Tiểu luận Lạm phát và kiềm chế lạm phát ở nước ta

MỤC LỤC LỜI NÓI ĐẦU 0 NỘI DUNG 1 I. LẠM PHÁT 1 1. Những quan điểm khác nhau về lạm phát 1 2. Tác động của lạm phát 3 II. THỰC TRẠNG CỦA VIỆC KIỀM CHẾ LẠM PHÁT NHỮNG NĂM QUA Ở NƯỚC TA 4 1. Dự trữ bắt buộc 4 2. Chiết khấu 5 3. Hoạt động thị trường mở 6 4. Lãi suất 7 5. Hạn mức tín dụng 9 III. GIẢI PHÁP 10 1. Các nguy cơ dẫn tới việc tái lạm phát 10 2. Giải pháp hoàn thiện chính sách tiền tệ trong việc kiểm soát lạm phát 11 2.1. Dự trữ bắt buộc 11 2.2. Tái chiết khấu 12 2.3. Hoạt động thị trường mở 12 2.4. Lãi suất 13 2.5. Hạn mức tín dụng 14 KẾT LUẬN 16 MỤC LỤC 16

doc19 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2051 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Lạm phát và kiềm chế lạm phát ở nước ta, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU Thành công trong việc chặn đứng lạm phát phi mã năm 1989 nhờ áp dụng công cụ lãi suất ngân hàng (đưa lãi suất huy động tiền gửi tiết kiệm lên cao vượt tốc độ lạm phát), đã cho thấy tầm quan trọng của việc sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ trong điều tiết kinh tế vĩ mô nhằm đạt các mục tiêu ngắn hạn ổn định thị trường. Trong nền kinh tế tăng trưởng nhanh của nước ta luôn thường trực nguy cơ tái lạm phát cao, do đó một công cụ điều tiết vĩ mô hiệu nghiệm như chính sách tiền tệ được tận dụng trước tiên vơí hiệu suất cao cũng là điều tất yếu. Tuy nhiên gần đây ở Việt nam có dấu hiệu của sự lạm dụng các công cụ của chính sách tiền tệ trong nhiệm vụ kiềm chế lạm phát. Điều này thể hiện sự yếu kém trong việc quản lý và sử dụng chính sách tiền tệ của chúng tới . Vì vậy đứng trước nguy cơ tiềm ẩn của lạm phát, việc nghiên cứu chính sách tiền tệ nhằm kiểm soát lạm phát là vô cùng cần thiết. Lạm phát ảnh hưởng trực tiếp tới đời sống kinh tế xã hội, cho nên ảnh hưởng đến mỗi cá nhân trong xã hội. Do đó đề tài "Lạm phát và kiềm chế lạm phát ở nước ta" có ý nghĩa thiết thực đối với bản thân. NỘI DUNG I. LẠM PHÁT 1. Những quan điểm khác nhau về lạm phát Quá trình hình thành các khái niệm và nhận thức bản chất kinh tế của lạm phát cũng là quá trình phát triển của tư duy đi từ đơn giản đến phức tạp, đi từ hiện tượng bề ngoài đến bản chất bên trong, đến các thuộc tính của lạm phát, là quá tình sàng lọc những hiểu biết sai và đúng, lẫn lộn giữa hiện tượng và bản chất, giữa nguyên nhân và kết quả để phản ánh đúng đắn bản chất của tính quy luật của lạm phát. Theo trường phái lạm phát "lưu thông tiền tệ" (đại diện là Miltơn Priedman) họ cho rằng lạm phát tiền tệ là đưa nhiều tiền thừa (bất kể là kim loại hay tiền giấy) và lưu thông làm cho giá cả hàng hoá tăng lên. Chúng ta đều biết rằng không phải bất cứ số lượng tiền nào tăng lên trong lưu thông với nhịp điệu nhanh hơn sản xuất cũng đều là lạm phát, nếu như nhà nước không giảm bớt nội dung vàng hoặc giá trị tượng trưng trong đồng tiền để bù đắp cho bội chi ngân sách. K.Mazx đã chỉ ra rằng ý nghĩ về lạm phát của học thuyết này là quá đơn giản. Những người theo học thuyết này đã dùng logic hình thức để kết hợp một cách máy móc hiện tượng tăng số lượng tiền với hiện tượng tăng giá để rút ra bản chất kinh tế của lạm phát. Trường phái lạm phát "cần dư thừa tổng quát" (hay “cầu kéo") mà đại diện là J.Keynes cho rằng. Lạm phát là "cầu dư thừa tổng quát cho phát hành tiền ra quá mức sản xuất trong thời kỳ toàn dụng dẫn đến mức giá chung tăng. Chúng ta nhận thức được rằng nói lạm phát là "cầu dư thừa tổng quát" là không chính xác, vì trong giai đoạn khủng hoảng ở thời kỳ CNTB phát triển mặc dù có khủng hoảng sản xuất thừa mà không có lạm phát. Còn ở Việt Nam trong năm 1991 có tình trạng cung lớn hơn cầu mà vẫn có lạm phát giá cả và lạm phát tiền tệ. Tuy Keynes đã tiến sâu hơn trường phái lạm phát lưu thông tiền tệ là không lấy hiện tượng bề ngoài, không coi điều kiện của lạm phát là nguyên nhân của lạm phát nhưng lại mắc sai lầm về mặt logíc là đem kết quả của lạm phát quy vào bản chất của lạm phát. Khái niệm của Keynes vẫn chưa nên được đúng bản chất kinh tế - xã hội của lạm phát. Trường phái lạm phát giá cả họ cho rằng lạm phát là sự tăng giá. Thực chất lạm phát