Tiểu luận Khái quát lịch sử quan hệ Việt - Mường và các giai đoạn ngôn ngữ Việt - Mường

MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 NỘI DUNG 3 I. KHÁI QUÁT VỀ CÁC DÂN TỘC NHÓM NGÔN NGỮ VIỆT MƯỜNG 3 1. Tộc người Việt (Kinh) 3 2. Tộc người Mường 3 3. Tộc người Thổ 4 4. Dân tộc Chứt 5 II. SỰ HÌNH THÀNH, THỐNG NHẤT VÀ CHIA TÁCH CỦA CƯ DÂN VIỆT - MƯỜNG. 6 1. Sự hình thành và thống nhất của cư dân Việt - Mường. 6 2. Sự tách biệt của người Mường (người Việt miền núi) thành dân tộc Mường 8 III. CÁC GIAI ĐOẠN PHÁT TRIỂN CỦA NHÓM NGÔN NGỮ VIỆT MƯỜNG 10 1. Giai đoạn tiền Việt-Mường 10 2. Giai đoạn Việt-Mường cổ 12 3. Giai đoạn Việt-Mường chung 14 KẾT LUẬN 17

doc20 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 3931 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Khái quát lịch sử quan hệ Việt - Mường và các giai đoạn ngôn ngữ Việt - Mường, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU         “Quan hệ dân tộc” ở bất kỳ nước nào, giai đoạn lịch sử nào cũng hết sức phong phú, được thể hiện trên nhiều lĩnh vực, chồng chéo, đan xen nhau. Lê Nin đã nói: chừng nào mà các dân tộc khác nhau cùng chung sống trong một quốc gia thì họ gắn bó với nhau bằng hàng triệu mối liên hệ về kinh tế, xã hội, văn hóa, pháp luật, phong tục tập quán. Như vậy, quan hệ dân tộc là quan hệ tổng hợp, gồm cả giao lưu, giao tiếp, đan xen giữa kinh tế, chính trị - xã hội, văn hóa, lãnh thổ, tôn giáo, chủng tộc. Chúng tác động, ảnh hưởng liên hoàn lẫn nhau, giữa các tộc người, các địa phương, các quốc gia dân tộc và trong từng khu vực; mang tính nhạy cảm, tính thời sự cấp bách, dễ bị lợi dụng và dễ dẫn đến những mâu thuẫn, xung đột giữa các tộc người, các quốc gia. Chính vì thế, giải quyết ổn thoả quan hệ dân tộc là yêu cầu chung để ổn định, hoà bình, hợp tác, phát triển của từng tộc người, từng quốc gia và của cả nhân loại. Việt Nam - một quốc gia đa dân tộc, sống trên mảnh đất Đông Dương - nơi cửa ngõ nối Đông Nam Á lục địa với Đông Nam Á hải đảo, Việt Nam là nơi giao lưu của các nền văn hoá trong khu vực. Ở đây có đủ 4 ngữ hệ lớn trong khu vực Đông Nam Á: Ngữ hệ Nam Á, ngữ hệ Nam đảo, Ngữ hệ Thái và ngữ hệ Hán - Tạng. Tiếng nói của các dân tộc Việt Nam thuộc 8 nhóm ngôn ngữ khác nhau: Nhóm Việt - Mường; Nhóm Môn – Khơme; Nhóm Tày – Thái; Nhóm HMông – Dao; Nhóm Kađai; Nhóm Nam Đảo; Nhóm Tạng - Miến; Nhóm Hán. Mặc dù tiếng nói của các dân tộc thuộc nhiều nhóm ngôn ngữ khác nhau, song do các dân tộc sống rất xen kẽ với nhau nên một dân tộc thường biết tiếng các dân tộc có quan hệ hàng ngày, và dù sống xen kẽ với nhau, giao lưu văn hoá với nhau, nhưng các dân tộc vẫn lưu giữ được bản sắc văn hoá riêng của dân tộc mình. Chính vì vậy, vấn đề “ Quan hệ dân tộc” giữa các dân tộc ở Việt Nam là một đề tài phong phú và phức tạp luôn đặt ra cho các nhà nghiên cứu. Khái niệm “Dân tộc” ở đây là dùng để chỉ một cộng đồng cụ thể (Tày, Thái, Việt, Mường, Hoa…), đó thực ra là khái niệm “tộc người”, là một hình thái đặc thù của một tập đoàn người, một tập đoàn xã hội, xuất hiện trong quá trình phát triển của tự nhiên và xã hội, được phân biệt bởi bốn đặc trưng cơ bản: ngôn ngữ, lãnh thổ, cơ sở kinh tế, đặc trưng sinh hoạt văn hóa và ý thức tự giác tộc người, mang tính bền vững qua hàng nghìn năm lịch sử. Khái niệm “Quan hệ dân tộc” ở đây cũng được hiểu theo nghĩa hẹp (liên quan nhiều đến ngành Dân tộc học, đến chính sách dân tộc của Đảng cầm quyền và Nhà nước), đó là quan hệ trên hai phạm vi: Quan hệ giữa các tộc người trong một địa phương, khu vực của từng quốc gia, ví dụ, quan hệ giữa người Kinh với người Tày, người Kinh với người Chăm, giữa người Mông với người Thái... và quan hệ nội bộ tộc người hay giữa các nhóm địa phương của một tộc người, như quan hệ giữa các nhóm Dao, giữa các nhóm Nùng với nhau. Trong cộng đồng các dân tộc ở Việt Nam, nhóm ngôn ngữ Việt - Mường được các nhà nghiên cứu đặc biệt quan tâm bởi quan hệ thống nhất và chia tách các dân tộc của nó. Đã có nhiều công trình, bài viết xung quanh vấn đề quan hệ Việt - Mường như: “Trong lịch sử Người Việt và người Mường là hai hay một dân tộc” - Nguyễn Lương Bích- TC Dân tộc học số 4, 1974; “ Về ngôn ngữ tiếng Việt - Mường”- Hà Văn Tấn - Phạm Đức Dương - TC Dân tộc học, số 1, 1978; “Một vài nhận xét về mối quan hệ Việt - Mường và quá trình văn hoá giữa tộc Việt và tộc Mường” - Trần Quốc Vượng - Nguyễn Dương Bình – Thông báo khoa học trường Đại học Tổng hợp, Hà Nội, tập V, 1970,… Các