I.Mở bài
Không chối bỏ “xuân”, không “chắn nẻo xuân sang” để rồi mong nhớ “một cánh chin thu lạc cuối ngàn” như Chế Lan Viên của thời “Điêu tàn”, Hàn Mặc Tử luôn tạo ra những màu xuân như ý tưởng tượng của mình, bằng ý muốn chủ quan của mình. Thi phẩm Mùa xuân chín phải chăng cũng là mùa xuân ẩn dụ của nhà thơ?
Bài thơ mở ra trong cái khoảnh khắc của trời đất, của lòng người bừng nở. Hiện lên trang thơ là bức tranh xuân tràn đầy sức sống và thật thơ mộng. Dường như mỗi con chữ đều có sức gợi tả, gợi sự liên tưởng của một mùa xuân của đời sống thực mà ta đã gặp đã yêu.
II. Nghệ thuật trong Mùa xuân chín
1. Không gian
Mở đầu Mùa xuân chín là cả một không gian đầy ý vị của mùa xuân. Không gian trong Mùa xuân chín thật trong sáng và đầy thơ mộng. Với tài của người nghệ sĩ Hàn Mặc Tử đã tạo ra một không gian thực mà cũng rất ảo, nhiều chiều, vô hạn. Không gian trong Mùa xuân chín được miêu tả từ “cao- thấp”, “gần- xa”. Đang từ một điểm nhìn lên cao để cảm nhận thấy “làn nắng ửng” trong “khói mơ tan” thì điểm nhìn lại được hạ xuông thấp với hình ảnh “đôi mái nhà tranh”. Từ cái nhìn xa trải rộng “tới trời” không gian được thu lại gần “trên đồi”, từ không gian cao vời “lưng chừng núi” hạ thấp xuống chỉ còn là không gian dưới một khóm trúc. Từ “cao- thấp”, “gần- xa” Hàn Mặc Tử muốn tạo ấn tượng về một không gian mở, trải dài, và trong không gian đó tác giả muốn nhấn mạnh các yếu tố cấu tạo nên bức tranh mùa xuân: nắng ửng, mái nhà tranh, giàn thiên lý, cỏ xanh Mô hình chung về không gian trong Mùa xuân chín là mô hình cấu tạo “bên trên- bên dưới”. “Trên” đồng nghĩa với “cao, xa” đó là: nắng ở trên trời, cỏ xanh kéo dài tới tận chân trời, tiếng ca ở lưng chừng núi. Còn “thấp” đông nghĩa với “gần” qua hình ảnh: đôi mái nhà tranh, giàn thiên lý, cây trúc. Như vậy mọi sự vận động trong miêu tả không gian ở thi phẩm Mùa xuân chín là sự vận động lên- xuống, vận động theo trục thẳng đứng. Chính sự phối hợp cao với xa, và đặc tính của cái “bên dưới”
III. Kết luận
15 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 3278 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Một số đặc điểm trong Mùa Xuân Chín của Hàn Mặc Tử, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MÙA XUÂN CHÍN
(Hàn Mặc Tử)
Trong làn nắng ửng: khói mơ tan
Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng
Sột soạt gió trêu tà áo biếc
Trên giàn thiên lý. Bóng xuân sang.
Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời
Bao cô thôn nữ hát trên đồi
Ngày mai trong đám xuân xanh ấy
Có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi…
Tiếng ca vắt vẻo lưng chừng núi
Hổn hển như lời của nước mây…
Thầm thì với ai ngồi dưới trúc
Nghe ra ý vị và thơ ngây…
Khách xa gặp lúc mùa xuân chín
Lòng trí bâng khuâng sực nhớ làng
Chị ấy năm nay còn gánh thóc
Dọc bờ sông trắng nắng chang chang?
(Gái quê)
I.Mở bài
Không chối bỏ “xuân”, không “chắn nẻo xuân sang” để rồi mong nhớ “một cánh chin thu lạc cuối ngàn” như Chế Lan Viên của thời “Điêu tàn”, Hàn Mặc Tử luôn tạo ra những màu xuân như ý tưởng tượng của mình, bằng ý muốn chủ quan của mình. Thi phẩm Mùa xuân chín phải chăng cũng là mùa xuân ẩn dụ của nhà thơ?