chỉ là một trong nhiều nguyên nhân của tăng giá. Có những thời kỳ giá mà không có lạm phát như: thời kỳ "cách mạng giá cả" ở thế kỷ XVI ở châu Âu, thời kỳ hưng thịnh của một chu kỳ sản xuất, những năm mất mùa... tăng giá chỉ là hệ quả là một tín hiệu dễ thấy của lạm phát nhưng có lúc tăng giá lại trở thành nguyên nhân của lạm phát. Lạm phát xảy ra là do tăng nhiều cái chứ không phải chỉ đơn thuần do tăng giá. Vì vậy quan điểm của trường phái này đã lẫn lộn giữa hiện tượng và bản chất, làm cho người ta dễ ngộ nhận giữa tăng giá và lạm phát. K.Marx đã cho rằng "lạm phát là sự tràn đầy các kênh, các luồng lưu thông những tờ giấy bạc thừa làm cho giá cả (mức giá) tăng vọt và việc phân phối lại sản phẩm xã hội giữa các giai cấp trong dân cư có lợi cho giai cấp tư sản. ở đây Marx đã đứng trên góc độ giai cấp để nhìn nhận lạm phát, dẫn tới người ta có thể hiểu lạm phát là do nhà nước do giai cấp tư bản, để bóc lột một lần nữa giai cấp vô sản. Quan điểm này có thể xếp vào quan điểm lạm phát "lưu thông tiền tệ" song định nghĩa này hoàn hảo hơn vì nó đề cấp tới bản chất kinh tế - xã hội của lạm phát. Tuy nhiên nó có nhược điểm là cho rằng lạm phát chỉ là phạm trù kinh tế của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa và chưa nêu được ảnh hưởng của lạm phát trên phạm vi quốc tế. Trên đây là các quan điểm của các trường phái kinh tế học chính. Nói chung các quan điểm đều chưa hoàn chỉnh, nhưng đã nêu được một số mặt của hai thuộc tính cơ bản của lạm phát. Bàn lạm phát là vấn đề rộng và để định nghĩa được nó đòi hỏi phải có sự đầu tư sâu và kỹ càng. Chính vì thế bản thân cũng chỉ mạnh dạn nêu ra các quan điểm và suy nghĩ của mình về lạm phát một cách đơn giản chứ không đầy đủ bốn yếu tố chủ yếu "bản chất, nguyên nhân các hậu quả KTXH và hình thức biểu hiện". Chúng ta có thể dễ chấp nhận quan điểm của trường phái giá cả, (ở nước ta và nhiều nước quan niệm này tương đối phổ biến). Sở dĩ như vậy là vì thế kỷ XX là thế kỷ lạm phát, lạm phát hầu như diễn ra ở tuyệt đại bộ phận các nước mà sự tăng giá lại là tín hiệu nhạy bén, dễ thấy của lạm phát. Như vậy chúng ta sẽ hiểu đơn giản là "lạm phát là sự tăng giá kéo dài, là sự thừa các đồng tiền trong lưu thông, là việc nhà nước phát hành thêm tiền nhằm bù đắp bội chi ngân sách". Nói chung lạm phát là một hiện tượng của các nền kinh tế thị trường. Định nghĩa lạm phát còn rất nhiều vấn đề để chúng ta có thể nghiên cứu một cách sâu sắc. Nhưng khi xảy ra lạm phát (vừa phải, phi mã, hay siêu lạm phát) thì tác động của nó sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới đời sống kinh tế xã hội. 2. Tác động của lạm phát Trên thực tế, nhiều nước chứng tỏ không thể triệt tiêu được lạm phát trong kinh tế thị trường dù đạt trình độ phát triển rất cao của lực lượng sản xuất . Nếu giữ được lạm phát ở mức độ nền kinh tế chịu được, cho phép có thể mở thêm việc làm, huy động thêm các nguồn lực phục vụ cho sự tăng trưởng kinh tế, thì cũng là một thực tế điều hành thành công công cuộc chống lạm phát ở nhiều nước. Nếu tỷ lệ tăng trưởng cao, tỷ lệ lạm phát quá thấp thì dẫn tới tình trạng các ngân hàng ứ đọng vốn, làm ảnh hưởng tới sự phát triển của đất nước. Vì thế trong trường hợp đó người ta phải cố gắng tăng tỷ lệ lạm phát lên. Khi chính phủ kiểm soát lạm phát ở mức độ mà nền kinh tế chịu được (tỷ lệ lạm phát dưới 10%) thì vừa không gây đảo lộn lớn, các hệ quả của lạm phát được kiểm soát, vừa sức che chắn hoặc chịu đựng được của nền kinh tế và của các tầng lớp xã hội. Hơn nữa, một sự hy sinh nào đó do mức lạm phát được kiểm soát đó mang lại được đánh đổi bằng sự tăng trưởng , phát triển kinh tế mở ra nhiều việc làm hơn, thu nhập danh nghĩa có thể được tăng lên cho mỗi người lao động nhờ có đủ việc làm hơn trong tuần, trong tháng hoặc tăng thêm người có việc làm, có thu nhập trong gia đình và cả tầng lớp lao động do giảm thất nghiệp . Đến lượt nó, thu nhập bằng tiền tăng lên thì tăng thêm sức kích thích của nhu cầu của tiền tệ và sức mua đối với đầu tư, tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước (GDP). Nhưng khi tỷ lệ lạm phát đến 2 con số trở lên (lạm phát phi mã hoặc siêu lạm