Việc hình thành TTCK ở Việt Nam là một xu hướng khách quan. Vì vậy nó tuy có những khó khăn song cũng có rất nhiều thuận lợi, như:
- Chúng ta xây dựng TTCK trong khi TTCK đã khá phổ biến trên thế giới do vậy chúng ta đã được thừa hưởng những kinh nghiệm thành công cũng như thất bại của các nước khác để có thể rút ra những bài học kinh nghiệm cho mình.
- Chúng lại có được sự quan tâm rất lớn của Đảng, Chính phủ và các ban ngành hữu quan.
- Chúng ta còn có thể tự hào về sự tiến bộ vượt bậc về kinh tế sau hơn mười năm đổi mới và nó sẽ giúp chúng ta tự tin hơn trong những bước đường sắp tới.
- Và chúng ta lại càng tin tưởng hơn trong một tương lai không xa TTCK sẽ phát triển rất mạnh ở Việt Nam. Vì hiện nay chúng ta đã bước đầu hình thành thị trường giao dịch chứng khoán ở TP. HCM và không lâu nữa sẽ là Hà Nội.
- Chúng ta cũng tin tưởng và vững vàng hơn khi cuộc khủng hoảng tài chính, kinh tế thế giới đang được khắc phục và có thể không lâu nữa nó sẽ trở lại hoạt động bình thường (vì một bước thụt lùi sẽ là cơ sở vững chắc hơn cho hai bước tiến tiếp theo).
Qua những điều phân tích và đánh giá ở trên, chúng ta tin tưởng chắc chắn trong một tương lai không xa tất cả chúng ta sẽ được hưởng những lợi ích và thuận lợi do TTCK mang lại.
35 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1417 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Những cái nhìn đầu tiên về Thị trường chứng khoán, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ẽ chúng ta vừa chân ướt chân dáo tiến hành chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế - từ tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường - Vì vậy, với những khái niệm của thị trường mở gần như còn tương đối xa lạ đối với chúng ta. Còn đối với một số nước trong khu vực cũng như trên thế giới những khái niệm và mô hình về Thị trường chứng khoán đã trở thành quen thuộc và thâm nhập vào đời sống kinh tế xã hội một cách khá vững chắc. Vậy, đối với khái niệm Thị trường chứng khoán đã có từ bao giờ ?
Đứng trên phương diện lịch sử kinh tế, có tác giả nhận xét rằng TTCK có từ hồi quả đất tròn, và đã được phát triển vào thời Hy lạp, hay thời La Mã, khi Hoàng đế Cesar trao độc quyền thu tiền tiết kiệm của dân cho một nhóm người dùng tiền đó để đầu tư, xây cất đường xá cho thành phố này. TTCK, tiếng Pháp là "bourse", tiếng Anh là "stock exchange". Chữ "bourse" do tên của một thương gia sống ở thành phố BRUGES, nước Bỉ. Giữa thế kỷ 18, TTCK được phát triển mạnh mẽ, khi cách mạng công nghiệp diễn ra ở Châu Âu, các nước dùng TTCK để cung cấp tài chính cho những phát minh về tàu hoả, mỏ than... Đồng thời, luật lệ về công ty vô danh được bổ sung.
Ta có thể nhận xét rằng: TTCK là một guồng máy của nền kinh tế thị trường, TTCK chỉ có trong các nước có thị trường, nó tượng trưng cho sức mạnh tài chính của một quốc gia, có đủ khả năng để thu hút tiết kiệm trong hay ngoài nước vào nhu cầu tài chính của bộ máy sản xuất. Cũng vì lý do đó, người ta nhận thấy rằng trong vài năm qua, các nước muốn chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá qua kinh tế thị trường, một trong những bước đầu họ nghĩ đến là thành lập một Thị trường chứng khoán : Các nước Đông Âu mới lập lại TTCK cách đây vài năm, như ở Budapest, Praha, Varsovie, hay Mát-scơ-va... ở Châu á, Trung Quốc cũng mới mở TTCK từ năm 1990 ở Thượng Hải và Schenzchen. Trong khi đó, những nước phát triển đang phải chung sức tìm giải pháp đối phó với hai hiện tượng chính, quốc tế hoá và điện tử hoá các dịch vụ buôn bán trên TTCK.