Bài thơ mở ra trong cái khoảnh khắc của trời đất, của lòng người bừng nở. Hiện lên trang thơ là bức tranh xuân tràn đầy sức sống và thật thơ mộng. Dường như mỗi con chữ đều có sức gợi tả, gợi sự liên tưởng của một mùa xuân của đời sống thực mà ta đã gặp đã yêu.
II. Nghệ thuật trong Mùa xuân chín
1. Không gian
Mở đầu Mùa xuân chín là cả một không gian đầy ý vị của mùa xuân. Không gian trong Mùa xuân chín thật trong sáng và đầy thơ mộng. Với tài của người nghệ sĩ Hàn Mặc Tử đã tạo ra một không gian thực mà cũng rất ảo, nhiều chiều, vô hạn. Không gian trong Mùa xuân chín được miêu tả từ “cao- thấp”, “gần- xa”. Đang từ một điểm nhìn lên cao để cảm nhận thấy “làn nắng ửng” trong “khói mơ tan” thì điểm nhìn lại được hạ xuông thấp với hình ảnh “đôi mái nhà tranh”. Từ cái nhìn xa trải rộng “tới trời” không gian được thu lại gần “trên đồi”, từ không gian cao vời “lưng chừng núi” hạ thấp xuống chỉ còn là không gian dưới một khóm trúc. Từ “cao- thấp”, “gần- xa” Hàn Mặc Tử muốn tạo ấn tượng về một không gian mở, trải dài, và trong không gian đó tác giả muốn nhấn mạnh các yếu tố cấu tạo nên bức tranh mùa xuân: nắng ửng, mái nhà tranh, giàn thiên lý, cỏ xanh…Mô hình chung về không gian trong Mùa xuân chín là mô hình cấu tạo “bên trên- bên dưới”. “Trên” đồng nghĩa với “cao, xa” đó là: nắng ở trên trời, cỏ xanh kéo dài tới tận chân trời, tiếng ca ở lưng chừng núi. Còn “thấp” đông nghĩa với “gần” qua hình ảnh: đôi mái nhà tranh, giàn thiên lý, cây trúc. Như vậy mọi sự vận động trong miêu tả không gian ở thi phẩm Mùa xuân chín là sự vận động lên- xuống, vận động theo trục thẳng đứng. Chính sự phối hợp cao với xa, và đặc tính của cái “bên dưới”
đã tạo ra một khuynh hướng không gian rộng mở trong Mùa xuân chín, càng lên cao thì không gian càng nới rộng hơn. Một bức tranh mùa xuân được trải dài trước mắt bạn đọc. Có sự hài hòa trong không gian xuân Hàn Mặc Tử. Như vậy trục cơ bản “trên dưới” được thi sĩ họ Hàn khai thac tối đa:
Trên - Dưới
nắng ửng trên trời mái nhà tranh dưới mặt đất
gió trên cao giàn thiên lý dưới thấp
lưng chừng núi ngồi dưới trúc
Một không gian vừa gần gũi vừa mới lạ. Thế giới sinh hoạt hàng ngày hiện ra trong dáng vẻ của những hình ảnh, những chi tiết gần gũi, quen thuộc.
Bên cạnh khái niệm “trên- dưới” thì đối lập “đóng kín- rộng mở” cũng là dấu hiệu có thực tạo nên cấu trúc không gian văn bản. Không gian đóng kín trong Mùa xuân chín được diễn giải qua hình ảnh: “ mái nhà tranh” và “ai ngồi dưới trúc”. Hình ảnh “mái nhà tranh” gợi cho người đọc một cảm giác thân thuộc, ấm áp, yên ổn. Còn hình ảnh “ai ngồi dưới trúc” có một cảm giác của một sự khép mình, náu mình. Không gian rộng mở được thể hiện qua hình ảnh: “Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời” và “Dọc bờ sông trắng nắng chang chang”. Một không gian xanh non trải dài, và một màu nắng vàng chói chang.