phát) thì hầu như tác động rất xấu tới nền kinh tế như sự phân phối và phân phối lại một cách bất hợp lý giữa các nhóm dân cư hoặc các tầng lớp trong xã hội và các chủ thể trong các quan hệ về mặt tiền tệ trên các chỉ tiêu mang tính chất danh nghĩa (chỉ tiêu không tính đến yếu tố lạm phát, không tính đến sự trượt giá của đồng tiền). Mặt khác tỷ lệ lạm phát cao phá hoại và đình đốn nền sản xuất xã hội do lúc đó độ rủi ro cao, không ai dám tính toán đầu tư lâu dài, những hoạt động kinh tế ngắn hạn từng thương vụ, từng đợt, từng chuyến diễn ra phổ biến, Trong xã hội xuất hiện tình trạng đầu cơ tích trữ, dẫn tới khan hiếm hàng hoá . Điều đó lại làm giá càng tăng, và xã hội rơi vào vòng luẩn quẩn, lạm phát càng tăng dẫn tới mất ổn định về chính trị xã hội. Tỷ lệ lạm phát cao còn có ảnh hưởng xấu tới quan hệ kinh tế quốc tế. Tóm lại khi lạm phát cao tới mức hai con số (ở Việt nam giữa những năm 80 đã xảy ra tình trạng lạm phát tới mức 3 con số) trở lên, thì có ảnh hưởng xấu tới xã hội. II. THỰC TRẠNG CỦA VIỆC KIỀM CHẾ LẠM PHÁT NHỮNG NĂM QUA Ở NƯỚC TA 1. Dự trữ bắt buộc Tại điều 45 pháp lệnh ngân hàng nhà nước đã quy định "NHNN quy định tỷ lệ dự trữ bắt buộc ít nhất ở mức 10% và nhiều nhất ở mức 35% trên toàn bộ tiền gửi ở các tổ chức tín dụng. Trong trường hợp cần thiết hội đồng quản trị ngân hàng nhà nước quyết định tăng tỷ lệ dự trữ trên mức 35% và NHNN trả lãi mức tăng đó. Trên thực tế công cụ này được bắt đầu sử dụng từ cuối năm 1989 với tổng số tiền các NHTM phải ký gửi hơn 100 tỷ đồng, năm 1990 là 356 tỷ đồng và các năm sau vẫn được thực hiện theo mức 10% tính trên số tiền gửi của khách hàng. Trong thời gian đầu, tuy pháp lệnh ngân hàng đã quy định như trên nhưng thực tế trong một thời gian dài, tỷ lệ 10% được ổn định một cách cố định, mặc dù chính sách tín dụng từ năm 1989 đến nay đã trải qua nhiều thời kỳ khác nhau theo chủ trương lúc thì thắt chặt, lúc thì nới lỏng (nhằm kiểm soát lạm phát). Nghĩa là việc thực hiện đưa tiền vào lưu thông điều khiển khối lượng tiền lưu thông luôn được thực hiện theo những dự kiến nhất định, bằng những công cụ khác nhau. Nhưng công cụ dự trữ bắt buộc vẫn được thực hiện với một tỷ lệ cố định. Đầu năm 1994, Ngân hàng trung ương đã có quy định bổ sung : tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với loại tiền gửi không kỳ hạn là 13%, đối với loại tiền gửi là 7% nhưng cũng là để thi hành cho một thời gian dài. Sự ổn định như vậy đã nói lên rằng, ở nước ta vào thời kỳ này mới bước đầu sử dụng công cụ này , nên chưa có khả năng điều khiển nó một cách linh hoạt theo tình hình tiền tệ luôn biến động trong lưu thông, nên chưa thực hiện đầy đủ vai trò điều khiển khối lượng tiền lưu thông hạn chế bội số tín dụng của các NHTM như chức năng vốn có của công cụ này. Đặc biệt ở năm 1991-1992 các ngân hàng quốc doanh ngoài số vốn dự trữ tối thiểu theo luật định còn có một lượng vốn tiền gửi khá lớn taị NHTW. Điều này trong một chừng mực nhất định đã vô hiệu hoá công cụ dự trữ bắt buộc vì như vậy khi nâng cao hay hạ thấp tỷ lệ dự trữ bắt buộc thì hầu như cũng chẳng ảnh hưởng gì đến khả năng thanh toán và khối lượng tín dụng cung ứng. Tuy nhiên, thời gian qua NHNN cũng đã sử dụng công cụ dự trữ bắt buộc nhằm mục tiêu góp phần điều hành chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ và đã đạt được một số kết quả nhất định trong việc kiểm soát lạm phát ở mức thấp. Đến nay để chuẩn bị cho luật NHNN có hiệu lực thi hành kể từ ngày 1/10/1998, vấn đề cần đặt ra là phải nghiên cứu nội dung của luật NHNN nhằm đưa ra quy chế dự trữ bắt buộc phù hợp với mục tiêu điều hành chính sách tiền tệ giai đoạn mới trong đó mục tiêu ổn định và phát triển kinh tế cũng như kiểm soát lạm phát là quan trọng nhất. 2. Chiết khấu Chiết khấu là một công cụ khá nhạy cảm trong quá trình điều hành khối lượng tiền tệ và đã được nhà nước cho phép sử dụng tại điều 41 và 43 pháp lệnh NHNN Việt Nam. Nhưng trong thực tế ở nước ta những năm qua do thừa hưởng tiềm thế của một nền lưu thông trong đó không được phép tồn tại tín dụng thương mại, vì vậy chưa có các công cụ truyền thống trực tiếp để thực hiện việc chiết khấu và tái