bài viết trên đã đề cập đến nhiều khía cạnh trong quan hệ Việt Mường; Với mong muốn tìm hiểu thêm về quan hệ của hai tộc người này, tiểu luận “Khái quát lịch sử quan hệ Việt - Mường và các giai đoạn ngôn ngữ Việt - Mường” của tôi chỉ xin được khái quát quan hệ Việt - Mường trên chủ yếu trên phương diện lịch sử hình thành và ngôn ngữ. NỘI DUNG I. KHÁI QUÁT VỀ CÁC DÂN TỘC NHÓM NGÔN NGỮ VIỆT MƯỜNG. Nhóm ngôn ngữ Việt - Mường thuộc họ Nam Á, nhánh Môn – Khơme gồm 4 dân tộc: Tộc Kinh(Việt), tộc Mường, tộc Thổ, tộc Chứt 1. Tộc người Việt (Kinh)        Tộc người Kinh phân cư trú chủ yếu ở vùng đồng bằng, nay đã có mặt đông đảo trên miền núi, là cư dân chủ thể hình thành và xây dựng Tổ quốc Việt Nam. Hiện nay dân số khoảng 65 triệu người, chiếm khoảng 86,2% tổng dân số Việt Nam[5; 266].         Là cư dân có nguồn gốc bản địa lâu đời và phát triển từ thời nguyên thuỷ. Trong suốt tiến trình phát triển của lịch sử Việt Nam, người Kinh luôn là trung tâm thu hút và đoàn kết các dân tộc anh em xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nền kinh tế của người Kinh trải qua hàng ngàn năm cho đến trước thời hiện đại (cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX) vẫn là kinh tế nông nghiệp kết hợp với nghề thủ công truyền thống, được đánh giá là một nền kinh tế tiêu biểu cho Việt Nam và khu vực. Về tổ chức xã hội, người Kinh sau khi thoát khỏi cuộc sống hang động, đã định cư và tạo nên cuộc sống lấy làng (mà người xưa gọi là kẻ) làm nơi định cư. Về văn hoá, dân tộc Kinh là một trong những dân tộc ở trong khu vực luôn đạt đến trình độ văn hoá văn minh rực rỡ của mọi thời đại, từ văn minh Việt cổ, văn minh Đại Việt sau thế kỷ X cho đến ngày nay đều chứng tỏ điều đó. Trong văn hoá - văn minh, từ văn hoá vật chất, văn hoá tinh thần và văn hoá ứng xử, người Kinh đã sáng tạo ra những nét đặc sắc cho mình, tiếp thu có chọn lọc các ưu điểm của các nền văn minh khác để làm phong phú cho dân tộc. Trong tín ngưỡng văn hoá, thờ cúng tổ tiên là tín ngưỡng quan trọng nhất của người Kinh. Bên cạnh đó, Người Việt chịu ảnh hưởng nhiều của văn hoá Trung - Ấn, đặc biệt là Trung Hoa với tư tưởng Nho, Phật, Đạo, gần đây tiếp cận them với văn hoá phương Tây.       2. Tộc người Mường        Người Mường cư trú lâu đời ở các tỉnh Hoà Bình, Thanh Hoá, Ninh Bình, Hà Tây, Yên Bái, Sơn La, Phú Thọ. Dân số hiện nay khoảng 1,1 triệu người [5; 267] Về nguồn gốc lịch sử, người Mường cùng nguồn gốc với người Kinh. Kinh tế chủ yếu là trồng lúa nước; ngoài ruộng nước, người Mường còn làm nương rẫy, săn bắn, đánh cá, hái lượm và sản xuất thủ công nghiệp. Tổ chức xã hội, chủ yếu là mường bản, mỗi bản gồm một số gia đình, nhiều hay ít tuỳ theo địa bàn cư trú quy định, bản có tổ chức chặt chẽ. Đại bộ phận người Mường ở nhà sàn, kiểu nhà 4 mái. Trang phục tiêu biểu của phụ nữ là khăn đội đầu và áo cánh ngắn màu trắng, váy đen có cạp dệt hoa văn sặc sỡ và hoạ tiết cực kỳ phong phú. Hôn nhân có nhiều nét giống người Kinh. Tang ma cầu kỳ tốn kém. Người Mường có nền văn hoá dân gian phong phú với nhiều truyện cổ (mo) nổi tiếng "Đẻ đất đẻ nước", "lên trời"... Cuốn "Mo-Sử thi dân tộc Mường" dày hơn 2000 trang, là di sản vô giá không phải chỉ của dân tộc Mường mà của cả nền văn hoá Việt Nam. Tiếng Mường là tiếng Việt cổ bị khu vực hoá, có đến 80% từ vựng tiếng Mường trùng với tiếng Việt trước thế kỷ XX, hiện còn bảo lưu khá bền vững trong cộng đồng người Kinh vùng Hà Tĩnh.          3. Tộc người Thổ Người Thổ sinh sống ở miền Tây tỉnh Nghệ An thuộc các huyện Con Cuông, Nghĩa Đàn, Tân Kỳ và huyện Như Xuân tỉnh Thanh Hoá. Dân số người Thổ hiện nay khoảng 68 nghìn người [5; 268]. Hoạt động sản xuất chủ yếu của người Thổ là làm nương rẫy, một số nhỏ làm ruộng nước, trình độ canh tác phát triển khá cao. Nghề đánh cá cũng rất phát triển; săn bắn, hái lượm tuy chỉ phát triển ở một số vùng nhưng nó đã góp phần đáng kể vào việc giảm bớt những khó khăn trong cuộc sống của họ. Về tổ chức xã hội, dân cư sống thành làng xã như người Kinh, mỗi làng có trùm làng được dân bầu theo định kỳ hàng năm. Đàn ông ăn mặc giống người Kinh, phụ nữ ăn mặc theo sở thích, mỗi nhóm bắt chước các kiểu ăn mặc của người Thái, Mường hay Kinh tuỳ điều kiện của mỗi nhóm. Hôn nhân chủ yếu giữa người Thổ với nhau, hôn lễ của người Thổ phải qua nhiều bước. Thông thường khi cưới nhà trai phải dẫn một con trâu, 100 đồng bạc trắng, 30 vuông vải, 6 thúng xôi, một con lợn. Nhiều vùng còn có tục ở rể. Tang ma