Với cách kết hợp miêu tả không gian từ xa tới gần, từ cao xuống thấp, không gian khép kín rồi lại rộng mở Hàn Mặc Tử đã vẽ nên một thế giới mùa thu riêng biệt cho Mùa xuân chín.
2. Thời gian
Nếu không gian trong Mùa xuân chín là sự kết hợp cả thông nhất và đối lập, thì thời gian trong Mùa xuân chín cũng là sự thống nhất và đối lập như vậy. Thi sĩ đang say đắm trong thời khắc hiện tại với cảnh phô bày trước mắt và bao cô thôn nữ đang khao khát xuân tình đầy ý vị, thoắt cái đã sang một tương lai vô vị “Ngày mai trong đám xuân xanh ấy/ Có kẻ theo chông bỏ cuộc chơi”. Đương còn lắng nghe những lời thì thầm gần thế, đã sực nhớ đến một ảnh hình trong quá khứ xa thế “Lòng khí bâng khuâng sực nhớ làng/ Chị ấy năm nay còn gánh thóc/ Dọc bờ sông trắng nắng chang chang”. Nét độc đáo trong bài thơ chính là ý thức về thời gian của thi sĩ họ Hàn. Có vẻ như không có gì khác lắm với Nắng mới của Lưu Trọng Lư ở sự sống dậy của thời gian quá khứ. Nhưng không phải! Sự riêng biệt của Mùa xuân chín bắt đầu và không kết thúc bởi sự hiện diện của “khách xa”. Bài thơ do vậy không có cái trong trẻo của Nắng mới mà lại chất ngất những bùi ngùi chỉ có ở những tâm hồn dày dạn cùng gió bụi. Cái kinh nghiệm ấy đã cho nhà thơ khả năng tiên đoán cả về tương lai:
Ngày mai trong đam xuân xanh ấy
Có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi
Sẽ thiếu sót nếu ta không nói thêm sự liên tưởng, sự mở rộng nhiều chiều của thời gian đồng hiện trong Mùa xuân chín. Đang miêu tả bức tranh tươi sáng như một nét cười, một nụ hôn đăm say thuần khiết thì đột ngột cái man mác rình rập ở đâu đó hiện về trong ý nghĩa đau đớn của nhà thơ về sự chia lìa: “Ngày mai trong đám xuân xanh ấy/ Có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi”. Cái mầm li biệt hiện lên như một tiền định. Cái nỗi niềm đứt ruột này nói hộ một tình yêu, một thứ tình yêu đắm đuối không cùng với cuộc đời mà con người trước dòng chảy của thời gian đã không sao giữ lại nổi. Và cũng từ hiện tại nhà thơ đã nhìn lại quá khứ để nhớ lại hình ảnh:
Chị ấy năm nay còn gánh thóc
Dọc bờ sông trắng nắng chang chang?
Ở đây thời gian đã bị “đứt gãy”, “gấp khúc” và dường như nó còn chứa đựng cả tâm trạng nhà thơ. Tài hoa và bạc mệnh là một nghịch lí của biết bao tài tử giai nhân và ở Hàn Mặc Tử điều này thật quá nghiệt ngã đau khổ. Ám ảnh về sự gấp khúc quanh co và “đứt gẫy” trở thành môtip thời gian nghệ thuật trong thơ ông. Đó là những đổi thay bất ngờ, đột ngột. Giữa khung cảnh mùa xuân tươi non rạng rỡ niềm vui, các cô thôn nữ đang say sưa tiếng hát của lễ hội mùa xuân thì đột nhiên nhà thơ liên tưởng đến mặc cảm chia li:
Ngày mai trong đám xuân xanh ấy
Có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi
Đây chính là thời gian đồng hiện, xen lẫn thời gian hiện tại, quá khứ và tương lai theo các trang thái tâm trạng và mắc cảm chia lìa, “đứt gẫy”, một thứ thời gian “gấp khúc” nội tâm của thi nhân. Nó gợi lên sự đột ngột, gấp khúc, đứt gẫy trong cảm giác về thời gian ngắn ngủi của đời người.