chiết khấu như các loại kỳ phiếu, thương phiếu... Luật thương mại nước ta mới được công bố và từ ngày 1-1-1998 mới có giá trị thi hành, bởi vậy nghiệp vụ chiết khấu thương phiếu của NHTM chưa được quy định. Do đó việc tái chiết khấu được thực hiện dựa trên căn cứ các chứng từ do NHTM đã cho vay, nhưng chưa đến hạn các doanh nghiệp phải trả nợ lãi. Căn cứ vào chứng từ đó NHNN cho các NHTM vay lại những khoản nợ mà các NHTM đã cho các doanh nghiệp vay. Một mặt NHTW còn thực hiện phương thức "mua lại" các dự án đã được các ngân hàng thẩm định trước khi đầu tư nhưng NHTM không đủ vốn. Trong thời gian qua do chưa có những công cụ nghiệp vụ để thực hiện công cụ lãi suất tái chiết khấu nên ngân hàng nhà nước Việt Nam đã sử dụng hình thức cho vay cầm cố. Hình thức này được thực hiện bằng cách, các NHTM và các tổ chức tín dụng đem một số loại giấy tờ có giá trị đến NHTW làm vật thế chấp để vay tiền. Loại tín dụng này nhằm giải quyết khó khăn tài chính tạm thời cho các NHTM. Hình thức mua lại các dự án đầu tư tái cấp vốn theo hình thức cho vay thế chấp một thời gian dài là công cụ thay thế cho thương phiếu và kỳ phiếu . Những hạn chế của công cụ tái chiết khấu ở nước ta trong thời gian qua đó là tất yếu trong thời kỳ đầu chuyển sang kinh tế thị trường . Tuy nhiên cùng với các công cụ khác của chính sách tiền tệ công cụ tái chiết khấu (chưa hoàn thiện) đã góp phần đưa tỷ lệ lạm phát ở nước ta từ mức 2 con số ở các năm trước xuống mức 1 con số ở năm 1993. 3. Hoạt động thị trường mở Đây là một trong những công cụ quan trọng được NHTW các nước sử dụng để điều hành có hiệu quả chính sách tiền tệ. Thậm chí một số ngân hàng coi đây là công cụ sắc bén nhất trong các hoạt động của mình. Nhưng ở Việt Nam, nền kinh tế vận hành theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung bao cấp gồm suốt 4 thập kỷ qua, phù hợp với cơ chế đó NHNN Việt Nam không thể sử dụng các công cụ gián tiếp (dự trữ bắt buộc, thị trường mở, lãi suất tái chiết khấu) để điều hành chính sách tiền tệ. Công cụ đó chỉ có thể và trên thực tế bước đầu đã phát huy tác dụng khi hệ thống NHVN đã thực sự đổi mới. Điều 21 luật NHNN Việt nam được quốc hội nước CHXHCN Việt nam khoá 10 kỳ họp thứ 2 thông qua quy định "NHNN thực hiện nghiệp vụ thị trường mở thông qua việc mua bán tín phiếu kho bạc, chứng chỉ tiền gửi, tín phiếu NHNN và các loại giấy tờ có giá ngắn hạn khác trên thị trường tiền tệ để thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia. Quy định trên về mặt phương diện pháp lý luật NHNN Việt Nam đã mở ra cho công cụ thị trường mở một lối đi khá thông thoáng, không bị ức chế bới khía cạnh nào. Chúng ta có thể thấy rằng nghiệp vụ thị trường mở là yếu tố tác động quyết định nhất đến những biến động trong cung ứng tiền tệ, làm thay đổi cơ sở tiền tệ trên thị trường. Chính vì vậy đây là công cụ hữu hiệu trong việc kiểm soát lạm phát. Do đó việc chính phủ tìm những giải pháp để mau chóng đưa thị trường mở hoạt động một cách đầy đủ là vô cùng quan trọng và cấp thiết. 4. Lãi suất Trước năm 1933, hệ thống ngân hàng ở Việt nam là hệ thống ngân hàng một cấp, về thực chất nó là một bộ phận của ngân sách nhà nước. Mối quan hệ của ngân hàng với kinh tế ngoài quốc doanh và với dân chúng là hạn chế : khi ngân sách nhà nước thâm hụt, các ngân hàng phát hành thêm tiền để bù đắp. Khi các DNNN thiếu vốn thì ngân hàng phát hành tiền cho vay tín dụng. Vì vậy dẫn tới lạm phát trầm trọng tới mức 3 con số (trong thời kỳ này ngân hàng đã áp dụng chính sách lãi suất cho vay nhỏ hơn lãi suất tiền gửi và nhỏ hơn tốc độ trượt giá. Đây là sự bất hợp lý, cho nên không huy động được vốn trong dân và làm cho hệ thống ngân hàng tê liệt) Tháng 3 năm 1988, đánh dấu bước ngoặt cơ bản trong chính sách tiền tệ ở Việt nam bằng nghị định 53 và tháng 5 năm 1990 là việc ban hành hai pháp lệnh về ngân hàng. Ngân hàng Nhà nước và ngân hàng HTX tín dụng và công ty tài chính. Sự hình thành hệ thống ngân hàng hai cấp cùng với việc áp dụng chính sách lãi suất đã góp phần rất cơ bản vào việc kiềm chế lạm phát những năm sau đó. Vào đầu năm 1989, chính phủ đã quyết định thay đổi một cách cơ bản chính sách