cũng lắm thủ tục và thường tốn kém. Thờ cúng tổ tiên là chính, ngoài ra còn thờ rất nhiều loại thần, ma, đặc biệt là các vị thần có liên quan đến việc đánh giặc và khai khẩn đất đai. Hội lễ phong phú như hội xuống đồng hàng năm, theo đó là nhiều kiêng kỵ trong cuộc sống và sản xuất mà người Thổ thực hiện. 4. Dân tộc Chứt  Dân tộc Chứt sinh sống ở một số xã của hai huyện Minh Hoá và Bố Trạch tỉnh Quảng Bình. Dân số hiện ngay khoảng gần 4 nghìn người, chia làm nhiều nhóm: Sách, Mày, Rục, Mã Liềng, A Rem, có thể là nhóm đời sống khó khăn nhất trong các tộc người ở Việt Nam hiện nay. [5; 268]. Người Chứt vốn sống bằng nông nghiệp nương rẫy du canh, chăn nuôi và săn bắn, hái lượm. Trừ nhóm Sách sống bằng nông nghiệp còn các nhóm khác hái lượm và săn bắn chiếm vị trí quan trọng, thậm chí là nguồn sống chính trong những năm mất mùa; nghề thủ công có đan lát và nghề mộc là phổ biến. Người Chứt sống định cư và quần tụ thành từng làng (Cà Vên), nhưng làng tản mạn, mỗi làng có trưởng làng do dân suy tôn, thường là trưởng tộc một dòng họ có uy tín nhất trong làng. Nhà ở thường không bền vững, họ quen ở trong các túp lều dùng dây buộc, dùng cột ngoàm hay ở trong các hang đá, mái đá. Cho đến trước năm 1945 các nhóm Rục, Arem chủ yếu vẫn sống trong các hang đá, mái đá. Người Chứt không biết dệt vải, mùa hè nam giới đóng khố, cởi trần; phụ nữ mặc váy. Mùa đông, họ mặc áo làm bằng vỏ cây. Hiện nay đồng bào ăn mặc giống như người Kinh. Quan hệ vợ chồng bền vững; lễ cưới được tổ chức bên nhà gái, sau đó mới đón dâu. Lễ vật quan trọng nhất ngoài lợn, gà, nhất thiết phải có thịt khỉ sấy khô. Tang ma đơn giản và có nhiều ảnh hưởng của người Kinh. Ngoài thờ cúng tổ tiên, bàn thờ đặt ở nhà tộc trưởng, người Chứt thờ nhiều ma: ma rừng, ma suối, thần nông, ma bếp... Như vậy, nhóm ngôn ngữ Việt - Mường gồm 4 tộc người có một số nét tương đồng, nhưng cũng có nhiều đặc điểm khác biệt. Tuy vậy, không phải ngay từ đầu nhóm Việt - Mường đã được chia tách thành các dân tộc : Việt, Mường, Thổ, Chứt như ngày nay. Quá trình thống nhất và chia tách của nhóm ngôn ngữ này là một vấn đề phức tạp còn nhiều ý kiến tranh luận khác nhau trong giới nghiên cứu: khảo cổ, nhân chủng, dân tộc học và ngôn ngữ, … II. SỰ HÌNH THÀNH, THỐNG NHẤT VÀ CHIA TÁCH CỦA CƯ DÂN VIỆT - MƯỜNG. 1. Sự hình thành và thống nhất của cư dân Việt - Mường. Vấn đề hình thành cư dân Việt - Mường hay Việt Cổ là vấn đề được nhiều ngành khoa học quan tâm. Để nghiên cứu lịch sử vấn đề này chúng ta không thể không xem xét trên phương diện ngôn ngữ học. Nhóm ngôn ngữ Việt Mường gồm những ngôn ngữ nào? Tại sao phải quan tâm đến nó? Henri Maspero (Paris, 1883 - Buchenwald (Allemagne), 1945) trong công trình nghiên cứu trứ danh về Ngữ âm lịch sử tiếng Việt (1912) trong lúc truy tầm về nguồn gốc và quan hệ thân thuộc của tiếng Việt, đã vô tình đặt ra nền tảng của cái mà ngày nay ta gọi là Nhóm Việt-Mường . Tiếng Việt tách ra thành một cá thể ngôn ngữ riêng biệt từ một hạ tầng Nam Á (substrat austroasiatique) nhưng vì những vay mượn qua tiếng Thái (còn gọi là Tháy, Táy) và tiếng Hán và trải qua những biến chuyển ngữ âm đặc thù với sự hình thành một hệ thống sáu thanh điệu, nên đã che lấp đi quan hệ họ hàng của ngôn ngữ này. Vì vậy tiếng Việt lần lượt được xếp là có quan hệ gần với những họ ngôn ngữ Môn-Khmer, Miến-Tạng, Thái, để sau cùng được đưa vào họ Nam Á năm 1942 bởi Thomas A. Sebeok (1920-2001 , rồi năm 1956 bởi André-Georges Haudricourt (Paris, 1911 - 1996). Haudricourt tiếp nối công trình của Maspero là người đầu tiên nêu lên tiếng Việt có cơ tầng Môn – Khơme, được làm giàu thêm bởi sự tiếp xúc với ngôn ngữ Thái, Nam Đảo và tiếng Hán. Nói như vậy có nghĩa nó nằm chủ yếu trên đất Việt Nam, cái nôi là miền trung du - đồng bằng Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ. “Tiếng Việt - Mường nói chung hay tiếng Việt nói riêng là một ngôn ngữ hỗn hợp, một ngôn ngữ cầu nối bao hàm trong bản thân những yếu tố của ngôn ngữ Môn – Khơme, với các ngôn ngữ từ phương Bắc đến: Tày – Thái, Kađai; từ biển vào: Nam - Đảo; và về sau với ngôn ngữ Hán”. [5; 261]. Theo Hà Văn Tấn và Phạm Đức Dương, cư dân Việt - Mường có nhiều khả năng làm chủ nhân của những di tích hậu kỳ đá mới hay sơ kỳ kim khí có những nét gần gũi với văn hoá Phùng Nguyên. Về nguồn gốc dân tộc Việt và Mường, các nhà nghiên cứu tương đối thống nhất với nhau trong việc xác định người Việt và người Mường (người Việt miển núi) có chung một