Ẩn dụ “xuân xanh” xuất hiện, chỉ người con gái đương thì ham sống và vô tư sống. Nhưng nếu xuân của trời đất là vĩnh viễn, cón xuân đời chỉ là giây phút thoáng qua khiến cho ai cũng chạy lòng. Những nàng thôn nữ kia càng vui tươi,vô tư bao nhiêu trong ngày xuân chín càng khiến chủ thể trữ tình và người đọc chạy lòng bấy nhiêu. Câu thơ không có chung một ấn tượng như câu thơ của Xuân Diệu: “Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua- Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già- Và xuân chết nghĩ là tôi cũng hết…”, song niềm tư lự kia ở Hàn Mặc Tử còn ám ảnh dài lâu hơn những lo âu cuống quýt của hoàng tử thơ tình Xuân Diệu.
Mùa xuân chín mở đầu bằng thời gian của buổi bình minh khi cái ánh “nắng ửng” của mặt trời dần xua tan đi những làn “khói mơ tan”, và kết thúc cũng bằng hình ảnh của nắng nhưng không phải là “nắng ửng” của buổi bình minh mà là cái nắng “chang chang” của buổi trưa. Bước đi của thời gian trong Mùa xuân chín thật độc đáo và cũng rất gợi tình.
3. Ngôn ngữ
Không chỉ có không gian, thời gian trong sáng mang trong Mùa xuân chín Hàn Mặc Tử cũng đã sử dụng ngôn ngữ tuy giản dị nhưng cũng rất sáng trong, gợi cảm. “ Thơ là một cách tổ chức ngôn ngữ hết sức quái đản để bắt người tiếp nhận phải nhớ, phải cảm xúc, phải suy nghĩ do chính hình thức tổ chức ngôn ngữ này” [36,1]. Và thi sĩ Hàn Mặc Tử đã làm được điều này.Ngay tiêu đề bài thơ đã cho ta thấy cách sử dụng từ ngữ độc đáo của tác giả. Tiêu đề “Mùa xuân chín” buộc ta phải nghĩ gợi để tìm ra một cách hiểu. “Mùa xuân” tại sao lại “chín”! Phải chăng mùa xuân là trái trên cây, là quả trên cành. “Chín”- là trạng thái mời mọc của sự vật, là đương thì, là sung sức…Mùa xuân chín là mùa xuân ở vào thời điểm đẹp nhất, xuân nhất, non tơ nhất, phơi phới nhất. Và với chỉ từ “chín” này cũng đã phần nào gợi lên liên tưởng cho người đọc một mùa xuân với đầy đủ sức hấp dẫn của nó.
Ngôn ngữ vốn là phương tiện để giao tiếp nhưng qua sự sắp xếp , kết hợp của nhà thơ ngôn ngữ lại góp phần tạo nên những bức tranh hiện thực. Hàn Mặc Tử đã sử dụng ngôn ngữ với tư cách là chất liệu của một thứ nghệ thuật đã viết nên câu thơ giàu chất tạo hình. Lúc này ý nghĩa trực tiếp của ngôn ngữ đã bị đẩy lùi, mọi chú ý của chúng ta sẽ được tập trung vào cái ý nghĩa nó thay thế trong tương quan ngôn ngữ thơ.
Một điều dễ nhận thấy trong Mùa xuân chín là nghệ thuật điệp. Nghệ thuật điệp xuất hiện với tần suất cao với nhiều hình thức điệp. Có thể nói Hàn Mặc Tử đã sử dụng khá thành công nghệ thuật này trong thi phẩm.
Trước hết là nghệ thuật điệp nguyên âm. Các nguyên âm được xuất hiện và lặp lại ở các thời điểm gần nhau trong cùng một chiết đoạn:
Trong làn nắng ửng khói mơ tan
Tiếng ca vắt vẻo lưng chừng núi
Lòng trí buâng khuâng sực nhớ làng
Dọc bờ sông trắng nắng chang chang
Và Hàn Mặc Tử cũng đã sử dụng tối đa các từ láy âm.Các từ láy âm thường cho ấn tượng nhòe, vang và hạn chế, tạo ra những ấn tượng âm thanh bao giờ cũng khó xác định hơn những ấn tượng về nghĩa. Các từ láy âm: lấm tấm, sột soạt, vắt vẻo, hổn hển, thầm thì, buâng khuâng, chang chang… Tần suất láy âm cao, càng về khổ cuối số từ láy âm xuất hiện nhiều hơn đã góp phần làm cho nền bài thơ nhòe đi. Phải chăng cái đẹp của Mùa xuân chín tùy thuộc rất nhiều vào tần số xuất hiện của các từ láy âm này?