lãi suất. Quyết định số 39/HĐBT ngày 10/4/1989của HĐBT đưa ra các nguyên tắc cơ bản để xác định lãi suất tiền gửi và cho vay của NHNN. Các nguyên tắc đó là: - Lãi suất áp dụng thống nhất cho các thành phần kinh tế và được điều chỉnh theo sự biến động của chỉ soó giá cả trên thị trường xã hội. - Mọi nguồn vốn mà ngân hàng huy động để cho vay đều được hưởng lãi, mọi khoản vốn ngân hàng cho vay đều phải thu lãi. - Chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất tiền gửi bình quân 0,6% tháng. - Trong cơ cấu lãi suất tiền gửi và cho vay phải bao gồm lãi suất cơ bản (lãi suất thực dương) và chỉ số trượt giá của thị trường xã hội. Cụ thể từ giữa tháng 3-1989 đã đưa lãi suất tiền gửi tiết kiệm lên cao hơn chỉ số lạm phát hàng tháng. Tháng 1 và tháng 2 năm 1989 chỉ số giá chỉ tăng hơn 7,4% và 4,2% nhưng lãi suất tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn 3 tháng và không có kỳ hạn đã được mạnh dạn đưa lên 12% và 9% mỗi tháng . Biện pháp lãi suất thực dương này lần đầu tiên được thực thi đã phá vỡ sự trì trệ của các kênh thu hút tiền thừa trong dân và khắc phục căn bản sự tê liệt của chính sách lãi suất cần ổn định từ năm 1985 đến quý I năm 1989. Số dư tiền tiết kiệm tăng lên nhanh chóng ngay tháng đầu, quý đầu. áp dụng chính sách này ngay lần đầu đã giảm lạm phát một cách nhanh chóng (cũng bất lợi và khó khăn đó là chỉ 3 tháng sau đã trở thành thiểu phát. Tháng 6/1992. NHNN đã điều chỉnh lãi suất theo hướng : - Đảm bảo lãi suất dương, tức là lãi suất cho vay không thấp hơn lãi suất huy động bình quân. - NHNN chỉ quy định mức lãi suất cho vay tối đa và mức lãi suất tiền gửi tối thiểu, còn mức lãi suất cụ thể sẽ do các NHTM quyết định. - Xoá bỏ cơ chế nhiều mức lãi suất phân biệt theo thành phần kinh tế cũng như theo các loại hình doanh nghiệp , thực hiện chính sách lãi suất bình đẳng đối với tất cả các thành phần kinh tế . Đây là bước cải tiến cơ bản theo hướng từng bước tự do hoá lãi suất. Trong những năm tiếp theo biện pháp chủ yếu để kiểm soát cung ứng tiền tệ (qua đó kiểm soát được lạm phát) là nâng cao lãi suất bằng biện pháp hành chính lên mức cao, thực hiện thắt chặt tín dụng cấp cho khu vực kinh tế quốc doanh và ngân sách nhà nước. Tiếp theo một bước cải cách chính sách lãi suất nữa đó là với quyết định 381/QĐ-NH ngày 28-12-1995 của thống đốc ngân hàng nhà nước, kể từ ngày 1-1-1996 lãi suất trần chính thức trở thành một trong những công cụ chủ chốt để điều hành chính sách tiền tệ. Đây là quyết định vĩ mô có tầm ảnh hưởng sâu rộng nhất trong năm 1996. Từ mức trần 1,75%/tháng dành cho khu vực thành thị và 2% /tháng dành cho khu vực nông thôn, cho đến thời điểm này lãi suất trần đã áp dụng thống nhất cho cả hai khu vực thành thị và nông thôn là 1,2% tháng đối với cho vay ngắn hạn và 1,25% /tháng đối với trung và dài hạn, không chỉ góp phần biến đổi cơ bản thực trạng tín dụng mà còn chứng minh sự vận dụng khá chuẩn xác những giải pháp đặc thù trong hoàn cảnh cụ thể ở Việt Nam. Bước đầu áp dụng không tránh khỏi những vướng mắc nhưng sau một thời gian khá ngắn, hệ thống NHTM dường như đã thích nghi được với cơ chế lãi suất trần, tự điều chỉnh nhằm tối ưu hoá cơ cấu tín dụng và cân đối tài chính để sẵn sàng ứng chiếu với 5 lần điều chỉnh giảm trần lãi suất của NHNN trong 2 năm 1996-1997 và lần đầu chỉnh tăng lãi suất trần gần đây trong tháng 1/1998 (lãi suất cho vay ngắn hạn từ 1% lên 1,2% /tháng, lãi suất cho vay trung, dài hạn từ 1,1% lên 1,25%/tháng. Hai mức lãi suất cơ bản này áp dụng chung cho cả thành thị và nông thôn). Qua thực tiễn cho thấy, trong những năm gần đây chính sách lãi suất của NHNN đã được sử dụng như một công cụ quan trọng góp phần tăng trưởng kinh tế và kiểm soát lạm phát. 5. Hạn mức tín dụng Trong nền kinh tế thị trường phát triển hệ thống các NHTM và các tổ chức tài chính được hình thành rất đa dạng, thì việc điều khiển khối lượng tiền được thông qua các công cụ lãi suất chiết khấu và các công cụ truyền thống khác là chủ yếu. Nhưng đối với nước ta, công cụ truyền thống chưa thể phát huy được tác dụng thì việc định ra công cụ trung gian trong thời gian chuyển tiếp đã có một ý nghĩa lớn