nguồn gốc và từ những thời đại xã xưa đã cùng một dân tộc. Điều đó thể hiện rõ nét trong việc cả người Việt miền núi và Việt đồng bằng (từ thời Hùng Vương) đều dùng danh từ “quan lang” để chỉ các tầng lớp trên trong xã hội. Đến thời Phùng Hưng, “quan lang” chính thức được đùng để chỉ các thủ lĩnh người Việt ở các địa phương. Việc Phùng Hưng được phong làm “quan lang” Đường Lâm chứng tỏ chế độ quan lang đã tồn tại trong phạm vi cả nước, không phải chỉ có ở các địa phương người Việt miền núi (đồng bào Mường bây giờ). Việc tồn tại bền vững chế độ “quan lang” ở các vùng, mường là yếu tố chứng tỏ sự thống nhất giữa người Việt đồng bằng và người Việt miền núi (người Mường). Người Việt miền núi đời đời gắn bó với người Việt đồng bằng trên mọi mặt chính trị, quân sự, kinh tế, văn hoá nhất là về chính trị và quân sự, phục vụ lợi ích chung của dân tộc, của Tổ Quốc đã chứng minh điều đó. Vậy tên “ Mường” có từ bao giờ và người Mường đã tách ra từ thời gian nào trong lịch sử? Đây là những câu hỏi còn gây nhiều tranh luận. Một số ý kiến cho rằng, Người Mường có thể đã trở thành một dân tộc khác với người Việt từ lâu đời. Các tác giả như: Trần Quốc Vượng, Nguyễn Dương Bình, Nguyễn Văn Tài,… chủ trương việc tách Việt khỏi Mường kết thúc vào thời kỳ Bắc thuộc. Ý kiến đó theo Đặng Nghiêm Vạn “có phần đúng nhưng chưa đủ” [5; 265]. Bên cạnh đó, ý kiến của Nguyễn Lương Bích lại cho rằng đến tận cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX không có danh từ “ Mường” để chỉ người hoặc tộc người. [1] Vậy cơ sở của những ý kiến trên như thế nào? Nếu như trước khi nhà Khúc dựng nền độc lập, người Việt đồng bằng và miền núi đều thống nhất trên nhiều phương diện chính trị, xã hội, kinh tế, quân sự, thì từ đầu thế kỷ X, lịch sử Việt Nam chuyển sang một giai đoạn phát triển mới. Chế độ quan lang ở các địa phương dần dần bị xóa bỏ tạo cơ sở cho sự tồn tại của nhà nước Trung ương tập quyền. Chế độ quan lang từ đầu thế kỷ X đã không còn ở miền đồng bằng nhưng vẫn được duy trì lâu dài tại các khu vực người Việt ở miền núi. Đó có thể là lý do để nhiều nhà nghiên cứu cho rằng việc tách Việt khỏi Mường kết thúc vào thời Bắc thuộc. Bên cạnh đó, có thể vì một nguyên do nữa là: đến thời Đinh, Lê, Lý, sử sách danh từ “Cử Long man” để chỉ người vùng Cử Long. Cách gọi đó còn được hiểu: coi người Cử Long là một dân tộc man di, một dân tộc thiểu số, không phải người Việt. Tuy vậy, theo nhiều nhà nghiên cứu, danh từ “mường” thường được người Việt và người Thái dùng để chỉ những khu vực tụ cư, những địa phương hành chính ở miền núi. “ mường” còn thường được phiên âm thành “mãnh” “mang”, hay “man” theo tiếng Hán như Mãnh thiên, tức Mường Thanh (Điện Biên); Ngưu Hống man tức mường Ngưu Hống (nay là Yên Châu, Sơn La). Và theo Lương Bích Hữu[1] “man” sử dụng ở trên cũng chỉ có nghĩa là “mường”, một khu vực hành chính ở miền núi, không phải là cơ sở để nhận định người Việt ở các vùng mường đã trở thành một dân tộc, tách khỏi dân tộc Việt từ thế kỷ X. Đặng Nghiêm Vạn[5; 265] dù không khẳng định chắc chắn thời gian mà người Việt miền núi tách ra thành dân tộc Mường nhưng cũng nhận định: chủ trương coi việc tách Việt khỏi Mường kết thúc vào thời Bắc thuộc có phần đúng nhưng chưa đủ. Và cho đến trước thời Pháp chưa thấy thuật ngữ Mường trên các sử sách. Nhận định trên có phần tương đồng với nhận định của Nguyễn Lương Bích khi khẳng định: trong các thời đại trước, lịch sử chưa hề ghi nhận có một dân tộc gọi là dân tộc Mường, và cho tới cuối thế kỷ XIX, những người Việt ở vùng mường cũng chưa tự nhận là một dân tộc khác, không phải dân tộc Việt[1]. Bởi trong “Đại Nam nhất thống chí” các tác giả đã phân biệt khá tỷ mỷ nhiều dân tộc thiểu số ở miền Bắc nước ta, nhưng không có chỗ nào nói tới người Mường, hoặc nói rằng người Việt miền núi đã trở thành một dân tộc khác với một tên gọi khác. Như vậy, có thể nói, trước thế kỷ XX, mặc dù có sự khác biệt về trạng thái sinh hoạt do sự khác biệt về địa lý mang lại nhưng người Việt đồng bằng và người Việt miền núi về cơ bản vẫn chung một chế độ, và trình độ xã hội. Và dù còn nhiều các nhà khoa học vẫn muốn chứng minh, nguời Việt miền núi đã tách ra thành dân tộc Mường từ giai đoạn sớm hơn trong lịch sử, nhưng chưa có tư liệu nào thật sự thuyết phục để khẳng định điều đó. 2. Sự tách biệt của người Mường (người Việt miền núi) thành dân tộc Mường. Vậy người Mường (người Việt miền núi) thực sự được tách ra thành một dân tộc khi