Còn đối với Việt Nam trong vài năm trở lại đây, những thông tin về TTCK cũng đã đang được quan tâm và thu hút sự chú ý không chỉ của riêng Chính phủ mà còn có sự quan tâm rất lớn của đông đảo công chúng mà nhất là giới kinh doanh. Và từ năm1998, khi Chính phủ quyết định thành lập một hội đồng gồm các chuyên gia kinh tế học nổi tiếng để chuẩn bị cho việc mở ra một TTCK ở Việt Nam mà trước hết là ở Thành phố HCM và sau đó là Hà Nội.
Nhưng để hiểu sâu hơn về TTCK chúng ta cần tìm hiểu về định nghĩa TTCK thì mới có thể có được cái nhìn sâu sắc hơn về TTCK .
2. Định nghĩa về TTCK.(sơ đồ 1)
Thị trường chứng khoán là nơi những người chuyên nghiệp trao đổi những chứng khoán động sản. Đơn vị có khả năng tài chính là những người có tiền tiết kiệm, mua chứng khoán. Đơn vị có nhu cầu tài chính là các tập thể phát hành và bán chứng khoán. Để cung gặp cầu, người mua và người bán phải thoả thuận với nhau một giá, gọi là giá chứng khoán.
Việc chuyển từ tiền tiết kiệm sang chứng khoán còn được gọi là "luồng tài chính", có nghĩa là tiền được chuyển từ tay người có tiền đến tay người cần tiền.
Sự chuyển từ chứng khoán đến tiết kiệm được gọi là "luồng vật chất", gọi như thế vì trước thời điện tử, người trao tiền nhận được một giấy chứng minh quyền sở hữu của họ đối với động sản đó. Ngày nay, ở những TTCK quan trọng trên thế giới, những giấy minh đều được điện tử hoá, việc này gọi là "phi vật chất hoá các chứng thư". Do đó, một tư nhân sống ở Châu Âu có thể ra lệnh mua chứng thư trên TTCK Nữu Ước hay bán trên TTCK Tokio một cách nhanh chóng qua tài khoản chứng thư.
Trong thời đại điện tử ngày nay, TTCK có thể là một địa điểm trong thành phố nhưng phần lớn những lệnh mua và bán đều được thành toán qua điện thoại và máy điện tử.
Thị trường chứng khoán: định nghĩa
Cung Cầu
Đơn vị có Đơn vị có
nhu cầu chứng khoán khả năng
tài chính tài chính
Vốn
Thị trường chứng khoán
- Nơi trao đổi chứng khoán
- Cung gặp Cầu - Giá
Sơ đồ (1) về TTCK
3. Định nghĩa về Chứng khoán.
Chứng khoán, cón được gọi là chứng thư là một giá trị động sản biểu hiện quyền của các hội viên hay của những người cho vay dài hạn.
Chứng khoán có đặc tính là có thể chuyển nhượng trên TTCK, nghĩa là người có chứng khoán có quyền bán lại cho người có tiền muốn mua.
Có hai loại giá trị động sản chính:
- Cổ phiếu, còn được gọi là giá trị động sản có lợi tức biến đổi.
- Trái phiếu, còn được gọi là giá trị động sản có lợi tức cố định.
a. Cổ phiếu
Cổ phiếu do các nhà doanh nghiệp, công ty liên doanh... phát hành. Người mua gọi là cổ đông hợp thành đại hội cổ đông, để góp vốn thành "vốn điều lệ" của doanh nghiệp, được ghi trong bảng tổng kết tài sản. Vốn này trao cho doanh nghiệp một cách vĩnh viễn, không phải trả lại cho cổ đông. Mỗi năm một lần, lợi nhuận do doanh nghiệp tạo ra được hội đồng cổ đông quyết định chia thành lãi cổ phần (cổ tức), số tiền này thay đổi mỗi năm tuỳ theo lời lỗ của doanh nghiệp. Trên nguyên tắc luật pháp, người có cổ phiếu là chủ sỏ hữu một phần của doanh nghiệp, vì thế họ có quyền tham gia vào quản lý doanh nghiệp, nhưng trên thực tế thì quyền này được trao cho Hội đồng cổ đông quản trị.
b. Trái phiếu.
