Tiểu luận Lạm phát ở Việt Nam thực trạng và giải pháp

Tiểu luận tài chính tiền tệ LỜI NÓI ĐẦU Cơ chế thị trường đã rung lên hồi chuông cảnh báo bao sự đổi thay của nền kinh tế Việt Nam trong những thập niên gần đây. Trong nền kinh tế thị trường hoạt động đầy sôi động và cạnh tranh gay gắt để thu được lợi nhuận cao và đứng vững trên thương trường, các nhà kinh tế cũng như các doanh nghiệp phải nhanh chóng để tiếp cận, nắm bắt những vấn đề của nền kinh tế mới. Bên cạnh bao vấn đề cần có để kinh doanh còn là những vấn đề nổi cộm khác trong kinh tế. Một trong những vấn đề nổi cộm ấy là lạm phát. Lạm phát như một căn bệnh của nền kinh tế thị trường, nó là một vấn đề hết sức phức tạp đòi hỏi sự đầu tư lớn về thời gian trí tuệ mới có thể mong muốn đạt được kết quả khả quan. Chống lạm phát không chỉ là việc của các nhà doanh nghiệp mà còn là nhiệm vụ của chính phủ. Lạm phát ảnh hưởng toàn bộ đến nền kinh tế quốc dân, đến đời sống xã hội, đặc biệt là giới lao động ở nước ta hiện nay, chống lạm phát giữ vững nền kinh tế phát triển ổn định, cân đối là một mục tiêu rất quan trọng trong phát triển kinh tế xã hội, nâng cao đời sống nhân dân. Trong thời gian gần đây, vấn đề lạm phát đã được nhiều người quan tâm, nghiên cứu và đề xuất các phương án khác. Đã từ lâu tiền giấy xuất hiện và chẳng bao lâu sau đó diễn ra tình trạng giảm giá tiền và dẫn đến lạm phát. Nét đặc trưng nổi bật của thực trạng nền kinh tế khi có lạm phát, giá cả của hầu hết các hàng hóa đều tăng cao và sức mua của đồng tiền ngày càng giảm nhanh. Nhìn lại lịch sử lạm phát, từ cuối thế kỷ 19 đến cuối thế kỷ 20 ở nước ta lạm phát diễn ra nghiêm trọng và kéo dài mà nguồn gốc của nó là do hậu quả nặng nề của chiến tranh, cơ cấu kinh tế bất hợp lý kéo dài. Lạm phát đã phá vỡ toàn bộ nền kinh tế, phương hại đến tất cả các mối quan hệ kinh tế trong nền kinh tế- xã hội. Xuất phát từ vấn đề nghiên cứu lạm phát là cần thiết, cấp bách, đặc biệt thấy được tầm quan trọng của lạm phát. Vì vậy, với lực lượng kiến thức còn hạn chế, em thíết nghĩ nghiên cứu đề tài này cũng là một phương pháp để hiểu nó một cách thấu đáo hơn, sâu sắc hơn Lạm phát ở Việt Nam thực trạng và giải pháp

pdf30 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2246 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Lạm phát ở Việt Nam thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
t. Theo lý thuyết kinh tế học hiện đại, lạm phát do ba nguyên nhân: cầu kéo, chi phí đẩy và quá thừa mức tiền cung ứng trong lưu thông. Tuy nhiên trong thực tế, lạm phát gia tăng còn do một số nguyên nhân nữa, thí dụ: Tâm lý của dân chúng, sự mất cân đối trong cơ cấu đầu tư... Lạm phát tiền tệ được hiểu là mức tiền cung ứng cho lưu thông vượt quá mức cần thiết, biểu hiện là sự mất giá của đồng bản tệ. Lạm phát giá cả được hiểu là giá cả hàng hóa và dịch vụ nói chung tăng lên do cầu lớn hơn cung (cầu kéo), hoặc do chi phí sản xuất hàng hóa và dịch vụ tăng lên (chi phí đẩy). Trong thực tế hai loại lạm phát nói trên ít khi xảy ra cùng một lúc, mà thường hoặc là lạm phát giá cả, hoặc là lạm phát tiền tệ. Nguyên nhân lạm phát ở Việt Nam hiện nay Trên cơ sở nghiên cứu về biến động của giá cả và lạm phát ở Việt Nam, chúng tôi cho rằng lạm phát ở Việt Nam thời gian qua (đặc biệt là năm 2004) là do những nguyên nhân sau: 1. Về phương pháp tính Phương pháp tính chỉ số CPI của các nước khác với Việt Nam. Một là, các nước thường loại trừ giá lương thực, dầu mỏ ra khi tính toán...; Hai là, giá đó là giá giao dịch mua buôn, bán buôn trên thị trường hàng hóa của các nhà kinh doanh, còn giá bán lẻ cho người tiêu dùng đối với nhiều mặt hàng thì vẫn ổn định; Ba là, các mặt hàng đó chiếm tỷ trọng nhỏ trong các nhóm hàng hóa và dịch vụ tính CPI. Ở Việt Nam theo phương pháp tính CPI hiện nay, giá cả của nhóm hàng lương thực, thực phẩm chiếm quyền số lớn nhất, tới 47,9% trong rổ hàng hóa tính CPI. Trong các năm trước đây, mặc dù nhiều nhóm mặt hàng khác có biến động tăng đáng kể, nhưng nhóm mặt hàng lương thực, thực phẩm, Tiểu luận tài chính tiền tệ A3 - TCQTB - K46 11 nhất là giá lúa gạo, giá cao su, cà phê, hạt điều, thịt lợn, rau hoa quả biến động thất thường. Trong các năm 1991, 1993, 1994, 1998, ... giá lương thực và thực phẩm tăng rất cao, kèm theo đó là chỉ số giá chung cũng tăng cao. Ngược lại, trong các năm 1997, 1999, 2000, ... các mặt hàng lương thực, thực phẩm có giá bán giảm thấp, khó tiêu thụ, nên đã làm cho CPI ở mức rất thấp, thậm chí là âm. Nhưng năm 2004 nhóm mặt hàng này đã tăng tới 15%; trong đó giá lương thực tăng 12,5% và giá thực phẩm tăng 16,8%, đã tác động mạnh làm gia tăng cao chỉ số CPI nói chung. Do đó nếu loại bớt được sự tăng giá đột biến gây những cú sốc trong tính toán, thì rõ ràng chỉ số lạm phát không cao như đã công bố. 2. Điều tiết vĩ mô kém Một thực tế cần phải thừa nhận là điều tiết vĩ mô của chúng ta trước những biến động bất thường cả từ trong và ngoài nước để nhằm bình ổn thị trường trong nước là còn nhiều bất cập. Thí dụ, đến khi giá thuốc tân dược leo thang hàng ngày và được bán ở mức rất cao, gây rối loạn thị trường thuốc chữa bệnh, lúc đó chúng ta mới nghĩ đến vấn đề dự trữ quốc gia về thuốc tân dược; Các quyết định quản lý được đưa ra để điều tiết thị trường thường là chậm trễ, vì thế hiệu quả điều tiết kém. Thí dụ: việc điều chỉnh giảm thuế thép, phôi thép mặc dầu được kiến nghị từ tháng 1/2004 nhưng đến tháng 3/2004 mới được thực hiện, vào lúc này giá phôi thép đã tăng lên 480-500 USD/tấn và giá thép xây dựng đã tăng lên tới 500-520 USD/tấn. Do vậy các doanh nghiệp khi nhập khẩu tại thời điểm này khó có khả năng cạnh tranh với các doanh nghiệp đã nhập phôi thép trước đó; Tình trạng độc quyền, đầu cơ trục lợi vẫn còn phổ biến dẫn đến thao túng, gây rối loạn thị trường; Cũng do quản lý kém đã dẫn đến tình trạng tham nhũng, lãng phí trong đầu tư xây dựng cơ bản là rất lớn. Hệ lụy tất yếu của những tình trạng trên là thị trường trong nước thêm rối loạn; Khi chỉ số lạm phát gia tăng nhanh chóng trong những tháng đầu năm 2004, mặc dù tổng phương tiện thanh toán trong nền kinh tế là phù hợp với các chỉ số kinh tế vĩ mô (sẽ được phân tích ở phần dưới đây), nhưng dưới sức ép của dư luận, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam lại thực hiện một chính sách tiền tệ thắt chặt nhằm giảm mức cung ứng tiền tệ. Như vậy Ngân hàng Nhà nước đã khắc phục bất hợp lý này bằng một bất hợp lý khác. Hệ quả của nó là đẩy lãi suất lên cao, tăng chi phí đầu tư, hạn chế đầu tư, kìm hãm sản xuất và tăng thất nghiệp. 