đạc, kiểm kê, áp giá bồi thường cần có sự phối hợp nhịp nhàng, đồng bộ, tổ chức thực hiện đúng qui trình, đảm bảo chặt chẽ, đầy đủ, kịp thời, chính xác; không được chủ quan. Thực hiện tốt khâu này, quá trình tổ chức thực hiện sẽ thể hiện được tính công khai, minh bạch, giữ vững nguyên tắc, phát huy dân chủ, đáp ứng tâm tư, nguyện vọng, những yêu cầu, thắc mắc của nhân dân; từ đó sẽ hạn chế khiếu nại phát sinh.
Bốn là: Sau khi tổng hợp, xây dựng Dự thảo phương án tạm tính về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư phải thực hiện việc niêm yết công khai, đồng thời tổ chức cuộc họp lấy ý kiến đóng góp của các hộ dân bị ảnh hưởng nằm trong khu vực công trình, đảm bảo thiết thực, có chất lượng, phát huy dân chủ sâu rộng trong nhân dân tham gia đóng góp ý kiến; qua đó, kịp thời rà soát, kiểm tra, đối chiếu để có sự điều chỉnh, bổ sung, hoàn chỉnh Phương án cho phù hợp theo các ý kiến đóng góp hợp lý. Địa phương nào làm tốt khâu này cũng sẽ làm giảm đi việc phát sinh khiếu nại.
KẾT LUẬN
Trong những năm qua, nhân dân đã tích cực đóng góp tiền của, công sức để tham gia cùng với Nhà nước đầu tư các công trình kết cấu hạ tầng phục vụ phát triển kinh tế-xã hội ở địa phương. Nhiều công trình sau khi xây dựng hoàn thành, đưa vào sử dụng đã mang lại hiệu quả hết sức to lớn, có ý nghĩa thiết thực về mặt kinh tế-xã hội, nâng cao đời sống vật chất, văn hoá và tinh thần cho nhân dân. Tuy nhiên, vẫn còn một số dự án đầu tư tiến độ triển khai thực hiện chưa đảm bảo theo Kế hoạch đề ra; chất lượng, hiệu quả đầu tư đạt được chưa cao; trong đó, có nhiều nguyên nhân, nhưng quan trọng nhất là khâu áp giá đền bù, giải phóng mặt bằng còn những khó khăn, vướng mắc, thực hiện kéo dài, chưa đáp ứng yêu cầu về thời gian theo qui định, làm thiệt hại về tài sản và công sức.
Để thực hiện tốt công tác giải phóng mặt bằng, cần thực hiện đồng bộ, chặt chẽ các giải pháp trong quá trình tổ chức thực hiện; xây dựng và vận dụng tốt các chính sách đền bù hợp lý và thực hiện tốt các chính sách xã hội, giúp cho nhân dân bị ảnh hưởng có điều kiện thuận lợi phát triển sản xuất, kinh doanh, nhanh chóng ổn định cuộc sống.
Công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư đối với từng dự án, công trình cụ thể phải căn cứ vào điều kiện, tình hình thực tế tại địa phương và các qui định của pháp luật; kết hợp tốt giữa “tình và lý”, tập trung nghiên cứu, đề ra nhiều biện pháp giải quyết đồng bộ, khả thi, bảo đảm cho nhân dân nằm trong khu vực qui hoạch giải toả có cuộc sống ổn định.