và tác dụng thiết thực cho việc điều hành khối lượng tiền tệ. Đó là hạn mức tín dụng. Năm 1992, mức dự kiến tăng trưởng kinh tế 4,5% , chỉ số lạm phát dự kiến/mức cho phép) là 30%/năm; NHTW đã khống chế hạn mức tín dụng đối với tất cả hệ thống NHTM ở mức 34,5%. Kết quả thực tế năm đó, mức tăng trưởng kinh tế tăng gấp 2 lần so với dự kiến, mức lạm phát 17,5% tiền tệ đi dần vào ổn định. Tất nhiên theo các chỉ số đó NHTW cũng chỉ đưa thêm tiền vào lưu thông mức 23% (thấp hơn mức dự kiến). Các năm sau, NHTW cũng điều hành công cụ này theo phương thức tương tự và đã có tác dụng tốt. Tuy nhiên cuối năm 1995 do hạn mức tín dụng đã có ngân hàng thừa hơn 1 ngàn tỷ đồng, gửi NHTW hưởng lãi suất 1,1% nên gây lỗ. Vì vậy việc xác định hạn mức tín dụng là rất cần thiết để thực hiện mục tiêu trên chống lạm phát. Nhưng việc điều hành công cụ này chỉ có hiệu quả khi hệ thống NHTM quốc doanh còn chiếm lĩnh phần lớn thị trường tiền tệ, đồng thời có sự phối hợp chặt chẽ giữa các công cụ (lãi suất tín dụng, can thiệp thị trường hối đoái...), cùng các biện pháp hành chính khác. III. GIẢI PHÁP 1. Các nguy cơ dẫn tới việc tái lạm phát Mặc dù mấy năm qua lạm phát đã được kiềm chế. Song nền kinh tế Việt nam vẫn tồn tại nhiều vấn đề chưa ổn định vững chắc, có thể dẫn tới việc tái lạm phát. Các nhân tố tiềm tàng làm phát sinh lạm phát cần phải được tính đến khi kiểm soát lạm phát là. - Cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội chậm được cải thiện, có mặt tiếp tục xuống cấp, tỷ lệ tiết kiệm và đầu tư còn thấp, nhiều tiềm lực của dân chưa được khai thác vào phát triển sản xuất , tài sản công và vốn đầu tư của nhà nước còn bị thất thoát lãng phí lớn. - Sức sản xuất của xã hội chưa được giải pháp triệt để, hiệu quả kinh tế còn thấp, hạn ché nguồn tích luỹ vốn đầu tư cũng như khả năng cải thiện đời sống. - Nền kinh tế thị trường Việt Nam đang ở trình độ ban đầu, vừa chưa được phát triển đầy đủ, vừa chưa được quản lý tốt, chủ yếu do hệ thống pháp luật chưa đồng bộ, năng lực và hiệu lực quản lý vĩ mô chưa đáp ứng yêu cầu. Bộ máy nhà nước, hệ thống tài chính ngân hàng và khu vực doanh nghiệp nhà nước còn bộc lộ nhiều yếu kém. - Ở nước ta những năm qua, nhu cầu đầu tư về xây dựng cơ bản tăng nhanh trên cả hai khu vực nhà nước và tư nhân. Đầu tư nước ngoài vào Việt nam ngày một gia tăng do đó ảnh hưởng tới thị trường tiền tệ và thị trường hàng hoá . - Ngân sách nhà nước đứng trước những yêu cầu lớn về cân đối thu chi và tạo nguồn bù đắp thiếu hụt hàng năm, trong khi đó môi trường luật pháp môi trường tài chính còn đang trong quá trình tạo lập và hoàn cảnh. Vì vậy, khả năng mất cân đối trong ngân sách nhà nước lạm phát tiền tệ là chưa thể lường hết được. Những nhân tố trên có thể gây ra lạm phát trong những năm tới. 2. Giải pháp hoàn thiện chính sách tiền tệ trong việc kiểm soát lạm phát Để hoàn thiên chính sách tiền tệ chúng ta phải biết hoàn thiện các công cụ của chính sách tiền tệ cũng như phối hợp điều hành các công cụ đó. 2.1. Dự trữ bắt buộc Công cụ dự trữ bắt buộc có ưu điểm lớn trong việc kiểm soát cung tiền tệ là nó có thể tác động đến tất cả các ngân hàng như nhau và có tác dụng đầy quyền lực đến cung ứng tiền tệ. Tuy vậy, khi mà dự trữ bắt buộc không được trả lãi, chúng tương đương với một khoản thuế và có thể dẫn tới tình trạng phi trung gian hoá hơn nữa, dự trữ bắt buộc thiếu tính mềm dẻo, hoặc những thay đổi lớn và thường xuyên ở mức dự trữ cũng sẽ gây nên hỗn loạn và tổn thất cho các NHTM.. Trong giai đoạn hiện nay chưa nên quy định dự trữ bắt buộc đối với loại tiền gửi có kỳ hạn từ 12 tháng trở lên mà chỉ tạm thời quy định dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi huy động dưới 12 tháng. Việc quy định trên sẽ khuyến khích các NHTM bằng các nghiệp vụ của mình (phát hành trái phiếu NHTM phát hành kỳ phiếu...v.v) thu hút nguồn vốn cho mục tiêu đầu tư và phát triển . Nhưng để đảm bảo khả năng thanh toán của các tổ chức tín dụng, cần xử lý kỷ luật việc thực hiện dự trữ bắt buộc của các tổ chức tín dụng. Do đó ngoài việc phạt nặng các tổ chức tín dụng bằng hình thức lãi suất, ban thanh tra NHNN và các vụ liên quan ở NHTW cần