3. Cung ứng tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước Tổng phương tiện thanh toán, bao gồm tiền mặt trong lưu thông, tiền gửi tại ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng (nội và ngoại tệ). Nhân tố này về nguyên lý là thường tác động có độ trễ, tức là tổng phương tiện thanh toán tăng lên trong kỳ này, thì ảnh hưởng của nó phát sinh ở kỳ sau, trong Tiểu luận tài chính tiền tệ A3 - TCQTB - K46 12 ngắn hạn là 6 tháng, trung và dài hạn thường là từ 1 năm trở lên. Trong 14 năm qua, mức tăng tổng phương tiện thanh toán bình quân 23%-26%/năm, phù hợp với tốc độ tăng trưởng kinh tế và không thấy tác động rõ rệt về lạm phát, cũng như giảm phát. Năm 1999 tổng phương tiện thanh toán tăng cao nhất, tới 39,25%, nhưng các năm 1999, 2000 và 2001 tốc độ tăng chỉ số CPI ở mức thấp, thậm chí năm 2000 còn giảm 0,6%. Các năm 1994, 1995, 1998, chỉ số CPI tăng cao, nhưng các năm đó và năm trước đó tốc độ tăng tổng phương tiện thanh toán vẫn ở mức trung bình nhiều năm. Năm 1998, tổng phương tiện thanh toán tăng thấp nhất, chỉ có 20,33%, nhưng CPI lại tăng tới 9,2%. Trong 6 tháng đầu năm nay tổng phương tiện thanh toán tăng 7,26%, thấp hơn mức tăng cùng kỳ năm 2003 là 8,28%. Song chỉ số tăng giá trong 6 tháng đầu năm 2004 đã là 7,2%. Còn trong năm 2004, tổng phương tiện thanh toán, tốc độ tăng trưởng vốn huy động và tăng dư nợ cho vay, ... đều thấp hơn mức cùng kỳ năm ngoái, nhưng CPI đã là 9,5%. Tất nhiên như đã nói ở trên là có độ trễ về mặt thời gian, thường từ 6 tháng đến 1 năm. Như vậy có thể khẳng định, lạm phát ở Việt Nam trong hơn 14 năm qua nói chung và năm 2004 nói riêng không phải là lạm phát tiền tệ. 4. Do cầu kéo Trong những năm qua, phát triển nền kinh tế theo cơ chế thị trường, hàng hóa và dịch vụ trên thị trường trong nước dồi dào, đa dạng và phong phú. Do đó hầu như không có tình trạng khan hiếm hàng hóa trên thị trường dẫn tới tăng giá một hay một số mặt hàng nào đó. Song trong năm 2004, do ảnh hưởng của dịch cúm gia cầm xẩy ra trên diện rộng và kéo dài, đã làm giảm mạnh nguồn cung sản phẩm gia cầm, trong khi nhu cầu thực phẩm tiếp tục tăng lên, làm cho giá cả mặt hàng gia cầm nói riêng tăng đột biến. Đồng thời nhu cầu của người tiêu dùng được chuyển sang các mặt hàng thực phẩm khác nên đã làm cho nhóm hàng thực phẩm nói chung tăng cao, tới 16,8% trong 9 tháng đầu năm 2004. Mặt khác, do biến động mạnh của bất động sản từ cuối năm 1999, do vậy nhu cầu xây dựng tăng cao, dẫn đến giá cả của vật liệu xây dựng, sắt thép, các mặt hàng trang trí nội thất đồng lọat tăng lên. Một diễn biến khác cũng xét từ nhân tố cầu kéo, có thể thấy do giá xuất khẩu gạo của Việt Nam được cải thiện và khối lượng gạo xuất khẩu tăng, thị trường xuất khẩu thủy sản ổn định và được mở rộng. Do đó giá của các mặt hàng lương thực, thủy hải sản tăng lên. 5. Do chi phí đẩy Nhân tố này chủ yếu là do giá cả các mặt hàng mà Việt Nam nhập khẩu trên thị trường thế giới tăng lên, tập trung là giá xăng dầu, phôi thép, nguyên liệu nhựa, phân đạm Urê, bột giấy, thuốc chữa bệnh, vật phẩm y tế..., làm cho giá bán lẻ trong nước cũng tăng lên. Chỉ riêng mặt hàng xăng dầu trong năm 2004 đã được điều chỉnh tăng 4 lần. Tình hình đó làm cho chi phí của Tiểu luận tài chính tiền tệ A3 - TCQTB - K46 13 một loạt lĩnh vực tăng lên, nhất là giao thông vận tải. Giá cước vận chuyển hàng không tăng 8%, vận tải đường sắt tăng 10% nhằm thực hiện chính sách hòa đồng giá vé giữa người Việt Nam và người nước ngoài, ... Bên cạnh đó chi phí xăng dầu, phân bón, thuốc trừ sâu, ... của người nông dân cũng tăng cao. Giá sắt thép tăng làm cho ngành xây dựng và cơ khí chế tạo tăng chi phí. Nguyên liệu nhựa và bột giấy tăng... cũng làm cho chi phí của một loạt ngành sản xuất và một loạt sản phẩm phải tăng giá bán lên. Đặc biệt là sự biến động lớn của thị trường bất động sản từ năm 1999 đến nay, hệ lụy của nó là vô cùng lớn. Đáng nhẽ các nguồn tiền nhãn rỗi trong nền kinh tế đặc biệt là trong dân cư phải được tập trung để đầu tư phát triển sản xuất thì nay mọi người lại dồn hết tiền để kinh doanh bất động sản gây rối loạn thị trường này, đẩy giá bất động sản tăng hàng chục lần. Do vậy giá thuê mặt bằng để sản xuất, thuê cửa hàng để kinh doanh cũng tăng lên tương ứng, đẩy chi phí sản xuất lên cao. 6. Do tâm lý dân chúng Khi thị trường bất động sản ở Việt Nam đang rối loạn, giá cả một số mặt hàng đang leo thang hàng ngày, gây tâm lý bất ổn trong dân chúng thì tiếp đó (đầu năm 2004) Bộ Nội vụ công bố dự kiến tăng lương mới (thực tế tăng từ 1/10/2004) đã kích thích tâm lý tăng tiêu dùng của dân chúng, làm cho giá cả các mặt hàng tiêu dùng tăng nhanh từ đầu năm (thông thường là tăng vào cuối năm). Mặt khác khi dân chúng đang lo sợ sự sụt giá của đồng tiền Việt Nam thì NHNN Việt Nam lại phát hành thêm loại tiền mệnh giá 100.000 đồng mới vào lưu thông (gấp đôi mệnh giá lớn nhất trước đó). Vào cuối năm 2003, NHNN Việt Nam lại đưa tiếp loại tiền polyme mới với các mệnh giá 50.000, 500.000, 100.000 vào lưu thông. Đặc biệt là đồng tiền với mệnh giá 500.000 (lớn gấp 10 lần so với đồng tiền có mệnh giá lớn nhất trước đó) đã tiếp tục tác động xấu đến tâm lý của dân chúng. Dân chúng cho rằng NHNN Việt Nam đang đưa thêm vào lưu thông một khối lượng tiền rất lớn và vì vậy giá trị đồng tiền Việt Nam sẽ giảm mạnh. Do đó dân chúng càng có xu hướng chuyển từ tài sản tiền tệ VNĐ sang các tài sản tài chính khác và càng khuyến khích tâm lý tiêu dùng. Kết quả là giá cả các mặt hàng trong nền kinh tế tiếp tục gia tăng. Như vậy qua nghiên cứu về diễn biến chỉ số tăng giá hàng tiêu dùng nói chung và diễn biến lạm phát nói riêng trong hơn 14 năm qua, cũng như riêng năm 2004 có thể khẳng định, lạm phát ở nứơc ta là lạm phát giá cả. Nguyên nhân chủ yếu là do chi phí đẩy, quản lý vĩ mô kém, có một yếu tố nhỏ là cầu kéo và yếu tố tâm lý dân chúng. Tiểu luận tài chính tiền tệ A3 - TCQTB - K46 14 CHƯƠNG III : GIẢI PHÁP CHO TÌNH HÌNH LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY Chính phủ nhất trí điều chỉnh mục tiêu chống lạm phát và mức tăng trưởng trong năm 2008 thích hợp trong tình hình mới và nêu 5 giải pháp cần tập trung chỉ đạo và điều hành nhằm kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo an sinh xã hội và duy trì tiềm năng tăng trưởng của nền kinh tế. I/ Điều hành chính sách tiền tệ, tín dụng Chính phủ tiếp tục điều hành chính sách tiền tệ, tín dụng theo nguyên tắc thị trường một cách