Việc thực hiện công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư đạt kết quả cao, kịp thời, đúng đắn đối với từng vụ, việc sẽ có tác dụng tích cực đối với nền hành chính Nhà nước, đối với sự ổn định chính trị, kinh tế-xã hội, nâng cao uy tín của các cơ quan Nhà nước đối với nhân dân, yếu tố đặc biệt quan trọng đó là tạo môi trường thuận lợi trong việc quan hệ, kêu gọi, vận động, thu hút các nguồn lực trong và ngoài thị xã để đầu tư phát triển ở địa phương. Ngược lại, nếu quá trình tổ chức thực hiện, các biện pháp giải quyết không đúng đắn, kịp thời, phù hợp, thiếu công bằng, dân chủ đối với từng vụ, việc sẽ gây ra nhiều vấn đề tiêu cực, phức tạp, những yếu tố tiềm ẩn, khó lường, dẫn đến khiếu nại đông người, khiếu kiện vượt cấp, phát sinh “điểm nóng”; từ đó, lòng tin của nhân dân đối với Đảng, chính quyền bị suy giảm, vì người dân cho rằng, là công dân họ không được thực hiện những quyền cơ bản của mình; do vậy, kỷ cương, phép nước sẽ thiếu được tôn trọng, công bằng xã hội chưa đảm bảo… Đó là những nhân tố có thể dẫn đến sự mất ổn định trong xã hội.
Thật vậy, việc thực hiện công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư để qui hoạch xây dựng các công trình, phục vụ sự phát triển kinh tế-xã hội của địa phương phải được các cơ quan thẩm quyền, các ngành chức năng giải quyết đúng đắn, kịp thời, đảm bảo sát thực, đúng pháp luật; thể hiện Việt Nam là một Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa – Nhà nước của dân, do dân và vì dân; thể hiện bản chất của chế độ Xã hội chủ nghĩa; đảm bảo được thông suốt từ nội bộ các cơ quan quản lý Nhà nước, trong nhân dân về đường lối, chủ trương, quan điểm của Đảng và Nhà nước Việt Nam Xã hội chủ nghĩa là lấy dân làm gốc.
Muốn vậy, quá trình tổ chức thực hiện công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư xây dựng công trình, các cơ quan thẩm quyền, các ngành chức năng phải có kế hoạch, giải pháp giải quyết đồng bộ, có lộ trình cụ thể, với từng bước đi thích hợp, đảm bảo các bước thực hiện theo trình tự, thủ tục qui định từ khâu khảo sát, đo đạc, kiểm kê, tính toán, áp giá bồi thường đến khi trao quyết định thu hồi đất, bồi thường thiệt hại cho các hộ dân bị ảnh hưởng trong qui hoạch. Đồng thời, khi có phát sinh khiếu nại, phải tập trung nghiên cứu, giải quyết chu đáo, đúng qui định từ khâu xem xét, gặp gỡ tiếp xúc người khiếu nại, thẩm tra xác minh, đối chiếu các vấn đề có liên quan, tập hợp báo cáo, công bố quyết định, tổ chức thi hành và đôn đốc thi hành quyết định, đảm bảo đúng thời gian và theo luật định. Đó mới thể hiện được bản chất của Nhà nước ta là Nhà nước của dân, do dân, vì dân; Nhà nước là nơi đảm bảo các quyền và nghĩa vụ của công dân được thực hiện, đảm bảo cho công bằng xã hội, cho an toàn xã hội của nhân dân. Tất cả cùng quyết tâm thực hiện vì mục tiêu: “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
PHỤ LỤC
TÀI LIỆU THAM KHẢO
------------
Luật Khiếu nại tố cáo năm 1998 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2004 và năm 2005);
Nghị định số 136/2006/NĐ-CP ngày 14 tháng 11 năm 2006 của Chính phủ Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Khiếu nại, tố cáo và các Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Khiếu nại, tố cáo.
Nghị định số 197/2004/NĐ-CP ngày 01 tháng 12 năm 2004 của Chính phủ về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất.
Thông tư số 01/2009/TT-TTCP ngày 15 tháng 12 năm 2009 quy định quy trình giải quyết tố cáo.
Dự án Xây dựng kè rạch Đình kênh Đông - rạch Đình kênh Tây thuộc địa bàn Khóm 4, Phường 1, thị xã Sa Đéc, tỉnh Đồng Tháp.
Kế họach Tái định cư- Tập I (Khung chính sách tái định cư của Dự án).
Phương án Bồi thường, hỗ trợ và tái định cư.
Bộ hồ sơ khiếu nại của Bà Trần Thị Bảy đã được giải quyết.
Các tài liệu có liên quan khác.
-----------