Trái phiếu do doanh nghiệp, công ty tài chính, liên doanh, thành phố, nhà nước... phát hành. Mua trái phiếu có nghĩa là cho cơ quan phát hành trái phiếu vay. Người có trái phiếu là chủ nợ, họ chấp nhận cho mượn tiền, nói cách khác, họ cho vay dài hạn với điều kiện không chịu rủi ro kinh doanh, không chịu mất vốn họ cho doanh nghiệp sử dụng. Đó là nguyên tắc, còn trong thực tế, họ có thể mất vốn tuỳ theo giá của trái phiếu trên thị trường. Dù sao, sử rủi ro của trái phiếu cũng ít hơn sự rủi ro của cổ phiếu. Vì thế trong kế toán, trên bảng tổng kết tài sản hàng năm, số tiền đó được ghi trong mục nợ dài hạn và trung hạn. Cũng vì lý do đó, trên nguyên tắc, mỗi năm, trái phiếu mang lại cho người có trái phiếu một lãi xuất cố định, doanh nghiệp lời lỗ ra sao cũng phải trả số tiền lãi này. Vì người có trái phiếu không có quyền sở hữu nên không có quyền tham gia vào quản lý của doanh nghiệp như những người có cổ phiếu.
Ngày nay, vì cạnh tranh và vì nhu cầu của người có tiền và người cần tiền, sự phân biệt giữa cổ phiếu và trái phiếu không còn như trước. Vấn đề này, chúng tôi sẽ đề cập sau. Về tâm lý, ta có thể nói một cách tổng quát rằng người mua cổ phiếu và người mua trái phiếu, có hai cách nhìn khác nhau theo cách sử dụng tiền tiết kiệm của họ. Người có cổ phiếu thích rủi ro, chấp nhận mất vốn đến một mức nào đó và hy vọng nhận được nhiều tiền hơn. Người có trái phiếu cơ bản tính cẩn thận hơn, họ vừa mong muốn được tiền lời vừa muốn bảo trợ vốn của họ.
Chứng khoán
Giá trị động sản biểu hiện cho quyền của các thành viên hoặc các chủ nợ dài hạn.
Các chứng khoán có đặc tính là có thể chuyển nhượng trên một thị trường gọi là thị trường chứng khoán
Cổ phiếu Trái phiếu
Cơ quan phát hành Doanh nghiệp, Doanh nghiệp, DN DN tài chính tài chính, nhà nước
Tư cách người có CK Cổ đông=chủ sở Chủ nợ cho vay dài
hữu góp vốn, lây hạn không chịu rủi
rủi ro kinh doanh ro kinh doanh
Thu nhập Cổ tức biến đổi Lãi suất cố định
Quyền quản lý Cổ đông có quyền Chủ nợ không có
tham gia vào quản quyền tham gia vào
lý DN quản lý
Sơ đồ (2)
Chương II
chức năng của thị trường chứng khoán
I. TTCK và hệ thống tài chính
TTCK là một bộ phận của guồng máy tài chính, có chức năng chuyển tiền tiết kiệm tới nơi đầu tư.
Khi có khả năng tài chính, các đơn vị kinh tế( hộ gia định, doanh nghiệp...)có hai cách sử dụng tiền:
- Gửi trong một loạt tài sản tiết kiệm của quỹ tiết kiệm, ngân hàng: Tài khoản dài hạn, ngắn hạn, tài khoản báo trước... Số tiền này sẽ được ngân hàng chuyển thành tín dụng cho doanh nghiệp, hộ gia đình, kho bạc nhà nước.
- Dùng tiền để mua chứng khoán( các loại cổ phiếu và trái phiếu) trên TTCK. Họ có thể mua chứng khoán do các doanh nghiệp,nhà nước, hoặc các cơ quan địa phương... phát hành. Thị trường này được gọi là thị trường sơ cấp vì chỉ có thị trường này mới mang tiền mới đến những đơn vị có nhu cầu tài chính. Chúng ta nên chú ý: Tiền tiết kiệm chỉ đến các đơn vị có nhu cầu tài chính một lần, lúc chứng khoán được phát hành.
Những đơn vị có khả năng tài chính có thể sử dụng tiền bằng cách mua chứng khoán trên thị trường thứ cấp.Nghĩa thông thường của bốn chữ TTCK là thị trường này không có chứng khoán và những người có tiền cần mua chứng khoán. Đây chính là thị trường mà báo chí thông báo giá cả lên xuống hàng ngày. Vì thế người ta còn nói thì trường mua bán lại, sự mua bán này không mang lại tiền mới cho các đơn vị đã phát hành chứng khoán.