chặt chẽ, chủ động và linh hoạt, bảo đảm mục tiêu chống lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm huy động các nguồn vốn phục vụ phát triển kinh tế. Thời gian gần đây báo chí liên tục đưa tin về việc Ngân hàng Nhà nước thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt, NHTM tăng lãi suất tiền gửi, siết chặt cho vay... với mục tiêu chung là kìm chế lạm phát, ổn định kinh tế. Tuy nhiên cái giá phải trả cho việc thực hiện những chính sách này không rẻ chút nào. Bài viết của PGS-TS Trần Ngọc Thơ - ThS Hồ Quốc Tuấn đăng trên Thời báo Kinh Tế Sài Gòn dưới đây trao đổi về những cái giá mà kinh tế Việt Nam phải trả khi thực hiện mục tiêu kìm chế lạm phát. Ngân hàng Nhà nước (NHNN) vừa đưa ra quyết định 346/QĐ- NHNN về việc phát hành tín phiếu NHNN bằng tiền đồng dưới hình thức bắt buộc đối với các tổ chức tín dụng. Đây rõ ràng là một biện pháp nằm trong gói giải pháp thắt chặt tiền tệ để chống lạm phát của Chính phủ, bên cạnh các bài thuốc tăng dự trữ bắt buộc, điều chỉnh các loại lãi suất cơ bản, lãi suất tái cấp vốn... đã được tiến hành. Trong điều kiện nền kinh tế thế giới đang rơi vào tình trạng lạm phát cao và đứng trước nguy cơ suy thoái toàn cầu, ngân hàng trung ương nhiều nước phải đứng giữa lựa chọn khó khăn là tăng lãi suất để kiềm chế lạm phát hay giảm lãi suất để kích thích kinh tế, NHNN đã lựa chọn quan điểm thắt chặt tiền tệ. Nhìn vào động thái của các nước trên thế giới về chính sách lãi suất và rộng hơn là chính sách tiền tệ, chúng ta có thể thấy rằng Việt Nam đang đi theo hướng đi của những nước đang có tốc độ tăng trưởng tương đối ổn định như Hàn Quốc, Trung Quốc và Úc là ưu tiên chống lạm phát chứ không đi theo con đường cắt giảm lãi suất của Mỹ hay vài nước ASEAN khác như Thái Lan, Phillipines và Indonesia là chấp nhận lạm phát để chống suy thoái . Tiểu luận tài chính tiền tệ A3 - TCQTB - K46 15 Nguyên nhân NHNN quyết liệt chống lạm phát cũng không khó hiểu. Từ năm ngoái, áp lực từ phía dư luận về vấn đề lạm phát đã không nhỏ, và nhiều ý kiến đã đề nghị hy sinh tăng trưởng chống lạm phát. Mặt khác, trong các tháng đầu năm, tỷ lệ lạm phát đã tăng hơn 14% so với cùng kỳ năm ngoái, đạt 2,38% trong tháng 1; đồng thời hậu quả của các đợt rét đậm ở miền Bắc và dịch cúm gia cầm bùng phát đang tạo áp lực tăng giá không nhỏ trong các tháng tiếp theo. Như vậy, chống lạm phát bằng mọi giá gần như là mục tiêu mà Chính phủ đang ưu tiên nhất. Vậy những hệ quả của việc thắt chặt tiền tệ để chống lạm phát là gì? Thắt chặt tiền tệ sẽ “tiếp thêm năng lượng” cho cuộc đua tăng lãi suất Ngay từ tháng 1-2008, tình hình vốn tiền đồng của các ngân hàng thương mại đã căng thẳng, ngay từ đầu năm mới, lãi suất liên ngân hàng đã có lúc lên đến 25%. Nhiều ngân hàng đã liên tục điều chỉnh lãi suất theo hướng tăng lên, có nơi điều chỉnh biểu lãi suất 2-3 lần trong một tháng. Như vậy, quyết định rút tiền ra khỏi lưu thông bằng tín phiếu sẽ tiếp thêm năng lượng cho cuộc đua tăng lãi suất của ngân hàng. Nhìn ở một khía cạnh nào đó, cuộc đua này sẽ khiến nhiều người bắt đầu quan tâm trở lại với việc đem tiền đi gửi ngân hàng vì lãi suất tiền đồng tăng cao trong khi thị trường chứng khoán đầu năm không có tín hiệu tốt còn thị trường bất động sản thì đang bị đánh giá là quá nóng và bị cơ quan quản lý “theo dõi” quá kỹ. Tuy nhiên, nếu lãi suất huy động của ngân hàng tăng thì lãi suất đầu ra khó mà đứng yên. Như vậy, chi phí vay mượn cho sản xuất kinh doanh sẽ tăng lên. Ở đây có hai tình huống có thể xảy ra. Một là doanh nghiệp chuyển hết phần chi phí tăng thêm này vào giá bán và như vậy, giá cả không những không giảm mà tăng thêm, khiến mục tiêu giảm lạm phát bằng thắt chặt tiền tệ không thể thực hiện. Việc doanh nghiệp có thể chuyển chi phí vay mượn vào giá cả hay không phụ thuộc vào kỳ vọng lạm phát của người dân và khả năng có các nguồn hàng thay thế trên thị trường. Với quyết tâm chống lạm phát của Nhà nước và việc nền kinh tế chúng ta đang mở cửa tự do thương mại sau WTO, khả năng xảy ra tình huống này không lớn. Tuy nhiên, không vì thế mà ta có thể xem thường, không giám sát kỹ các khâu trong quá trình lưu thông hàng hóa, tránh tình trạng hàng rẻ mà doanh nghiệp vẫn thích bán giá mắc vì người dân vẫn đang trong tình trạng lo sợ tăng giá. Còn trong tình huống thứ hai, đó là chi phí sản xuất kinh doanh tăng lên, mà doanh nghiệp không thể chuyển phần chi phí này vào giá bán thì họ sẽ chịu nhiều khó khăn, có thể dẫn đến thua lỗ, và giảm quy mô kinh doanh. Điều này tạo áp lực lên tăng trưởng và việc làm. Tạo áp lực lên tăng trưởng và việc là: Trong tình hình các nhà phân tích và tổ chức quốc tế đều điều chỉnh dự báo tốc độ tăng trưởng của các nền kinh tế chủ chốt như Mỹ, Nhật, châu Tiểu luận tài chính tiền tệ A3 - TCQTB - K46 16 Âu và các người khổng lồ mới nổi ở châu Á như Trung Quốc và Ấn Độ theo hướng giảm đi, chúng ta dễ dàng nhận ra kinh tế toàn cầu đang đi chậm lại và đã ở trong vòng xoáy suy giảm tăng trưởng (có lẽ còn hơi sớm để dùng từ suy thoái kéo dài). Trước tình hình như vậy, quyết định thắt chặt tiền tệ, như đã bàn ở trên, sẽ tạo áp lực tăng lãi suất ngân hàng, tăng chi phí vay mượn cho sản xuất kinh doanh trong tình hình nền kinh tế cần nhiều vốn để phát triển (hệ số ICOR của nền kinh tế còn quá cao nên để duy trì tăng trưởng thì phải đổ nhiều vốn vào), có thể là sự sụt giảm đáng kể trong tỷ lệ tăng trưởng kinh tế. Trung Quốc sau khi thực hiện nhiều biện pháp thắt chặt tiền tệ đã bị điều chỉnh giảm dự báo tăng trưởng từ hai con số còn 9,6%, còn tăng trưởng Việt Nam sau khi thắt chặt tiền tệ sẽ bị ảnh hưởng ra sao? Mà tăng trưởng không cao thì sẽ tạo sức ép lên việc làm và thu nhập của người dân. Đây cũng là vấn đề xã hội không nhỏ. Trở ngại cho thu hút vốn gián tiếp Trong điều kiện thị trường chứng khoán đầu năm 2008 vẫn chưa mấy khởi sắc, liên tục các quy định thắt chặt tiền tệ sẽ tạo ra cảm giác cho nhà đầu tư là NHNN đang “hy sinh thị trường chứng khoán” để chống lạm phát. Điều này có khả năng sẽ làm xói mòn hơn nữa niềm tin của nhà đầu tư vào triển vọng của thị trường này trong năm nay. Với một thị trường được xây dựng trên niềm tin, niềm tin bị sụt giảm thì thị trường khó mà phát triển khỏe mạnh, sẽ không tạo ra tỷ suất sinh lợi cao nữa. Mà thị trường không tạo ra tỷ suất sinh lợi cao thì nhà đầu tư nước ngoài sẽ không còn cảm thấy thị trường Việt Nam hấp dẫn nữa. Chúng ta không nên chủ quan cho rằng nếu thị trường chứng khoán giảm giá về mức hấp dẫn thì nhà đầu tư