nào? Có phải từ khi Pháp vào xâm lược Việt Nam? Cuối thế kỷ XIX, thực dân Pháp xâm lược và chiếm đóng Việt Nam. Chúng đã sử dụng chính sách chia để trị trên mọi lĩnh vực hòng duy trì ách thống trị lâu dài ở nước ta. Việc đầu tiên mà chúng làm là tiến hành chia rẽ đất nước ta về mặt dân tộc, chia đất nước thành nhiều mảnh với các chế độ cai trị khác nhau để dễ bề thống trị. Tiếp đó, chúng mở các đợt tấn công để chiếm đánh các tỉnh, thành như Hưng Hoá, Sơn Tây,.. Nhân dân ta đã chống trả quyết liệt, đặc biệt là đồng bào các dân tộc miền núi rộng lớn với hang nghìn mường, bản lớn nhỏ. Trước tình hình đó, Pháp chủ trương vừa dùng quân sự, vừa triệt để chia cắt các tỉnh miền núi ra thành nhiều mảnh nhỏ để dễ bề ứng phó. Chúng đưa quân lên miền núi, khoanh vùng những mường lớn, hoặc gộp mấy mường, thành lập những tỉnh nhỏ, để xoá bỏ chế độ chính quyền của ta, đặt bộ máy thống trị, đàn áp của chúng, để lừa bịp, chia rẽ các dân tộc cũng như thúc ép các nhóm dân cư hằn thù, chống đối nhau. Năm 1886, trong vòng hai tháng, thực dân Pháp đã cắt tỉnh Hưng Hoá, thành lập 4 tỉnh mới: Lào Cai, Sơn La, Hưng Hoá, Chợ Bờ, sau này thêm tỉnh Lai Châu. Đến năm 1895, trong vòng 8 năm, thực dân Pháp đã thực hiện được việc chia cắt miền núi phía Tây nước ta thành nhiều mảnh, thành lập nhiều tỉnh nhỏ, và đã dập tắt được phong trào kháng chiến của ta ở đây. Không những vậy, thực dân Pháp còn chủ trương thành lập một tỉnh gồm tất cả các vùng mường thuộc Hưng Hoá, Sơn Tây, Hà Nội, Ninh Bình. tháng 7/1886, tỉnh Chợ Bờ được thành lập, và Pháp tiếp tục tiến hành các đợt tấn công vào vùng này. Tháng 3/1891, Pháp dồn 2 châu Lương Sơn, Lạc Thuỷ về Chợ Bờ, sau đó xoá bỏ tên Chợ Bờ, đổi là tỉnh Hoà Bình. Trong nghị định toàn quyền ngày 18/3/1891 lập lại tỉnh Hoà Bình, thực dân Pháp đưa lý do: “một tỉnh mường để đem lại cho các bộ lạc chế độ hành chính hợp nhất với tổ chức và tập quán phong kiến của họ”. Lần đầu tiên thực dân Pháp đã dung hai chữ “tỉnh mường” , nhưng hai chữ ấy chưa có nghĩa là tỉnh của dân tộc Mường”. Năm 1905, thực dân Pháp tiến hành lập các bản đồ dân tộc của toàn Đông Dương. Và tới đây, Pháp đã chia rẽ xong khối dân tộc Việt, tách người Việt vùng mường thành một dân tộc riêng, chính thức gọi là dân tộc Mường. Vậy, việc tách ra và thành lập dân tộc Mường có phải chỉ là sự cưỡng ép của thực dân Pháp thôi không? Thực dân Pháp mặc dù đã chính thức chia tách bộ phận dân cư Việt từ Thanh Hoá trở ra thành dân tộc Mường, nhưng không dám công khai việc đó, thế nên triều dình Huế cho đến tận năm 1925 vẫn không hề hay biết gì. Bên cạnh đó, dân tộc Việt miền núi cũng chưa tự nhận mình là người dân tộc Mường, trừ trường hợp phải khai báo về mặt hành chính. Theo Nguyễn Lương Bích[1], “Tên dân tộc Mường mới chỉ có từ thời Pháp thuộc, sự tách biệt người Việt vùng Mường thành dân tộc Mường chỉ là một qui định hành chính theo chính sách “chia để trị” của thực dân Pháp cách đây chưa đầy một trăm năm, không phải là kết quả của quá trình phát triển của dân tộc ta ở bất kỳ thời đại nào trong lịch sử” Tôi đồng ý với việc cho rằng tên dân tộc Mường chỉ mới có từ thời Pháp thuộc; nhưng nếu nhận định việc tách ra của dân tộc Mường không phải là kết quả của quá trình phát triển của dân tộc ta ở bất kỳ thời đại nào trong lịch sử thì chưa thực sự chính xác. Bởi, việc tách dân tộc Mường khỏi Việt là cả một quá trình. Ngay từ trước khi Pháp vào Việt Nam, thì dưới ảnh hưởng của văn hoá Hán, đã có sự tương đối tách biệt giữa người Việt đồng bằng (người Kinh) với những cư dân Việt - Mường khác (ít tiếp xúc với văn hoá Hán hơn). Bên cạnh đó, sự khác nhau về địa lý dẫn đến khác nhau về tập quán sinh hoạt, sản xuất, trình độ xã hội,… tất yếu cũng sẽ dẫn đến sự chia tách cư dân Việt Mường thành Việt, Mường, Thổ, Chứt như ngày nay. Thực dân Pháp chỉ chính thức hợp lý hoá và đưa ra tên gọi “Mường” cho các cư dân Việ miền núi mà thôi, còn quá trình tách biệt dần dần của nó đã bắt đầu từ trước đó. Chúng ta có thể thấy quan điểm này trùng với quan điểm của một số nhà ngôn ngữ học khi nghiên cứu về các giai đoạn phát triển của ngôn ngữ Việt Mường. III. CÁC GIAI ĐOẠN PHÁT TRIỂN CỦA NHÓM NGÔN NGỮ VIỆT MƯỜNG 1. Giai đoạn tiền Việt-Mường Theo kết quả nghiên cứu hiện nay, người ta ước lượng giai đoạn tiền Việt-Mường của tiếng Việt là tiếng nói sau giai đoạn Mon-Khmer và kéo dài cho đến thế kỉ thứ nhất và thứ hai sau công nguyên. Do đó, quãng thời gian tương đối mà người ta nói đến của