tăng cường kiểm tra việc thực hiện chế độ dự trữ bắt buộc của các ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng khác. 2.2. Tái chiết khấu Để thực hiện được công cụ tái chiết khấu có hiệu quả đòi hỏi phải có các công cụ truyền thống của nó là kỳ phiếu và thương phiếu. Thương phiếu là giấy chứng minh cho hành vi mua chịu bán chịu hàng hoá , hành vi này gọi là tín dụng thương mại. Tín dụng thương mại sẽ giúp cho các doanh nghiệp rút ngắn chu kỳ kinh doanh của mình, tăng vòng quay của vốn. Do đó sẽ góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển và tăng trưởng kinh tế cao. Vì vậy muốn áp dụng công cụ tái chiết khấu như là một công cụ hữu hiệu của chính sách tiền tệ trong việc kiểm soát lạm phát đòi hỏi phải có nền tảng vững chắc cho sự ra đời của tín dụng thương mại. Nên xác định mức chiết khấu bằng với lãi suất cho vay được tính bằng phí ngân hàng cộng với lãi suất sinh lợi của các chứng từ có giá, nhưng tối đa không vượt quá mức tiền của lãi suất cho vay ngắn hạn. Mặt khác ngân hàng trung ương cần định rõ hơn việc vận dụng chính sách và công cụ tái chiết khấu, lãi suất tái chiết khấu: có như vậy mức kích thích việc xuất hiện các loại thương phiếu, kỳ phiếu và chính chúng là cơ sở cho phép ngân hàng nhà nước trung ương vận dụng công cụ tái chiết khấu và lãi suất tái chiết khấu hữu hiệu để thực thi chính sách tiền tệ. 2.3. Hoạt động thị trường mở Về mặt lý luận cũng như trong thực tế thị trường mở là một công cụ quan trọng điều tiết linh hoạt khối lượng tiền tệ trong lưu thông và liên quan trực tiếp đối với cơ chế phát hành tiền của ngân hàng trung ương. Trong điều kiện ở nước ta hiện nay cần đưa công cụ thị trường mở vào hoạt động và tăng cường sử dụng công cụ này. Tuy nhiên đến nay cho thấy các điều kiện để đưa thị trường mở vào hoạt động còn chưa chín muồi. Vì vậy cần có các giải pháp hoàn thiện công cụ này để mau chóng đưa công cụ này vào hoạt động. Trước hết việc vận dụng công cụ thị trường mở đòi hỏi trước mắt không chỉ đối với tín phiếu kho bạc mà ngay cả với trái phiếu kho bạc và các chứng chỉ đầu tư của nhà nước (trái phiếu công trình), cần phải phát hành theo phương thức đấu thầu thông qua hoạt động của NHNNTW và án NHTM trong đó tăng cường vai trò của NHNNTW trong việc phát hành tiền để mua trái phiếu chính phủ và sau đó thực hiện mua bán lại trái phiếu chính phủ với các NHTM, với các tổ chức kinh tế theo tín hiệu thị trường . Một mặt : - Cần ban hành chính thức các quy chế hoạt động thị trường mở phù hợp với luật. - Thành lập ban chỉ đạo thị trường mở để tiến hành mua bán thử - Làm việc với bộ tài chính phát hành các tín phiếu kho bạc có kỳ hạn dưới 12 tháng để tạo công cụ cho thị trường mở. Đồng thời làm việc với Bộ tài chính để chuyển số nợ hiện nay của Bộ tài chính vay NHNN thành các trái phiếu chính phủ để NHNN sử dụng công cụ này cho hoạt động thị trường mở. - NHNN phát hành tín phiếu NHNN thường xuyên, định kỳ với thời hạn ngắn. - Hoàn thiện hệ thống thanh toán bù trừ để các ngân hàng tiến hành các giao dịch ngắn, phát triển nghiệp vụ vay mượn thúc đẩy thị trường liên ngân hàng phát triển là cơ sở để phát triển nghiệp vụ thị trường mở. Để nghiệp vụ thị trường mở phát huy hiệu quả vốn có của nó trong việc điều hành chính sách tiền tệ, thì bên cạnh việc khẩn trương tạo ra các điều kiện như trên cho thị trường mở có thể hoạt động, cần thiết phải đổi mới đồng thời các công cụ chính sách tiền tệ như công cụ tái chiết khấu, dự trữ bắt buộc, lãi suất các điều kiện cần thiết cho sự phát triển của thị trường liên ngân hàng.... để NHNN có thể điều hành một cách đồng bộ, có sự phối hợp chặt chẽ giữa các công cụ, qua đó có thể nâng cao năng lực điều hành của NHNN nhằm thực hiện có hiệu quả mục tiêu chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ. 