nước ngoài sẽ thích tham gia vào Việt Nam nhiều hơn. Một số nghiên cứu trong các năm 2000, 2001 ở các nước đang phát triển cho thấy các nhà đầu tư nước ngoài là những người mua bán dựa trên kết quả tốt đẹp (positive feedback trader), nghĩa là tham gia vào một thị trường khi nó tạo ra tỷ suất sinh lợi hấp dẫn trong quá khứ, và thoát khỏi nó khi nó tạo ra tỷ suất sinh lợi không cao. Nhìn lại quá trình vốn nước ngoài đổ vào thị trường chứng khoán nước ta, rõ ràng vốn đổ vào nhiều trong những năm gần đây khi chúng ta trở thành “ngôi sao đang lên”, còn trước đó, trong những năm trước 2002, nhiều quỹ đầu tư đã rời khỏi Việt Nam sau những giai đoạn thị trường rơi vào trạng thái trầm lắng. Đó là chúng ta chưa tính đến yếu tố cơ bản là nếu kinh tế suy giảm tăng trưởng, chi phí vay mượn của doanh nghiệp tăng cao, thì liệu cái nhìn của nhà đầu tư nước ngoài đối với triển vọng dài hạn của chúng ta sẽ bị bào mòn ít nhiều. Đồng Việt Nam sẽ tiếp tục lên giá Lãi suất tiền đồng (VND) được đẩy lên cao trong tình hình lãi suất đô la Mỹ (USD) trên thế giới đang giảm sẽ tạo áp lực giảm giá lên đồng USD so với Tiểu luận tài chính tiền tệ A3 - TCQTB - K46 17 VND. Cho dù lãi suất USD trong nước hiện khá cao so với thế giới, nhưng tính ra vẫn thấp hơn lãi suất VND khá nhiều, và tốc độ tăng lãi suất VND trong thời gian sắp tới nhiều khả năng sẽ nhanh hơn nhiều do mức độ căng thẳng vốn tiền đồng đã đến mức báo động ở nhiều ngân hàng. Áp lực tăng giá VND chắc chắn sẽ gây ảnh hưởng không nhỏ cho xuất khẩu, vốn đang đứng trước nguy cơ bị ảnh hưởng xấu từ tình hình suy thoái ở nhiều nước phát triển. Đứng trước tình hình này, có thể NHNN sẽ tiếp tục bị buộc phải mua USD vào, và như vậy lại tăng cung tiền ra nền kinh tế. Rồi để trung hòa lượng cung tiền tăng lên này, NHNN sẽ lại phải tiếp tục phát hành tín phiếu, trái phiếu? Vậy chúng ta đang đi vào một vòng luẩn quẩn? Đó là chưa kể chúng ta cần để ý đến bài học của Trung Quốc trong bài toán “trung hòa” này: mua ngoại tệ vào trong lúc lãi suất ngoại tệ thấp, còn phải bán trái phiếu, tín phiếu với lãi suất “hợp lý”, thì kết quả là khoảng chênh lệch lãi suất là âm, khiến NHNN bị “lỗ nặng”. Với điều kiện hiện tại, khi mà khoảng hở lãi suất USD-VND đã trở nên quá lớn, liệu NHNN có đủ khả năng đứng vững trước sức ép phải bù đắp khoảng lỗ do chính sách “trung hòa” này? Đánh giá chung Từ những đánh giá trên, chúng ta có thể nhận ra rằng thực hiện thắt chặt tiền tệ cũng đồng nghĩa với chấp nhận rủi ro suy giảm tăng trưởng, đồng tiền tăng giá, thị trường vốn phát triển chậm lại và bỏ lỡ cơ hội thu hút vốn đầu tư gián tiếp. Chấp nhận một rủi ro lớn như vậy, sẵn sàng trả giá không nhỏ, chỉ là vì chúng ta muốn kiềm chế lạm phát, để tăng trưởng thực sự mang lại lợi ích cho đại bộ phận người dân. Tuy nhiên, phân tích chính sách này, chúng ta sẽ nhận thấy có những rủi ro có thể khiến nó không mang lại lợi ích thật sự mà chỉ mang tính ngắn hạn và không toàn vẹn. Trong bài viết tiếp theo, chúng tôi sẽ đề cập đến những điều kiện để đảm bảo chính sách hiện tại mang lại hiệu quả và đề xuất một số giải pháp đột phá. II/ Giảm thâm hụt ngân sách nhà nước Hai là tăng thu gắn liền với thắt chặt, tiết kiệm chi tiêu, nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn ngân sách nhà nước, hạn chế bội chi ngân sách. Thủ tướng yêu cầu hệ thống chính trị phải gương mẫu thực hiện tiết kiệm 10% chi thường xuyên; cắt giảm các khoản chi chưa thật cần thiết; thực hiện các biện pháp tiết kiệm xăng, dầu; rà soát và giảm các hạng mục, công trình chưa thật bức thiết, đồng thời kêu gọi nhân dân thực hành tiết kiệm tiêu dùng. Giảm thâm hụt ngân sách để khôi phục sự ổn định vĩ mô Tiểu luận tài chính tiền tệ A3 - TCQTB - K46 18 Thông điệp của Thủ tướng Chính phủ ngày 30/3/2008 về việc phấn đấu kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội và tăng trưởng bền vững có nhắc tới một câu nói nổi tiếng của Milton Friedman - Nobel kinh tế năm 1976 - rằng mặc dù do nhiều nguyên nhân, nhưng “lạm phát luôn có nguyên nhân tiền tệ”. Nếu như Milton Friedman đã đúng khi cho rằng lạm phát ở đâu và khi nào cũng xuất phát từ những nguyên nhân tiền tệ, thì một câu hỏi tự nhiên tiếp theo sẽ là tại sao một chính phủ lại chấp nhận chính sách tiền tệ gây ra lạm phát - một trong những điều tối kỵ nhất của điều hành vĩ mô. Thâm hụt ngân sách, lạm phát và mất cân đối vĩ mô Nhìn vào những nước đã từng trải qua lạm phát cao sẽ thấy rằng, lạm phát ở những nước này thường là hệ quả của việc in tiền nhằm tài trợ cho thâm hụt ngân sách. Như vậy, thâm hụt ngân sách cao và lâu dài tất yếu dẫn tới việc nhà nước buộc phải phát hành thêm tiền để tài trợ thâm hụt, và điều này đến lượt nó dẫn tới lạm phát. Từ góc độ này nhìn lại nền kinh tế Việt Nam, mặc dù Luật Ngân sách 1993 không cho phép nhà nước in tiền để tài trợ thâm hụt ngân sách, nhưng với lượng tiền đồng trong lưu thông lớn như hiện nay (khoảng 16% GDP) thì chỉ cần duy trì tốc độ in thêm tiền đúng bằng tốc độ tăng trưởng kinh tế (giả sử là 8%) thì nhà nước cũng đã có thêm được 1,3% GDP để tài trợ cho thâm hụt ngân sách (chưa kể đến “thuế lạm phát” cao ở Việt Nam trong mấy năm qua). Bên cạnh một số nguyên nhân khách quan khác, thì lạm phát ở Việt Nam còn do đầu tư công và nền hành chính công - dịch vụ công của chúng ta quá kém hiệu quả. Chính sự kém hiệu quả này, đến lượt mình, lại làm cho tình trạng thâm hụt ngân sách càng trở nên trầm trọng, và “vòng xoáy đi xuống” của kinh tế vĩ mô sẽ lại tiếp diễn. Cũng cần nhấn mạnh thêm là “dòng xoáy đi xuống” này một khi đã được khởi động thì rất khó dừng lại chứ đừng nói tới khả năng đổi chiều. Vì vậy, nhóm giải pháp thứ hai của Thủ tướng yêu cầu “cắt giảm đầu tư công và chi phí thường xuyên của các cơ quan sử dụng ngân sách, kiểm soát chặt chẽ đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước, cố gắng giảm tỷ lệ thâm hụt ngân sách” cần phải được thực hiện một cách triệt để và nhất quán. Nếu không giảm được thâm hụt ngân sách thì nhóm giải pháp thứ nhất - thắt chặt tiền tệ - sẽ bị vô hiệu hóa đáng kể, và vì vậy không thể đạt được mục tiêu mong muốn là kiềm chế lạm phát. Dưới đây sẽ thảo luận thêm một số vấn đề liên quan đến tình trạng thâm hụt ngân sách ở Việt Nam, sau đó bình luận một số biện pháp nhằm thắt chặt chi tiêu công của Chính phủ, và cuối cùng trình bày một số khuyến nghị về chính sách. Tại sao cần giảm thâm hụt ngân sách? Tiểu luận tài chính tiền tệ A3 - TCQTB - K46 19 Thâm hụt ngân sách ở Việt Nam hiện nay đã