giai đoạn Việt-Mường là ít nhất vào khoảng trên 2000 năm. Nếu đứng trên bình diện văn hoá, đây là giai đoạn tương ứng với giai đoạn văn hoá Đông Sơn, văn minh sông Hồng, đặc biệt là văn minh lúa nước và đây cũng là giai đoạn phát triển rực rỡ của đồ đồng và bắt đầu có sự xuất hiện của đồ sắt. Còn về mặt nhà nước, đây là giai đoạn tương ứng với thời kì Hùng Vương – nhà nước đầu tiên của người Việt. Có thể nói sự xuất hiện của nhà nước và sự phát triển của nền văn minh lúa nước đã có những ảnh hưởng quan trọng trong việc phát triển tiếng Việt cũng như củng cố vị trí của nó trong cộng đồng cư dân Việt. Tiếng Việt ở giai đoạn tiền Việt-Mường tuy là một ngôn ngữ thống nhất nhưng tự bản thân nó đã có sự phân biệt. Tuy nhiên, sự phân biệt này chỉ mang tính chất phương ngữ mà thôi. Sự khác nhau có tính phương ngữ này là cơ sở để về sau hình thành các ngôn ngữ khác nhau trong nhóm Việt-Mường. Như vậy, các ngôn ngữ khác nhau trong nhóm Việt-Mường chính là hệ quả của sự khác nhau ban đầu này và do yếu tố địa lí chi phối. Ở giai đoạn tiền Việt-Mường, tiếng Việt vẫn là một ngôn ngữ chưa có thanh điệu. Bởi vì vừa tách khỏi nhánh Mon-Khmer nên tiếng tiền Việt-Mường vẫn còn lưu giữ đặc điểm không có thanh điệu của các ngôn ngữ Mon-Khmer thuộc họ Nam Á. Và cho đến hiện nay, tiếng Arem trong nhóm Việt-Mường hiện tại cũng là một ngôn ngữ không có thanh điệu. Ở thời kì tiền Việt-Mường, tiếng Việt là một ngôn ngữ mà vốn từ vựng của nó về cơ bản là thuần Môn-Khơme và nó đã có ít nhiều tiếp xúc với các ngôn ngữ thuộc họ Nam Đảo và Thái-Kadai. Riêng đối với họ Hán-Tạng thì các ngôn ngữ tiền Việt-Mường dường như chưa có sự tiếp xúc. Do hai khả năng vừa phân tích trên, nhiều nhà nghiên cứu dự đoán ở giai đoạn tiền Việt-Mường, tiếng Việt vẫn còn sử dụng phương thức phụ tố trong cấu tạo từ để tạo thành từ mới. Điều đó chứng tỏ tiếng tiền Việt-Mường còn lưu giữ đầy đủ đặc điểm của Môn-Khơme. Sự phân biệt giữa tiếng tiền Việt-Mường với các ngôn ngữ Môn-Khơme có chăng chỉ là sự ảnh hưởng của các ngôn ngữ Thái. Vì vậy, có thể nói, các ngôn ngữ Thái là tác nhân làm cho khối Mon-Khmer tách riêng ra một nhóm ở phía đông của nhánh và đó là tiền thân của tiền Việt-Mường. Các nhà nghiên cứu về lịch sử ngôn ngữ cũng như lịch sử văn hoá thường đồng nhất tiếng Việt ở giai đoạn tiền Việt-Mường trong lịch sử tiếng Việt như là một ngôn ngữ dùng chung cho nhà nước Văn Lang của thời kì Hùng Vương. Tuy nhiên, chứng cứ để chứng minh cho sự tồn tại của ngôn ngữ thống nhất này, vì tính chất quá cổ xưa của lịch sử, không còn được giữ lại. Người ta chỉ có thể nhận biết điều này nhờ 2 hệ quả như sau: Ở giai đoạn lịch sử về sau, tiếng Việt với tư cách là một ngôn ngữ đã bị một ngôn ngữ khác đặt vào vị thế bị đồng hoá và thời gian ở vị thế ấy kéo dài hàng nghìn năm. Tuy nhiên, khi lịch sử không duy trì điều kiện bị đồng hoá đó, ngay lập tức tiếng Việt trở thành một ngôn ngữ thống nhất trong toàn dân. Chính việc tiếng Việt trở thành một ngôn ngữ thống nhất sau khi môi trường bị đồng hoá mất đi đã chứng tỏ ở giai đoạn tiền Việt-Mường tiếng Việt đã là một ngôn ngữ phát triển khá bền vững Khi chúng ta nói tiếng Việt ở giai đoạn tiền Việt-Mường là một ngôn ngữ thống nhất như vậy cũng có nghĩa là chúng ta nói tới tất cả các ngôn ngữ trong nhóm Việt-Mường hiện nay mà không có sự phân biệt như ở giai đoạn hiện tại: phân biệt giữa tiếng Việt với tiếng Mường; Mường – Cuối; Cuối – Arem; Rục - Sách;... Trong nghiên cứu lịch sử tiếng Việt, giai đoạn tiền Việt-Mường được coi là khởi đầu của lịch sử tiếng Việt. Do đó, tiếng tiền Việt-Mường được coi là ngôn ngữ mẹ hay ngôn ngữ cơ sở, ngôn ngữ chung mà từ đó xuất hiện tất cả các ngôn ngữ thuộc nhóm Việt-Mường hiện nay. Và để chứng minh được điều này, người ta luôn luôn đòi hỏi các nhà nghiên cứu phải tái lập được dạng thức tiền Việt-Mường của tiếng Việt. 2. Giai đoạn Việt-Mường cổ Thời gian: ứng vào quãng sau thế kỉ 1–2 sau công nguyên và kéo dài đến thế kỉ 8–9, thậm chí là có thể đến thế kỉ 10. Về mặt lịch sử, giai đoạn này tương ứng với thời kì Bắc thuộc. Điều kiện lịch sử này là nhân tố ngoài ngôn ngữ cho chúng ta biết rằng đây là giai đoạn tiếng Việt tiếp xúc với tiếng Hán nhiều nhất trên cả hai bình diện: tự nguyện và ép buộc. Vào thời kì này, trên vùng địa lí của cả khối ngôn ngữ tiền Việt-Mường đã có sự phân hoá, sự phân hoá này dẫn đến kết quả là: + Một bộ phận tách biệt trở thành các ngôn ngữ hiện nay như kiểu tiếng Arem, Rục, Mã