Đọc Mùa xuân chín ta không chỉ cảm thấy cảnh xuân, sắc xuân mà dường như ở trong đó còn có cả âm thanh, nhạc điệu của mùa xuân. Vậy nhờ đâu mà ta cảm nhận thấy âm thanh ấy? “Tính nhạc ở trong thơ là do nguyên âm, phụ âm đem lại”.[138,1]. Các phụ âm vang trong Tiếng việt bao gồm: m, n, nh, ng. Các câu thơ trong Mùa xuân chín sở dĩ “đầy nhạc” như ta cảm nhận thấy là vì có sự tập trung dày đặc các nguyên âm mở và các phụ âm vang:
Trong là nắng ửng khói mơ tan
Đôi mái nhà trang lấm tấm vàng
…
Ngày mai trong đám xuân xanh ấy
….
Lòng trí buâng khâng sực nhớ làng
…
Dọc bờ sông trắng nắng chang chang
Chính tính âm nhạc này đã là một phần quan trọng trong việc tác thành giá trị và nghệ thuật của thi sĩ họ Hàn. Âm điệu kết hợp với thể thơ 7 chữ trong Mùa xuân chín đã giúp đem lại kết quả lưu trữ, truyền đạt cho thi phẩm, đem lại sức sống trường tồn cho thi phẩm. “Nếu nhịp điệu vĩnh viễn trường tồn thì làm sao thơ ca bị tiêu diệt được” [152,1].
4. Giọng điệu
Hàn Mặc Tử không chỉ là nhà thơ của lối thơ “điên loạn”, bí hiểm với những “kỳ” những “siêu” những “ảo” mà ta còn thấy một Hàn Mặc Tử rất trong sáng, đầy ý vị. Trong Mùa xuân chín mang giọng điệu trong sáng. Sự trong sáng ấy là do Hàn Mặc Tử đã “tổng hợp vào mình những truyền thống văn học xưa và nay, dân gian và hiện đại” [181,8]. Giọng điệu trong sáng trong Mùa xuân chín như một trận gió mát thổi qua thế giới nghệ thuật thơ Hàn Mặc Tử. Giọng điệu trong sáng ấy là âm điệu của ca dao xứ Huế và miền Trung, giọng dân gian mộc mạc, trong sáng hồn nhiên tạo nên âm hưởng khúc nhạc dân gian trong sáng, vui tươi. Do vậy bài thơ có tiếng vang, như âm sắc người nghe như thả hồn trôi theo dòng nhạc trong sáng, láy đi láy lại mà cảm nhận ý tứ ý thơ.
5. Cái tôi trữ tình
Nếu như ta đã từng biết đến một hồn thơ Hàn Mặc Tử lạ mà rất quen, nếu như “cái Tôi trữ tình Hàn Mặc Tử phân li kinh dị thành hồn, xác, trăng, máu…vỡ tung ra thành muôn mảnh rồi châu tuần hợp lưu lại, đó là sự lạ” [151,8] thì việc cái Tôi trữ tình ấy hóa thân hiền hòa vào thiên nhiên lại làm người ta ngạc nhiên. Đây là sự hài hòa giữa hai cực cao siêu và phổ quát trong thơ Hàn Mặc Tử. Vũ trụ thiên nhiên với gió, mây, nước, sông, hoa cỏ…hiện ra thân thuộc, trong trẻo, sáng đẹp một cách huyền thoại:
Trong làn nắng ửng: khói mơ tan
Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng
Sột soạt gió trêu tà áo biếc
Trên giàn thiên lý. Bóng xuân sang.