tới mức đáng báo động. Theo số liệu chính thức, thâm hụt ngân sách của nước ta hiện nay là 5% GDP (bao gồm cả tiền trả nợ gốc và không bao gồm các khoản chi ngoài dự toán). Thế nhưng theo ước tính của Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) thì thâm hụt ngân sách của Việt Nam - theo cách tính quốc tế, không bao gồm tiền trả nợ gốc nhưng bao gồm các khoản chi ngoài dự toán - lên tới 7% GDP (Hình 1). Không những thế, thâm hụt ngân sách của Việt Nam trong mấy năm trở lại đây luôn được duy trì ở mức cao, và đặc biệt tăng mạnh trong năm 2007. Việc gia tăng thâm hụt ngân sách sẽ có thể dẫn đến giảm tiết kiệm nội địa, giảm đầu tư tư nhân, hay gia tăng thâm hụt cán cân tài khoản vãng lai. Ở Việt Nam, mặc dù thâm hụt ngân sách tăng đột biến trong năm 2007chưa làm suy giảm tiết kiệm nội địa và đầu tư tư nhân nhưng nó đã làm tăng mức thâm hụt tài khoản vãng lai, từ -0,5% năm 2006 lên tới -8% năm 2007. Thâm hụt ngân sách cao và kéo dài còn làm xói mòn niềm tin đối với năng lực điều hành vĩ mô của chính phủ. Nó cũng làm tăng mức lạm phát kỳ vọng của người dân và của các nhà đầu tư vì họ cho rằng Chính phủ trước sau gì cũng sẽ phải in thêm tiền để tài trợ thâm hụt. Tóm lại, thâm hụt ngân sách cao kéo dài sẽ đe dọa sự ổn định vĩ mô, và do vậy, khả năng duy trì tốc độ tăng trưởng nhanh và bền vững của nền kinh tế. Các biện pháp giảm thâm hụt ngân sách của Chính phủ Vì được đặt trong bối cảnh chống lạm phát nên chính sách ngân sách (hay chính sách tài khóa) của Chính phủ trong thời gian qua chỉ hướng đến mục đích giảm chi tiêu công (gồm đầu tư công và chi thường xuyên) và qua đó giảm tổng cầu. Cụ thể là Chính phủ chỉ thị: (i) Cắt giảm nguồn đầu tư từ ngân sách và tín dụng nhà nước; (ii) Rà soát và cắt bỏ các hạng mục đầu tư kém hiệu quả của doanh nghiệp nhà nước (DNNN); (iii) Cắt giảm chi thường xuyên của bộ máy nhà nước các cấp. Tổng đầu tư của Nhà nước (từ ngân sách, tín dụng nhà nước và thông qua DNNN) luôn chiếm trên dưới 50% tổng đầu tư của toàn xã hội (Hình 2). Vì vậy, không nghi ngờ gì, nếu Nhà nước có thể cắt giảm một số khoản đầu tư kém hiệu quả và có thứ tự ưu tiên thấp thì sức ép gia tăng lạm phát chắc chắn sẽ nhẹ đi. Cũng tương tự như vậy, lạm phát cũng sẽ được kiềm chế bớt nếu các cơ quan nhà nước có thể cắt giảm chi thường xuyên (chiếm 56% tổng chi ngân sách năm 2007). Mặc dù chính sách cắt giảm chi tiêu công là hoàn toàn đúng đắn, song hiệu lực của những biện pháp cụ thể đến đâu thì còn chưa chắc chắn vì ít nhất có bốn lý do : Thứ nhất, việc cắt giảm, thậm chí giãn tiến độ đầu tư công không hề dễ dàng, nhất là khi những dự án này đã được các cơ quan lập pháp các cấp quyết định; đã được đưa vào quy hoạch của các bộ, ngành, địa phương; đã Tiểu luận tài chính tiền tệ A3 - TCQTB - K46 20 được triển khai; và nhất là khi chúng gắn với lợi ích thiết thân của những cơ quan liên quan đến dự án. Thứ hai, Nhà nước hầu như không thể kiểm soát các khoản đầu tư của các DNNN, một mặt là do chính sách phân cấp trong quản lý đầu tư, và mặt khác là do một số tập đoàn lớn đã tự thành lập ngân hàng riêng. Thứ ba, với tốc độ lạm phát như hiện nay thì chỉ cần giữ được tổng mức đầu tư công theo đúng dự toán cũng đã được coi là một thành tích đáng kể. Thứ tư, kinh nghiệm quốc tế cho thấy rằng vì việc giảm chi thường xuyên rất khó khăn nên đây thường là hạng mục cuối cùng nằm trong danh sách cắt giảm. Hơn thế, với thực tế ở Việt Nam thì phạm vi chi thường xuyên có thể cắt giảm không nhiều. Đầu tiên là phải trừ đi quỹ lương (chiếm khoảng 2/3 tổng chi thường xuyên), sau đó phải trừ đi các khoản phụ cấp có tính chất lương, chi chính sách chế độ, tiền đóng niêm liễn cho các tổ chức quốc tế, các khoản chi thường xuyên đã được thực hiện v.v… Theo ước lượng của Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư thì nếu làm thật quyết liệt thì sẽ giảm được khoảng 3.000 tỉ đồng chi hội họp và mua sắm xe - tức là giảm được khoảng 0,8% tổng chi ngân sách. Giảm thâm hụt ngân sách bằng cơ chế quản lý đầu tư công Chính sách giảm tổng cầu thông qua thắt chặt chi tiêu công là đúng đắn, cần thiết nhưng chưa đủ. Nỗ lực giảm chi tiêu công của Chính phủ chỉ thực sự có hiệu lực nếu như Chính phủ đồng thời có cơ chế để đảm bảo những khoản đầu tư còn lại có hiệu quả. Đầu tiên là phải có cơ chế quản lý đầu tư công sao cho những dự án kém hiệu quả (như chương trình 5 triệu tấn đường hay đánh bắt xa bờ) bị loại bỏ ngay từ đầu. Sau đó, phải đảm bảo dự án được tiến hành đúng tiến độ và không bị thất thoát, lãng phí (như dự án 112 và các dự án đầu tư xây dựng cơ bản - được ước lượng là thất thoát trung bình 30%). Một trong những biện pháp có thể được sử dụng để cải thiện cơ chế quản lý đầu tư công là thành lập một hội đồng thẩm định đầu tư công độc lập. Một nguyên nhân quan trọng của tình trạng thất thoát, lãng phí trong đầu tư công là do quá trình ra quyết định đầu tư của chính quyền địa phương và các bộ ngành chủ quản chịu ảnh hưởng của các nhóm lợi ích và do vậy thiếu khách quan. Vì vậy, nhiệm vụ của ủy ban độc lập này là đánh giá, thẩm định một cách toàn diện và khách quan các dự án có quy mô vượt quá một quy mô đầu tư nhất định nào đó. Kết luận của Hội đồng thẩm định này sau đó được công bố rộng rãi. Tương tự như vậy, báo cáo kiểm toán các DNNN và dự án đầu tư công lớn cũng phải được công khai. Để thu hẹp thâm hụt ngân sách thì song song với việc giảm chi tiêu, Chính phủ cũng cần cải thiện các nguồn thu ngân sách, tránh tình trạng ngân sách phụ thuộc quá nhiều (tới hơn 40%) vào các nguồn thu không bền Tiểu luận tài chính tiền tệ A3 - TCQTB - K46 21 vững từ dầu mỏ và thuế nhập khẩu như hiện nay. Cải cách thuế, đặc biệt là thuế thu nhập cá nhân (hiện chiếm 2% tổng ngân sách của Việt Nam trong khi con số này ở các nền kinh tế hiện đại đều lớn hơn 20%) và thuế bất động sản. Thật bất công và kém hiệu quả khi nhiều người sau một đêm trở thành triệu phú nhờ vào việc Nhà nước đầu tư cơ sở hạ tầng (CSHT) tại nơi họ có bất động sản, trong khi lại không phải đóng góp gì cho ngân sách nhà nước. Áp dụng thuế bất động sản đúng đắn là một cách đảm bảo sự bền vững cho ngân sách nhà nước, đồng thời giúp Nhà nước thực hiện được các chương trình đầu tư CSHT vì quốc kế dân sinh. Những khó khăn hiện tại của nền kinh tế Việt Nam bắt nguồn từ những bất cập trong chính sách phát triển dài hạn. Chủ trương tăng trưởng nhờ vào số lượng thông qua đầu tư ồ ạt, dựa vào khu vực nhà nước vốn kém hiệu quả, đồng thời thiếu sự phối hợp đồng bộ trong