Liềng... (ngôn ngữ song tiết); + Một bộ phận có tiếp xúc với tiếng Hán trở thành các ngôn ngữ Việt-Mường cổ (ngôn ngữ đơn tiết). Sự phân chia về mặt ngôn ngữ này cũng tương ứng với sự phân chia về mặt địa lí: - Việt-Mường cổ ở phía Bắc và khu vực đồng bằng; - Phần còn lại ở phía Nam và khu vực miền núi. - Trong suốt gần 1000 năm Bắc thuộc, việc tiếp xúc giữa tiếng Việt và văn hoá Việt bản địa với tiếng Hán và văn hoá Hán ở địa bàn tương ứng với lãnh thổ Đại Việt sau này là khác nhau tuỳ thuộc vào thời gian, địa lí và thậm chí là cả về phương thức tiếp xúc. Tiếng Việt-Mường cổ đã có sự tiếp xúc đặc biệt với tiếng Hán. Sự tiếp xúc này dẫn đến 2 hệ quả: - Thứ nhất, vốn từ vựng của tiếng Việt lúc này đã có sự vay mượn từ tiếng Hán. Như vậy, đến giai đoạn này, tiếng Việt đã tiếp xúc với các họ ngôn ngữ: Nam Đảo – Thái Kadai – Hán Tạng. Và có thể xác định thành phần (về mặt nguồn gốc) từ vựng tiếng Việt giai đoạn này như sau: + Cội nguồn: họ Nam Á và nhánh Mon-Khmer; + Vay mượn: Nam Đảo – Thái Kadai – Hán-Tạng - Thứ hai, tiếng Việt ở giai đoạn Việt-Mường cổ đã bắt đầu một quá trình đơn tiết hoá. Chính vì hiện tượng này mà bộ phận tiền Việt-Mường nào chịu tác động nhiều thì sẽ phát triển theo xu hướng của Việt-Mường cổ; còn bộ phận nào không chịu ảnh hưởng của tác động này thì sẽ lưu lại và hiện nay trở thành hiện thân của bộ phận tiền Việt-Mường xưa kia. Lúc này đã có sự xuất hiện thanh điệu trong tiếng Việt-Mường cổ cũng như sự thể hiện của tính chất đơn tiết theo quy luật đơn tiết hoá của tiếng Việt - Mường cổ Nếu như ở giai đoạn tiền Việt-Mường các ngôn ngữ hiện nay được xếp vào nhóm Việt-Mường đang là một khối thống nhất thì ở giai đoạn này đã có một sự phân hoá. Sự phân hoá này làm tách biệt thành một bên là những ngôn ngữ tiền Việt-Mường còn lưu giữ lại đến ngày nay và một bên là các ngôn ngữ Việt-Mường cổ để nó tiếp tục phát triển theo một hướng khác. 3. Giai đoạn Việt-Mường chung Giai đoạn Việt Mường chung là một giai đoạn rất quan trọng trong lịch sử phát triển của tiếng Việt. Theo nghiên cứu hiện nay, vào giai đoạn này tiếng Việt và tiếng Mường đang còn là một ngôn ngữ thống nhất. Chỉ về sau giai đoạn này tiếng Việt mới tách ra thành một ngôn ngữ riêng lẻ thực sự. Giai đoạn Việt-Mường chung là giai đoạn tiếng Việt được người Việt sử dụng ở thời kì độc lập sau khi thoát khỏi sự đô hộ của phong kiến phương Bắc. Về mặt thời gian: giai đoạn này kéo dài từ thế kỉ 9 (10) đến khoảng thế kỉ 14.Đây là thời kì người Việt bắt đầu xây dựng một quốc gia phong kiến độc lập trên cơ sở lãnh thổ địa lí của nhà nước Hùng Vương trước đây. Trong điều kiện như vậy, người Việt phấn đấu để xây dựng một nhà nước đảm bảo bình đẳng với các quốc gia khác trong khu vực. Bối cảnh ngôn ngữ ở giai đoạn này có thể được miêu tả như sau: + Trong cộng đồng cư dân, người ta sử dụng tiếng Việt với tư cách là ngôn ngữ mẹ đẻ. Tuy nhiên, trong việc quản lí nhà nước, người ta lại dùng chữ Hán và tiếng Hán như một công cụ hành chính. + Ngôn ngữ văn hoá (/văn học/bác học) không phải là tiếng Việt vì thế tiếng Việt về cơ bản chỉ tồn tại trong đời sống dân gian của người Việt. Và chính điều này đã tác động rất mạnh đến sự phát triển của tiếng Việt. Giai đoạn này là giai đoạn hình thành cách đọc Hán Việt, lớp từ ngữ Hán Việt – một hiện tượng vay mượn đặc biệt trong quá trình phát triển của tiếng Việt. Các từ gốc Hán đã du nhập vào trong vốn từ của khối Việt-Mường chung một cách ồ ạt và tạo ra một lớp từ mà các nhà ngôn ngữ học gọi là từ Hán Việt. Trước đây, từ gốc Hán chỉ là một bộ phận nhỏ nhưng ở giai đoạn này nó đã trở thành một bộ phận quan trọng, cả về số lượng lẫn chất lượng, trong vốn từ tiếng Việt. Như vậy, ở giai đoạn Việt-Mường chung, tiếng Việt đã hình thành một lớp từ Hán Việt. Lớp từ này phân biệt với những từ gốc Hán vay mượn từ thời Việt-Mường cổ trở về trước mà các nhà nghiên cứu thường gọi là Hán Việt cổ (hoặc cổ Hán Việt/ Hán Việt thượng cổ). + Tuy nhiên, sự vay mượn các từ ngữ gốc Hán ở giai đoạn này cũng có sự khác biệt do yếu tố địa lí-xã hội chi phối. Theo đó, ở vùng thành thị và vùng lân cận, việc vay mượn này diễn ra rõ nét, còn những vùng khác, do điều kiện địa lí và xã hội khó khăn, việc vay mượn này mờ nhạt. Từ đó dẫn đến sự phân hoá trong khối Việt-Mường chung. Để sau này, một bộ phận tách thành tiếng Việt và một bộ phận khác chuyển thành tiếng Mường hiện nay. Vào giai đoạn Việt-Mường chung, tiếng Việt đã có những biến đổi ngữ âm rất