Từ một không gian non tơ: sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời, cảnh nước mây, sông trắng, nắng vàng…tất cả đều được tắm gội trong luồng không khí trinh bạch nguyên sơ của thiên nhiên, chưa hề nhuốm một chút bụi trần. Cái Tôi trữ tình của Hàn Mặc Tử giao hòa thân thiết với thiên nhiên cuộc sống biết bao!
Chủ thể trữ tình trong thơ Hàn Mặc Tử thường khó xách định, dù nhà thơ có viết là “Tôi” (Người đi một nửa hồn tôi mất- Một nửa hồn tôi hóa dại khờ), là “Anh” (Ngàn lau không tiếng nói- Lòng anh dường đê mê), là “Ta”…và ở đây là “khách xa”. Có lẽ niềm trắc ẩn của nhân vật trữ tình- khách xa- bắt đầu bằng tiếng hát của những nàng thôn nữ đang ở độ tuổi xuân sắc trên đồi xuân chín. Tiếng hát đã gợi suy nghĩ về con người, về cuộc đời trong cái “hữu- vô” để rồi nhà thơ bất ngờ đưa ra một tuyên đoán ngậm ngùi:
Ngày mai trong đám xuân xanh ấy
Có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi
Cái “ngày mai” đã thành quy luật bởi “Xuân đang tới nghĩa là xuân đang qua- Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già” thế mà “khách xa” lại bỗng dưng buồn. Và với một niềm trắc ẩn mà tiếng ca xuân được cảm nhận như mang đầy tâm trạng:
Tiếng ca vắt vẻo lưng chừng núi
Hổn hển như lời của nước mây…
Thầm thì với ai ngồi dưới trúc
Nghe ra ý vị và thơ ngây…
Vậy “nghe ra” nhiều điều “ý vị và thơ ngây” từ tiếng ca vắt vẻo, hổn hển, thầm thì…là nghe ra những suy tư, ngậm ngùi…Nghĩ đến người mà nhớ đến mình ư? Có thể lắm chứ! Hơn nữa nhân vật trữ tình là “khách xa” sao khỏi chạy lòng. Lời thơ đến đây thành thực, thiết tha, nặng trĩu nỗi ưu tư:
Khách xa gặp lúc mùa xuân chín
Lòng trí bâng khuâng sực nhớ làng
Dường như “ý nghĩa khuất khuất” của bài thơ ẩn khuất trong tâm trạng “bâng khuâng”, trong nỗi nhớ xa quê mang nặng một mối tình. Sự gặp gỡ của cảnh và tình cộng hưởng làm vỡ òa xúc cảm mà bật thành lời:
Chị ấy năm nay còn gánh thóc
Dọc bờ sông trắng nắng chang chang?
“Chị ấy” là ai mà đến ngay khi “sự nhớ nhà”. Người xưa ấy ắt hẳn phải để lại trong lòng nhà thơ những ấn tượng sâu đậm lắm nên bài thơ mới khép lại bằng đôi câu thơ đẹp lạ lùng, đọc lên như rưới vào hồn một nguồn sáng láng. Từ cảm giác về một bờ sông cát trắng, ngập nắng chang chang ta cảm nhận được nỗi vất vả, nhọc nhằn mà sáng trong của “chị ấy”. Có nhiều người đã dặt ra câu hỏi “chị ấy là ai?”. Câu hỏi này cũng thật khó trả lời cho rõ ràng. Có thể “chị ấy” là một người con gái mới lớn thủa nào, cũng có thể chị ấy là một thiếu phụ nhà quê. Dù là ai “chị ấy” rõ ràng là một con người xách định với chủ thể trữ tình, là một người không phiếm chỉ thân thương.