2.4. Lãi suất Trong những năm gần đây, chính sách lãi suất của NHNN đã được sử dụng như một công cụ quan trọng góp phần tăng trưởng kinh tế và kiểm soát lạm phát. Bằng các biện pháp điều hành linh hoạt theo chỉ đạo của chính phủ NHNN đã chuyển từ chính sách lãi suất âm sang lãi suất thực dương, lãi suất trần đã dần dần bám sát chỉ số trượt giá, và quan hệ cung cầu vốn tín dụng trên thị trường tiền tệ bảo toàn giá trị đồng tiền cho người gửi và được người vay chấp nhận từ đó ngày càng thu hút thêm nguồn vốn vào hệ thống ngân hàng , đáp ứng nhu cầu vốn ngày càng tăng cho sản xuất kinh doanh và đầu tư phát triển. Tuy nhiên, công cụ lãi suất khá quan trọng trong việc kiểm soát lạm phát hiện nay. Do đó, tôi cũng đưa ra những ý kiến về các giải pháp để hoàn thiện hơn nữa công cụ lãi suất. - Nên kiên trì nguyên tắc lãi suất thực dương để kích thích tiết kiệm đồng thời linh hoạt điều chỉnh lãi suất theo diễn biến lạm phát nhằm hỗ trợ đầu tư. - Trong thời gian tới, trước mắt vẫn duy trì cơ chế lãi suất trần nhưng về phương diện tiến hành cần xúc tiến nhanh việc hình thành các cơ chế chính sách nhằm thúc đẩy cạnh tranh lành mạnh trong lĩnh vực kinh doanh tiền tệ, tạo tiền đề mở rộng quá trình tự do hoá lãi suất. - Cần phải có chính sách lãi suất linh hoạt (lãi suất cho vay và vay). Về việc xây dựng chính sách lãi suất, NHNN cần có chính sách ưu đãi cho một số ngành hoặc đối tượng kinh tế quan trọng. Mặt khác lãi suất và tỷ giá là hai vấn đề nhạy cảm, có tác động tức thời và ảnh hưởng sâu rộng đối với toàn bộ các hoạt động kinh tế trong nền kinh tế thị trường. Do giữa chúng có mối quan hệ hữu cơ với nhau, chính sách lãi suất và tỷ giá phải được xử lý đồng bộ trong quan hệ phù hợp. Chính vì vậy biện pháp điều chỉnh lãi suất đồng Việt Nam cần đi đôi với việc quy định lãi suất thích hợp đối với tiền gửi bằng USD để phát huy tối đa vai trò của công cụ lãi suất trong việc điều hành chính sách tiền tệ. 2.5. Hạn mức tín dụng Trong nền kinh tế thị trường , hoạt động tín dụng đóng vai trò điều tiết thường xuyên đối với việc giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và lạm phát. Dựa vào việc mở rộng tín dụng người ta có thể đạt đến sự mở rộng sản xuất kinh doanh và đầu tư xây dựng cơ bản. Ngược lại thu hẹp tín dụng là một trong những cách thức quan trọng để hạn chế sự tăng trưởng kinh tế quá nhanh và sự gia tăng của lạm phát. Vì vậy công cụ hạn mức tín dụng có ý nghĩa quan trọng và việc xác định hạn mức tín dụng là rất cần thiết để thực hiện mục tiêu chống lạm phát. Song nó cũng gây khó khăn cho NHTM vì thế cần phải có những giải pháp hỗ trợ tiếp nối để làm giảm bớt những khó khăn cho NHTM. Thứ nhất: để NHTM kinh doanh được tốt, huy động được nhiều vốn trong dân cư (đây là sự cần thiết để chống lạm phát) nên mở hướng cho chi nhánh NHTM cấp tỉnh có thể được mua tín phiếu NHNN khi thừa vốn. Như vậy nâng cao được tính năng động, sáng tạo vì nó gắn với lợi ích trực tiếp của nơi thừa vốn. Thứ hai: để giảm bớt khó khăn cho Ngân hàng nông nghiệp, NHNN và chính phủ nên cho phép ngân hàng nông nghiệp không phải ký quỹ bắt buộc hoặc để 1 tỷ lệ rất nhỏ trên số tiền gửi. Thứ ba: chính phủ nên giao cho các NHTM huy động thay cho kho bạc và theo chủ định của chính phủ về mức huy động và lãi suất đảm bảo kinh doanh . Số huy động được theo chỉ định sẽ chuyển giao cho kho bạc để đáp ứng yêu cầu chi tiêu của chính phủ. Thực hiện tốt những giải pháp nêu trên vừa đảm bảo chống lạm phát vừa giúp cho các NHTM hoạt động có hiệu quả. KẾT LUẬN Thi hành chính sách tiền tệ chặt chẽ có ý nghĩa quan trọng trong việc kiểm soát lạm phát. Thời gian gần đây, ngân hàng nhà nước đã nhận về mình trách nhiệm ổn định giá trị đồng tiền, chống lạm phát, và đã áp dụng khá thành công các công cụ của chính sách tiền tệ như: chính sách, dự trữ bắt buộc, hạn mức tín dụng, mở các thị trường nội tệ và ngoại tệ liên ngân hàng, đấu thầu tín phiếu kho bạc... Tuy nhiên, lạm phát là hiện tượng thường trực của lưu thông tiền giấy trong nền kinh tế đang chuyển đổi của chúng ta, nguy cơ lạm phát cao cũng thường xuyên phải đề phòng. Do đó một công cụ nhạy cảm như chính sách tiền tệ không thể xem nhẹ. Mặt khác ngày càng cần hoàn thiện hơn nữa chính sách tiền tệ trong việc kiểm soát lạm phát ở mức phù hợp, với tăng trưởng kinh tế nhanh trong sự ổn định kinh tế vĩ mô góp phần đưa đất nước không bị tụt hậu so với các nước trong khu vực. MỤC LỤC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docTaichinh (46).doc
Tài liệu liên quan