quan trọng. Đó là: Vào thời kì này, về mặt nguyên tắc, tiếng Việt đã hình thành xong hệ thống thanh điệu dựa trên sự đối lập âm vực (cao – thấp) và sự đối lập về tuyến điệu (bằng phẳng – không bằng phẳng; trong không bằng phẳng lại có sự đối lập gãy – không gãy). Như vậy, vào thời điểm này tiếng Việt phải được coi là một ngôn ngữ có hệ thống 6 thanh điệu. Ở giai đoạn Việt-Mường chung, tiếng Việt có một quy luật chuyển đổi ngữ âm, đó là quy luật vô thanh hoá các phụ âm hữu thanh. Tình trạng này cho đến hiện nay vẫn lưu giữ lại trong tiếng Mường. Do đó, trong hệ thống ngữ âm tiếng Mường, về nguyên tắc, không có sự đối lập giữa phụ âm vô thanh với phụ âm hữu thanh mà chỉ có loạt duy nhất là các phụ âm vô thanh. Ví dụ: Việt đ đi đất ba bốn chó chấy gà gái Mường tti tất pa puốn chó chí ka cái/kí Ở thời kì này tiếng Việt đã hoàn toàn xoá thế đối lập dài ngắn đều đặn trước kia của hệ thống ngữ âm tiền Việt-Mường và thay thế vào đó bằng thế đối lập ngắn và đôi hoá. So với danh sách phụ âm đầu ở giai đoạn tiền Việt-Mường, hệ thống phụ âm đầu ở giai đoạn Việt-Mường chung đơn giản hơn nhiều do chỗ không còn sự đối lập giữa dãy âm vô thanh với dãy hữu thanh. Những đặc điểm chính của tiếng Việt-Mường chung cho phép chúng ta phân biệt nó với tiếng Việt-Mường cổ. Hiện tượng này chính là sự phân hoá của tiếng tiền Việt-Mường trước đây thành một bên là tiểu nhóm tiền Việt-Mường, một bên là tiểu nhóm Việt-Mường cổ và một bên nữa là tiểu nhóm Việt-Mường chung – là ngôn ngữ tiền thân của tiếng Việt và tiếng Mường hiện nay. Từ giai đoạn tiếp theo, tiếng Việt sẽ phát triển theo một khuyh hướng riêng, tách biệt với tiếng Mường và từ đây chúng ta có một lịch sử riêng của tiếng Việt mà về nguyên tắc là không chịu sự tác động chung với các ngôn ngữ khác của nhóm Việt-Mường. Như vậy, xét về mặt ngôn ngữ học, các nhà nghiên cứu cũng khẳng định, mặc dù có những biến đổi khác nhau về mặt ngôn ngữ qua các giai đoạn lịch sử, nhưng nhìn chung, cho đến tận thế kỷ XIV, Tiếng Việt - Mường vẫn là ngôn ngữ chung, thống nhất của cư dân Việt - Mường bao gồm cả người Việt ở đồng bằng và miền núi. Nó chứng tỏ chưa có sự tách biệt về mặt ngôn ngữ cũng như dân tộc trước thế kỷ XV thành các tộc: Việt, Mường, Thổ, Chứt như ngày nay. KẾT LUẬN Vấn đề mối quan hệ giữa dân tộc Việt và Mường là vấn đề đòi hỏi phải kết hợp nhiều ngành nghiên cứu để giải quyết. Với phạm vi của tiểu luận này, chúng tôi mới chỉ đề cập đến khía cạnh lịch sử hình thành và ngôn ngữ để xem xét mối quan hệ trên. Có thể nói, tuy có nhiều ý kiến khác nhau xung quanh việc dân tộc Mường được tách ra từ khi nào, nhưng điều quan trọng ở đây là chúng ta thấy được dân tộc Việt và dân tộc Mường, có quan hệ gắn bó lâu đời, có chung một nguồn gốc, một chế độ chính trị và một ngôn ngữ trong một thời gian dài. Sự thống nhất ấy chỉ bắt đầu có biểu hiện bị phá vỡ khi chịu ảnh hưởng của người Hán và chính thức được thừa nhận khi Pháp vào xâm lược và thực hiện chế độ “chia để trị” ở nước ta. Với nhận thức và trình độ còn hạn chế, tôi chưa dám đưa ra nhận định nào chắc chắn về thời điểm tách ra của dân tộc Mường nhưng theo tôi, sự chia tách đó chưa thể kết thúc vào thế kỷ X như ý kiến của nhiều nhà nghiên cứu. Nghiên cứu quan hệ giữa dân tộc Việt và dân tộc Mường còn có thể dựa trên nhiều cơ sở khác như cơ sở kinh tế, tập quán sinh hoạt, ý thức tộc người,… mà các nhà nghiên cứu có thể khai thác để có thể tìm ra câu trả lời cho sự ra đời của dân tộc Mường và quan hệ Việt - Mường trong lịch sử. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Nguyễn Lương Bích – Trong lịch sử Người Việt và người Mường là hai hay một dân tộc. TC Dân tộc học số 4 – 1974. 2. Hà Văn Tấn - Phạm Đức Dương - Về ngôn ngữ tiếng Việt - Mường. TC Dân tộc học, số 1 – 1978. 3. Lê Sỹ Giáo(Chủ biên) – Giáo trình Dân tộc học đại cương. NXB Giáo dục 2001. 4. Vương Hoàng Tuyên – Các dân tộc nguồn gốc Nam Á ở miền Bắc Việt Nam. NXB Giáo dục 1963. 5. Đặng Nghiêm Vạn - Cộng đồng quốc gia dân tộc Việt Nam. NXB ĐHQG, TP HCM 2003. 6. Nguyễn Hoài Văn - Vấn đề quan hệ dân tộc và phát triển ở nước ta hiện nay. trang tin điện tử Uỷ ban Dân tộc Việt Nam. 7. Viện Dân tộc học – Các dân tộc ít người ở Việt Nam(các tỉnh phía Bắc). NXB KHXH – 1978. 8. Các giai đoạn ngôn ngữ Việt - Mường. 9. Nhóm ngôn ngữ Việt Mường. 10. Nhóm ngôn ngữ Việt Mường. . Trang tin điện tử Uỷ ban Dân tộc Việt Nam. MỤC LỤC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docdth04.doc