6. Màu sắc
Mùa xuân chín còn hấp dẫn ở màu sắc, cách phối hợp màu của thi sĩ Hàn Mặc Tử. Nét vẽ thứ nhất cái đặt bút đầu tiên trên cái nền “khói mơ tan” và phơn phớt màu “nắng ửng” nghĩa là rất mơ hồ ấy là “Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng”. Đó là gam màu đệm vẫn rất gần cái sắc màu hư ảo ở trên để trở thành một tổng thể nhạt nhòa chưa định hình rõ nét. Màu vàng ở đây là của rơm rạ, ruộng đồng mà biết đâu không phải là mấy vùng trăng còn sót lại do bầu trời ngẩn ngơ cố tình lưu giữ? Cái thực và cái ảo cứ xen kẽ, xâm nhập, đan cài vào nhau mông lung, mơ màng để tự nó sẽ thức dậy theo con sóng thời gian chập chờn ở phía sau xô đẩy. Sự đặc tả khối hình có ý nghĩa chiến lược ấy là khi nhà họa sĩ tài hoa và mộng mơ quyết định chấm vào đó một nét rờn xanh. Cái đốm xanh nõn nà, mềm mượt vừa hiện ra đã cựa quậy: “Sột soạt gió trêu tà áo biếc”. Đó là tín hiệu mùa xuân, cái chồi búp ngọt ngào hiện ra trên cái tàn đông lạnh giá. Chiếc áo mùa xuân đẹp thế đang muốn lẩn tránh đi vì nó quá rực rỡ qua nổi bật, còn cô gái xuân lại dịu dàng, e thẹn biết bao. Song càng e lệ giấu mình thì cơn gió thóc mách kia lại càng vô tâm biết mấy. Nó dồn lại, túm lại trước “tà áo biếc” để trêu trọc, phơi bày. Phải chăng cái “nắng ửng ” trên kia đã dự báo cho cái phút ngỡ ngàng này, sẽ là cái màu thẹn, cái màu làm duyên trên đôi má hông của nàng xuân? Cửa xuân vốn khép kín trong mấy tháng lạnh lẽo, hóe hon vì chờ đợi đã mở ra “Trên giàn thiên lý. Bóng xuân sang”. Trên bức tranh lụa, cái bút lông của người nghệ sĩ đã có đà, nó đã có hồn và bắt đầu cất cánh.
Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời
Bao cô thôn nữ hát trên đồi
Màu xanh bằng cái nét chấm phá ở trên tưởng chừng đã đủ. Nhưng mà không! Chưa ai bạo tay như Hàn Mặc Tử , dường như để phá vỡ tất cả, nếu cần- cả sự cân đối thăng bằng, độ đậm nhạt vì sự thôi thúc nội tâm ông vẫn sẵn sàng. Vì vậy mà một màu xanh khác lại xuất hiện, đột ngột và bướng bỉnh. Và lần này không phải một đốm, một nét mà lại là cả một mặt bằng mênh mông của cỏ. Ngồn ngộn một màu xanh thèm khát mà con người chỉ dám mơ ước đã tươi rói hiện ra hào phóng, vô tư, vẫy gọi, chào mời… “Sóng cỏ” gợi một hình ảnh bay lượn hơn, sống động hơn, nó đang vỗ bờ nhịp từng bồi hồi từ một trái tim mênh mông đa tình, đa cảm.
7. Tứ thơ
Nếu cảm xúc trong các bài thơ của nhà “thi sĩ chân quê” Nguyễn Bính dựa nhiều vào “cốt” khiến thơ ít nhiều mang tính tự sự, kể lể, thì ở chàng “thi sĩ ái tình” Xuân Diệu cảm súc dâng trào trên bề mặt lại dựa hẳn vào một cái “tứ” khá chặt chẽ nào đó dưới bề sâu. Trong khi ấy, mạch thơ của chàng “thi sĩ Thơ điên” Hàn Mặc Tử lại trôi chảy theo một dòng tâm tư hoàn toàn bất định khước từ sự dẫn dắt của lôgic lí trí. Tác phẩm của Hàn Mặc Tử rất khác: đã “phi tự sự” lại còn “phi lôgic”. Tất cả đều có vẻ thiếu mạch lạc. Về thực chất, đó là kiểu liên kết siêu lôgic rất đặc trưng của Thơ điên. Toàn bài là một dòng tâm tư đầy những bất chợt cứ trôi chảy với hai biểu hiện trái chiều: mạch phía trên thì theo liên tưởng tán lạc, mạch tâm tư bên dưới thì theo cảm xúc nhất quán- nhưng là sự nhất quán đầy ẩn khúc chứ không hề giản đơn. Và trong Mùa xuân chín có một câu thơ dường như muốn tiết lộ cho chúng ta về khía cạnh ấy của thơ Hàn Mặc Tử:
Lòng trí bâng khuâng sực nhớ làng
“Sực nhớ” tức là những khoảnh khắc bất chợt, bất thần, vụt hiện, ngẫu nhiên. Dòng tâm tư bất định trong thơ Hàn Mặc Tử chính là một chuỗi những “sực nhớ” như thế. Các hình ảnh trôi trên bề mặt của dòng tâm tư là những ấn tượng, những kỉ niệm vụt hiện nhưng tất cả những hình ảnh bất chợt, đầy ngẫu nhiên ấy lại đan bện vào cùng một nỗi niềm đang miên man chuyển hóa, vần vụ. Như vậy, “phi lôgic” về bề mặt song lại lôgic ở bề sâu chính là bản tướng của cái hình thái được gọi bằng “siêu lôgic” của Hàn Mặc Tử.