điều hành vĩ mô đã đưa nền kinh tế Việt Nam từ bối cảnh sau khi gia nhập WTO vô cùng thuận lợi đến tình trạng lạm phát và bất ổn vĩ mô như hiện nay. Vẫn còn may là những khó khăn của Việt Nam hiện nay hoàn toàn có thể giải quyết được nếu Chính phủ có quyết tâm mạnh mẽ và chính sách đúng đắn, trong đó kỷ luật tài khóa là điều kiện quan trọng nhất. Thắt chặt và nâng cao hiệu quả của chi tiêu công, đặc biệt là áp đặt kỷ luật nghiêm ngặt đối với hoạt động đầu tư của các tập đoàn nhà nước là điều kiện tiên quyết để có thể khôi phục lại cân bằng vĩ mô và gia tăng hiệu quả, tính ổn định và đà tăng trưởng cho nền kinh tế. Tình trạng kinh tế vĩ mô của Việt Nam thay đổi đột biến từ năm 2004 Năm 2001 2002 2003 2004 2005 2006 Tăng cung tiền ( M2, % thay đổi 25.5 17.6 24.9 29.5 29.7 33.6 Tín dụng ( % thay đổi ) 21.5 22.2 28.4 41.6 31.7 25.4 Tổng đầu tư xã hội ( % GDP ) 31.2 33.2 35.4 35.6 38.9 41.0 Thâm hụt ngân sách nhà nước ( % GDP) -4.7 -4.5 -3.3 -4.3 -4.9 -5.0 Chỉ số giá tiêu dùng ( %CPI) 0.8 4.0 3.0 9.4 8.4 6.7 Tiểu luận tài chính tiền tệ A3 - TCQTB - K46 22 III/ Cân đối cung cầu trong nền kinh tế Ba là Thủ tướng yêu cầu các bộ, ngành phải chịu trách nhiệm đảm bảo cân đối cung cầu các mặt hàng thiết yếu phục vụ đời sống và sản xuất như xăng, dầu, gạo, thuốc, xi măng, sắt, thép, phân bón... gắn liền với kiểm soát chặt chẽ giá cả. Khẳng định không tăng giá bán than cho ngành điện, không tăng giá điện và giá xăng dầu. Nhà nước tiếp tục bù lỗ cho các mặt hàng này nhằm ổn định giá. Lãnh đạo các Bộ, ngành cho biết, Chính phủ tiếp tục thực hiện không tăng giá với nhiều mặt hàng từ nay đến cuối năm. Cùng đó, nhiều biện pháp sẽ được áp dụng để đảm bảo cung cầu, không biến động giá của những mặt hàng quan trọng. Nguồn xăng dầu không thiếu Tại buổi họp báo sau phiên họp thường kì của Chính phủ, chiều 2/7, Thứ trưởng Bộ Tài chính Trần Xuân Hà cho biết, Chính phủ chỉ đạo tiếp tục giữ ổn định giá cả các mặt hàng thiết yếu. Trong đó, nước sạch, điện, vận tải công cộng sẽ không tăng giá từ nay đến cuối năm. Các mặt hàng khác được điều chỉnh giá sẽ thực hiện điều chỉnh ở mức hợp lí. Riêng với mặt hàng xăng dầu, Bộ Tài chính phối hợp với Bộ Công Thương trình Chính phủ lộ trình điều chỉnh giá bán theo mục tiêu bảo đảm chống lạm phát, phù hợp với khả năng bù lỗ, đồng thời thực hiện hỗ trợ các đối tượng chính sách. Các công ty kinh doanh xăng dầu đầu mối trong những tháng qua vẫn lỗ và hiện đã được tạm ứng 95% số lỗ này. Đến thời điểm hiện tại, Chính phủ đã bù lỗ 11.000 tỉ đồng cho các doanh nghiệp kinh doanh của lĩnh vực xăng dầu.Cho dù giá xăng dầu tăng cao, Chính phủ vẫn chỉ đạo nhập khẩu đủ đảm bảo nhu cầu sản xuất trong nước và nhu cầu sử dụng của người dân. Trong 6 tháng đầu năm nay, nước ta đã nhập tăng hơn so với 2007 gần 300.000 tấn xăng dầu. Chính Phủ khẳng định, từ nay đến cuối năm “nguồn xăng dầu không thiếu và nguồn ngoại tệ phục vụ nhập khẩu mặt hàng này cũng không thiếu”.Về xuất, nhập khẩu than, năm 2008, nước ta xuất khẩu khoảng 20 - 22 triệu tấn than, giảm hơn khá nhiều so với năm 2007 (32 triệu tấn). Ngoài ra, 6 tháng đầu năm, các doanh nghiệp đã nhập khẩu phôi thép về nhiều gấp đôi năm ngoái, với giá 750 - 800 USD/tấn. Tuy nhiên, phôi thép nhập về không bán được, vẫn nằm ở cảng, trong khi giá mặt hàng này đã tăng gần 200 USD/tấn nên các doanh nghiệp đã xuất ra Tiểu luận tài chính tiền tệ A3 - TCQTB - K46 23 bên ngoài. Trước tình hình thép tăng giá, Bộ Công thương sẽ có biện pháp hạn chế xuất khẩu phôi thép nhằm bình ổn thị trường trong nước. Riêng muối, do thời tiết bất lợi, chi phí đầu vào tăng nên giá muối bị đẩy lên hơn so với năm 2007. Chính phủ đã cho xuất 30.000 tấn từ trong kho dự trữ cung cấp cho thị trường. Tuy nhiên, theo tính toán, năm nay nhu cầu trong nước khoảng 1,3 triệu tấn, trong khi lượng muối thu hoạch được cộng với lượng muối trong kho chỉ đạt khoảng 1 triệu tấn. Chính vì vậy, 6 tháng cuối năm sẽ phải nhập khẩu thêm khoảng 100 - 150.000 tấn. Liên quan đến kiểm soát giá cả, đại diện Bộ Tài chính thông báo, trong sáu tháng qua, các cơ quan thuế và hải quan khi kiểm tra chống buôn lậu và gian lận thương mại đã xử lý 6.012 vụ vi phạm, thu nộp ngân sách nhà nước trên 221 tỷ đồng. Về tỉ giá hối đoái, Phó Thống đốc Ngân hàng nhà nước, Nguyễn Đồng Tiến nhìn nhận, sau một tuần ngân hàng thực hiện điều chỉnh biên độ, tỉ giá hối tại thị trường tự do đã giảm dần. Ngân hàng cũng đã có những kiểm tra, kiểm soát hoạt động mua bán ngoại tệ, không để vượt quá biên độ cho phép. Chính phủ đánh giá, chỉ số giá tiêu dùng, nhập siêu trong 3 tháng gần đây đã có những chuyển biến tích cực. Thị trường chứng khoán có những dấu hiệu tốt hơn, hệ thống ngân hàng ổn định hơn và không có khả năng đổ vỡ, chỉ số giá tiêu dùng khả quan (tháng 6 là 2,14%, thấp nhất trong 6 tháng) nhưng chưa vững chắc, tình hình còn diễn biến khó lường. Tăng trưởng GDP đạt 6,5% là khá thấp so với những năm gần đây, nhưng vẫn cao hơn các nước trong khu vực. Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo, tiếp tục đẩy mạnh sản xuất kinh doanh để duy trì tăng trưởng. Phấn đấu với tinh thần cao nhất để giải quyết vốn cho các doanh nghiệp, nhất là vốn lưu động. Thủ tướng cũng chỉ đạo các Bộ ngành tích cực, chủ động hơn nữa trong việc tháo gỡ khó khăn. Đặc biệt, các Bộ trưởng phải chịu trách nhiệm trước Chính phủ về hoạt động của các tập đoàn, Tổng công ty thuộc bộ mình quản lí. IV/ Ổn định giá cả thị trường Bốn là Thủ tướng yêu cầu các bộ, ngành, chính quyền các địa phương, hiệp hội các ngành hàng tăng cường các biện pháp quản lý thị trường giá cả, tổ chức tốt thương mại trong nước, kêu gọi các doanh nghiệp có trách nhiệm với đất nước không đầu cơ trục lợi và tăng giá các mặt hàng. Chính phủ đã Tiểu luận tài chính tiền tệ A3 - TCQTB - K46 24 xác định nguyên tắc ưu tiên là từ nay đến cuối năm kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, tạo đà cho những năm tiếp theo, đảm bảo an sinh xã hội. Và trong việc ổn định giá các mặt hàng thiết yếu, Thủ tướng đã chỉ đạo, với mặt hàng xăng dầu, trong bất cứ thời điểm nào, địa điểm nào cũng phải đảm bảo nguồn cung tổng thể. Trong trường hợp có diễn biến bất thường, Chính phủ sẽ nghiên cứu biện pháp hợp lý để giải quyết. Điều này cho thấy Chính phủ luôn xác định ưu tiên chống lạm phát là mục tiêu hàng đầu, nhất là đối với xăng dầu – mặt hàng thiết yếu hàng đầu của nền kinh tế. Giá tiêu dùng tháng 6/2008 tăng 2,14% so với tháng trước, và là tháng có mức tăng thấp nhất trong 6 tháng đầu năm nay. Nhập siêu trong những tháng gần đây đã giảm nhanh từ mức 3,2 tỷ USD trong tháng 3, xuống mức 1,3 tỷ USD trong tháng 6. Với mặt hàng than, Bộ Tài chính đang nghiên cứu xây dựng phương án và lộ trình chặt chẽ về giá than trong thời gian tới, trong đó, quy định giá bán than cho từng hộ tiêu thụ lớn. Ông Hoàng Thọ Xuân – Vụ trưởng Vụ chính sách thị trường trong nước - Bộ Công thương cho biết: Bộ Tài chính và Bộ Công thương đang nghiên cứu một phương án và lộ trình hết sức chặt chẽ trong thời gian tới. Điện giữ giá ổn định từ nay đến hết năm thì giá than bán cho điện cũng phải ổn định. Đó là điều đương nhiên. Còn than bán cho sản xuất xi măng, cho sản xuất phân bón, và ngành sản xuất giấy cũng đang được Bộ Tài chính tính toán xây dựng lộ trình, bước đi cho phù hợp với điều kiện hiện nay, trên cơ sở kiềm chế tăng giá tiêu dùng và chống lạm phát là mục tiêu hàng đầu. Theo dự báo, giá vật liệu xây dựng trong tháng 7 này sẽ tương đối ổn định do nguồn cung dồi dào. Riêng đối với xi măng, Bộ Xây dựng đã họp bàn với các doanh nghiệp, với Hiệp hội xi măng quy định thống nhất cách quản lý giá bán trên thị trường. Vụ trưởng Vụ quản lý vật liệu xây dựng – Bộ Xây dựng, ông Nguyễn Quang Cung, cho biết: để tăng cường nguồn cung cho thị trường, trong tháng 7 này, sẽ tiếp tục đưa các dự án xi măng xây dựng mới vào hoạt động, đảm bảo nguồn cung ổn định cho thị trường. Theo ông Cung, điều quan trọng nhất là phải đảm bảo nguồn cung ổn định. Trong tháng 7 này, sẽ tiếp tục đưa nhà máy xi măng sông Gianh vào hoạt động. Lượng xi măng do nhà máy này sản xuất sẽ được đưa vào thị trường phía Nam. Còn về các biện pháp để quản lý thị trường vật liệu xây dựng, các doanh nghiệp trong ngành đang phối hợp chặt chẽ giữa nhà máy sản xuất và hệ thống phân phối. Phải công khai giá bán, bán hàng có niêm yết giá, làm cơ sở cho quản lý thị trường dễ dàng kiểm tra. Các đại lý bán hàng vượt giá thỏa thuận sẽ bị cảnh cáo, hoặc không tiếp tục ký hợp đồng Tiểu luận tài chính tiền tệ A3 - TCQTB - K46 25 bán hàng cho nhà máy. Mục tiêu cuối cùng là hài hòa lợi ích của sản xuất, nhà phân phối và lợi ích người tiêu dùng. Còn với mặt hàng thép, trước đề nghị mới đây của Hiệp hội Thép Việt Nam về điều chỉnh tăng giá bán thép xây dựng trước việc giá phôi thép trên thị trường thế giới tăng cao, quan điểm của Chính phủ là chưa ủng hộ việc tăng giá thép. Trong bối cảnh giá cả tăng mạnh và Nhà nước chủ trương tiếp tục kiềm chế lạm phát thì các nhà sản xuất thép cần tính toán giảm chi phí giá thành như thế nào, cắt giảm chi phí sản xuất ra sao, mới có thể quyết định có cho phép tăng giá hay không. Hiện nay, các doanh nghiệp sản xuất phân bón đang tiếp tục thực hiện nhiều biện pháp để ổn định thị trường phân bón. Ông Phan Đình Đức – Tổng giám đốc Tổng công ty phân đạm và hóa chất dầu khí cho biết: Đa phần các loại phân bón đều tăng từ 100- 300%, nhưng riêng phân đạm chỉ tăng 75%. Chính vì có sản lượng chiếm khoảng 40% thị phần và chính sách giá của Đạm phú Mỹ nên giá đạm của thị trường không tăng nhiều như các loại phân nhập khẩu khác. Về những biện pháp bình ổn giá năm nay của Đạm Phú Mỹ, theo ông Phan Đình Đức: “Chúng tôi xây dựng hệ thống phân phối trực tiếp qua 4 công ty tại miền Đông Nam Bộ, Tây Nam Bộ, miền Trung, Tây Nguyên và miền Bắc. Hệ thống phân phối này sẽ giúp đưa sản phẩm đến tay bà con nông dân trong thời gian ngắn nhất, tránh việc mua bán lòng vòng, mua đi bán lại làm tăng giá, đội giá. Về lâu dài, chúng tôi đang tích cực tìm kiếm các nguồn nhiên liệu, nguyên liệu đầu vào như các mỏ khí ở nước ngoài để đầu tư ra nước ngoài, xây dựng nhà máy phân bón và hóa chất ở nước ngoài”. Cùng với các giải pháp từ Chính phủ, sự nỗ lực của các doanh nghiệp trong bình ổn giá, nhất là với các mặt hàng thiết yếu, sẽ góp phần thực hiện tốt mục tiêu kiềm chế lạm phát, phát triển kinh tế bền vững V/ Đẩy mạnh xuất khẩu để nhập siêu Năm là tìm mọi cách đẩy mạnh xuất khẩu để giảm nhập siêu. Thủ tướng nhấn mạnh, không có xuất khẩu thì không có tăng trưởng nên tập trung đẩy mạnh xuất khẩu các mặt hàng có lợi thế cạnh tranh như thuỷ sản, dệt may và da giầy... Chính phủ sẽ kiểm soát quyết liệt nhập siêu bằng cả biện pháp thị trường và hành chính vì lợi ích của nhân dân và đất nước. Bộ Công thương nghiên cứu hạn chế nhập siêu các mặt hàng không thiết yếu như ô tô nguyên chiếc, phụ tùng xe máy... phấn đấu kiểm soát nhập siêu trong năm 2008 tương đương năm ngoái, tiến tới cân bằng cán cân thương mại./ Tiểu luận tài chính tiền tệ A3 - TCQTB - K46 26 Trong đó, 11 tỷ USD là con số nhập siêu trong bốn tháng đầu năm, chiếm 60% tổng kim ngạch xuất khẩu. Do đó, Thủ tướng yêu cầu phải đẩy mạnh xuất khẩu, tránh mất cân bằng cán cân thanh toán. Ngoài ra, Thủ tướng cũng chỉ đạo Bộ Công thương, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tập trung quản lý chặt việc kiểm soát giá các mặt hàng xăng, dầu, lương thực, thực phẩm. “Bộ Công thương kiểm soát chặt chẽ tình hình giá cả tại các địa phương, Bộ Công an phối hợp với các cơ quan xử lý nghiêm các trường hợp đầu cơ, nâng giá trục lợi” - Thủ tướng nhấn mạnh. Bộ trưởng cho rằng, đẩy mạnh xuất khẩu là một trong những biện pháp trước nhất để giảm nhập siêu. Cùng với các mặt hàng truyền thống, doanh nghiệp trong nước cần đẩy mạnh sản xuất các mặt hàng có tiềm năng như nông sản thực phẩm, khoáng sản; tập trung xuất khẩu các mặt hàng chủ lực, có thể mang lại nguồn thu lớn như dệt may, giày da, đồ gỗ, điện-điện tử, nông-thủy sản, nhất là các sản phẩm công nghệ cao. Bên cạnh đó, phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ để sản xuất các loại máy móc, thiết bị, nguyên phụ liệu để hạn chế nhập khẩu. Bộ trưởng cho biết, đến khoảng năm 2015, với việc đưa vào các nhà máy lọc dầu; các nhà máy sản xuất phôi thép ở cả ba miền; nhà máy phân đạm ở Cà Mau, Ninh Bình và kế hoạch sản xuất 1 tỷ mét vải của ngành dệt may sẽ cải đáng kể việc phụ thuộc nhập khẩu các sản phẩm trên từ nước ngoài. Bộ trưởng thấy cần thiết phải sớm xây dựng các biện pháp, rào cản kỹ thuật áp dụng cho các ngành, các sản phẩm phù hợp với quy định của WTO, các hiệp định mà Việt Namđã ký kết để bảo vệ các sản phẩm trong nước. Theo Bộ trưởng, mặc dù vậy, bức tranh xuất khẩu chung vẫn có những điểm sáng với việc nhiều mặt hàng xuất khẩu chủ lực tiếp tục đà tăng trưởng tốt, tới hơn 20% so với cùng kỳ năm ngoái. "Đây là kết quả quan trọng, đặc biệt có ý nghĩa sau 1 năm Việt Nam gia nhập WTO”, Bộ trưởng nhấn mạnh./.