8. Cảm xúc
Trong Mùa xuân chín mạch cảm xúc không được triển khai theo kiểu cứ tăng tiến mãi một chiều mà vận động theo lối đứt gãy rồi chuyển điệu đột ngột tựa như bất ngờ chuyển kênh. Bài thơ có 4 khổ thì ba khổ thơ đầu nghiêng về diễn tả vẻ rạo rực xuân tình trong cảnh vật và trong lòng người. Thế rồi trạng thái rạo rực đang dồn đẩy tới thoắt chuyển thành trạng thái bâng khuâng. Mùa xuân chín mạch cảm xúc vì thế có tới hai cao trào: Rạo rực thì đến mức “hổn hển”- “Hổn hển như lời của nước mây”, còn bâng khuâng thì đến thành xa vắng- “Lòng trí bâng khuâng sực nhớ làng”. Mới vừa “rạo rực” thoắt đã “bâng khuâng”, vừa ngây ngất yêu đời đã da diết thương đời. Đó chính là mạch chuyển lưu cảm xúc trong Mùa xuân chín và cũng là lối liên kết độc đáo của Mùa xuân chín nói riêng và Thơ điên Hàn Mặc Tử nói chung.
III. Kết luận
Mùa xuân chín là một thi phẩm đặc sắc về mùa xuân và tình xuân. Tình xuân không chỉ chín trong cảnh vật mà còn chín trong con người. Thành công của thi phẩm chính là nhờ sự sáng tạo và sự vận dụng nghệ thuật rất linh hoạt và uyển chuyển của tác giả. Bài thơ hay và giản dị đến tận cùng, với những không gian thời gian, ngôn ngữ, màu sắc đầy ấn tượng. Bài thơ đã cho ta thấy cái tài của Hàn Mặc Tử là nói được một cách giản dị những điều ai cũng cảm thấy nhưng không thể diễn tả được đó chính là vẻ đẹp của một Mùa xuân chín.
Tài liệu tham khảo
Nguyễn Phan Cảnh, Ngôn ngữ thơ, NXB Văn hóa thông tin, 2000
Hoài Thanh, Hoài Chân, Thi Nhân Việt Nam, NXB Văn hóa, 2000
Jean Cohen, Thơ và nghiên cứu thơ, Văn học nước ngoài số 4- 1998, Đỗ Lai Thúy dịch
Yu. Lotman, Cơ cấu của văn bản nghệ thuật ngôn từ, Văn học nước ngoài số 1- 2000 Trịnh Bá Dĩnh dịch
Đào Duy Hiệp, Ngôn ngữ và nhà thơ, văn nghệ số 34
Lữ Huy Nguyên, Hàn Mặc Tử thơ và đời, NXB Văn học, 2003
Mã Giang Lân, Thơ Hàn Mặc Tử những lời bình, NXB Văn hóa thông tin 2000
Nguyễn Toàn Thắng, Hàn Mặc Tử và nhóm thơ Bình Định những năm 1932- 1935, Luận án tiến sĩ, 2003
IU.M Lotman, Cấu trúc văn bản nghệ thuật, NXB ĐHQG, 2004
Mục Lục
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- VHDOCS 44.doc