(TTXVN) VI/Chính sách tỷ giá hối đoái và biện pháp thu hút USD trong việc giảm lạm phát Các công cụ lãi suất và nghiệp vụ thị trường mở đã không thành công và gây nên nhiều biến động khó lường. Lạm phát cần phải có một phương thuốc mới để điều trị phù hợp với tình hình kinh tế hiện nay. Và tỷ giá hối đoái là công cụ mà chúng ta cần phải xem xét tới để thay đổi sau một thời gian dài phục vụ cho tăng trưởng kinh tế. Theo phân tích của IMF, một trong những lí do khiến lạm phát ở Trung Quốc, Malaysia, Thái Lan được duy trì ở mức tương đối thấp là nằm ở chính sách tỷ giá hối đoái. Việt Nam đã cố gắng duy trì một đồng tiền yếu trong những năm trước đây để hỗ Tiểu luận tài chính tiền tệ A3 - TCQTB - K46 27 trợ cho xuất khẩu, phục vụ cho quá trình tăng trưởng kinh tế của đất nước nhưng nếu tiếp tục duy trì chính sách này trong khi tình hình kinh tế đã thay đổi liệu có còn phù hợp. Việc cố gắng “giữ chân” tỷ giá hối đoái trong giai đoạn lạm phát ở mức cao hiện nay dường như trở thành một bài toán khó tìm lời giải với quá trình điều tiết nền kinh tế. Nói vậy thì việc giảm tỷ giá hối đoái theo sát với thị trường hơn liệu có thể có tác động tích cực đối với nền kinh tế hiện nay? Cần nhớ rằng, khi tỷ giá giảm thì cái lợi đầu tiên là chúng ta sẽ nhập khẩu nguyên, nhiên liệu với giá rẻ hơn, dẫn đến chi phí sản xuất trong nước giảm làm cho giá cả hàng hóa trong nước giảm. Cái lợi thứ hai là xuất khẩu giảm, nhập khẩu tăng cũng sẽ làm tăng tổng cung cho nền kinh tế trong nước. Tác động gộp của các yếu tố này có thể làm giảm lạm phát . Nhưng có một hệ quả kèm theo là khi đó người dân sẽ không nắm giữ USD, do VND đang tăng giá nên họ sẽ chuyển đổi USD sang nắm giữ VND. Các ngân hàng sẽ phải tăng lượng VND để đáp ứng nhu cầu chuyển đổi USD của người dân trong khi nhu cầu VND của chính ngân hàng vẫn chưa được giải quyết đầy đủ. Việc này trước hết sẽ gây bất ổn trong tâm lý thị trường vốn đã không thực sự ổn định, kế đến là ảnh hưởng đến tính thanh khoản của ngân hàng cùng với áp lực tăng lượng cung tiền trong lưu thông. Nhự vậy, điều chỉnh tỷ giá hối đoái không thôi là chưa đủ. Chúng ta cần phải thúc đẩy các kênh đầu tư để thu hút lượng USD nhằm giảm bớt tác dụng phụ của chính sách tỷ giá hối đoái. Xét trong tình hình kinh tế như hiện nay, thị trường chứng khoán chưa có tín hiệu khởi sắc tốt; kinh doanh bất động sản đang được kiềm chế dần; lạm phát tăng cao khó có thể đo lường được khiến đồng tiền trở nên mất giá, ngay cả các ngân hàng cũng huy động vốn với lãi suất ngắn hạn cao hơn dài hạn (trước khi Ngân Hàng Trung Ương qui định mức lãi suất trần 12%) để phòng ngừa rủi ro; trong khi giá vàng đang tăng gần như liên tục. Nhà đầu tư sẽ chọn kênh đầu tư nào? Nhiều người đã nhìn thấy rằng mua vàng tích trữ sẽ là một kênh đầu tư an toàn hơn. Do đó, khi giảm tỷ giá hối đoái các ngân hàng cần mở thêm dịch vụ mua vàng trực tiếp bằng USD đối với các nhà đầu tư trong nước, giảm chi phí, nhanh chóng hơn, tạo điều kiện thuận lợi cho để thu hút lượng USD trong dân chúng, giảm bớt nhu cầu VND, điều này sẽ làm giảm bớt áp lực lạm phát và tính bất ổn cho nền kinh tế. Mặt khác, lượng USD mà các ngân hàng mua vào cũng sẽ có được đầu ra do nhu cầu USD của các doanh nghiệp để nhập khẩu hàng hóa, nguyên, vật liệu. Lượng USD trong lưu thông sẽ giảm, Ngân Hàng Trung Ương sẽ không lo lắng vì phải bỏ VND ra để mua USD nữa. Tiểu luận tài chính tiền tệ A3 - TCQTB - K46 28 Để giải quyết vấn đề lạm phát, một trong những hướng mà Ngân Hàng Trung Ương có thể tham khảo là để tỷ giá hối đoái giảm theo xu hướng thực tế của thị trường nhưng ở một chừng mực nào có giới hạn, để không ảnh hưởng quá lớn đến cán cân thương mại. Chúng ta phải biết trong giai đoạn này, mục tiêu trước mắt của chúng ta là gì. Luôn luôn có sự đánh đổi giữa lợi ích và thiệt hại trong các chính sách vĩ mô nhưng với tình trạng lạm phát cao trong bối cảnh hiện nay. Chúng tôi cho rằng các biện pháp trên là thích hợp, lợi ích chúng ta nhận được là giảm lạm phát và chi phí sản xuất, giảm lượng USD quá nhiều mà nền kinh tế chưa thể hấp thụ hết, ổn định tâm lý của người dân và bảo đảm tính thanh khoản của ngân hàng trong khi chỉ phải trả một khoản thiệt hại cho thâm hụt cán cân thương mại hay giảm tốc độ tăng trưởng. Như vậy, nền kinh tế vẫn còn lời? Tiểu luận tài chính tiền tệ A3 - TCQTB - K46 29 KẾT LUẬN Chúng ta nhận thức rằng quá trình đấu tranh chống lạm phát không đơn giản ngày một ngày hai. Nó là căn bệnh kinh niên nhưng việc xóa bỏ lạm phát hoàn toàn thì cái giả phải trả không tương xứng với lợi ích đem lại. Tình hình diễn biến lạm phát và khắc phục nó tại Việt Nam rất phức tạp. Lạm phát đã hoành hành công khái khi Việt Nam tiến hành cải cách kinh tế xã hội, xóa bỏ bao cấp, quan liêu. Sự cải cách không đồng bộ giữa giá cả và quản lý kinh tế dẫn đến khủng hoảng trầm trọng. Thành công trong cuộc chống lạm phát 1989 đưa nước ta vượt lên chính là sự đổi mới trong nhận thức quản lý kinh tế của Đảng và nhà nước ta. Kinh tế ổn định đã làm tiền đề cơ sở cho sự thành công của các thành tựu trong lĩnh vực giáo dục, khoa học, chính trị… những thành tựu to lớn mà chúng ta đạt được trong công cuộc chống lạm phát cũng không vì thế mà chúng ta chủ quan, nới lỏng. Lạm phát luôn rình rập và đe dọa chúng ta bất cứ lúc nào. Chính vì vậy Đảng và nhà nước cần phải luôn thận trọng trong mỗi bước đi của mình để đảm bảo cho nền kinh tế nước ta phát triển vững mạnh làm nền tảng để phát triên khoa học, giáo dục, đuổi kịp sự phát triển của các nước trong khu vực nói riêng và các nước trên thế giới nói chung. Điều này không chỉ của riêng ai mà một phần không nhỏ dành cho các nhà doanh nghiệp trẻ góp phần làm rạng danh đất nước trong nhiều năm tới này. Lạm phát đang là vấn đề nổi cộm trong lý thuyết Tài chính- Tiền tệ. Em đã cố gắng tới mức cao nhất hoàn thành đề án trong khả năng của mình. Bài viết này chỉ là những thu nhặt bước đầu mang tính chất cơ sở cho việc phát triển nhận thức sau này. Em hy vọng đây là cách tiếp cận có hiệu quả trong quá trình tìm hiểu nền kinh tế nói chung và lạm phát nói riêng Tiểu luận tài chính tiền tệ A3 - TCQTB - K46 30 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1.Giáo trình Tài Chính- Tiền Tệ Ngân Hàng -PGS Nguyễn Văn Tiến 2.Tiền Tệ Ngân Hàng và thị trường Tài Chính – Mishkin. 3.Các trang web: 7463 &file=article&sid=13788 008/07/mlnews.2008-07-23.3850781209

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf13. Mot so van de ve lam phat o VN.pdf
Tài liệu liên quan