Mỗi nước sử dụng TTCK theo truyền thống của họ:ở Đức TTCK không đóng vai trò quan trọng nhờ sự liên lạc chặt chẽ giữa giới ngân hàng và giới kỹ nghệ, các ngân hàng thường có cổ phần trong 4 điều lệ của các xí nghiệp. ở Mỹ TTCK đóng vai trò rất quan trọng các xí nghiệp lớn dùng TTCK để có tài chính đầu tư hơn là dùng tín dụng.
II. Thị trường chứng khoán và tài chính của các doanh nghiệp
1. TTCK và tài chính của các doanh nghiệp có giá trị và không có giá trị trên TTCK
Khi một cá nhân muốn thành lập một doanh nghiệp để khai thác một sáng kiến, một phát minh, trên thị trường không ai biết tới họ, khi có được ngay lòng tin của giới ngân hàng, rủi ro nhiều...nên họ thường nhờ ở vốn riêng hay tiền dành dụm của họ hàng thân hữu.Ơ các nước phát triển mạnh, có những công ty tài chính chuyên môn về "vốn mạo hiểm"( capital-risque, venture- capital). Trong giai đoạn đầu, các doanh nghiệp mới thành lập có thể đến các công ty tài chính này đề nghị họ mua một phần cổ phiếu của minh.
Khi những doanh nghiệp gia đình này phát triển mạnh mẽ, doanh số tiền lợi tăng lên. Muốn tiếp tục phát triển, thì phải vượt qua trở ngại vốn lần nữa: Vốn riêng của doanh nghiệp tạo ra không đủ, hoặc người trong họ hàng chịu giúp họ lúc đầu muốn rút lui vì lý do riêng, gia tài cha mẹ để lại( trong đó có doanh nghiệp) anh em phải chia ra cho nhau, công ty chuyên môn "vốn rủi ro" muốn rút lui để lấy lại lời thặng dư(Plus-value, capital gain) đi đầu tư nơi khác... Để giải quyết vấn đề này, người quản trị doanh nghiệp có thể đến gặp những cơ quan do chính phủ mở ra để khuyến khích doanh nghiệp vừa và nhỏ. Để có tín nhiệm hơn trên TTCK, các cơ quan bán công cộng này họp lại thành từng ngành(ví dụ nghành điện...), từng vùng(bên Pháp có những công ty phát triển vùng:societé de développement régional), thành lập các quỹ doanh nghiệp nhỏ và trung bình..., rồi phát hành trái phiếu trên TTCK với sự bảo đảm của nhà nước. Vốn các cơ quan này thu vào sẽ cho các doanh nghiệp vay dưới hình thức tín dụng dài hạn hay trung hạn. ở giài đoạn này cũng có các công ty tài chính chuyên môn về "vốn phát triển"( capital-développement, developpment-capital) mua cổ phần.
Đó là những hình thức gián tiếp cho các doanh nghiệp nhỏ và trung bình tìm ra vốn để tiếp tục phát triển. Còn những doanh nghiệp lớn đã có tiếng tăm và tín nhiệm của TTCK như IBM, SONY,.... đều có thị giá(coté, listed) trên TTCK trong nước hay tại nước ngoài, nghĩa là chứng khoán họ phát triển trên TTCK có một giá được xác định theo sự thoả thuận giữa người mua và người bán.
2. Tài trợ các doanh nghiệp qua thị trường chứng khoán
Doanh nghiệp được tài trợ qua ba phương pháp đã đề cập đến phần đầu: Tự tài trợ- vay ngân hàng dài hạn hay trung hạn- tài trợ qua TTCK. Trong phần này, ta tìm hiểu thêm về cách tài trợ qua TTCK. Có hai phương pháp:
-Tăng vốn bằng cách gọi tiền mặt: Doanh nghiệp phát hành cổ phiếu mới, người đã có cổ phiếu của doanh nghiệp này có quyền ưu tiên mua. Quyền này được biểu hiện bằng một phiếu, gọi là phiếu ghi mua, nó là phần thưởng cho người đã chấp nhận rủi ro ban đầu. Cũng vì lý do trên, quyền ưu tiên ghi mua có một trị giá: người có quyền tiết kiệm, muốn mua cổ phiếu của doanh nghiệp này phải mua quyền ưu tiên của những người đã có cổ phiếu nhưng không muốn mua thêm vì họ không có tiền hay họ thấy chịu rủi ro với doanh nghiệp này như thế là đủ rồi.
- Vay dài hạn bằng cách phát hành trái phiếu. Trường hợp này, người ta đã có trái phiếu không có quyền ưu tiên.
3. Phát hành và trao đổi chứng khoán
Quá trình giao dịch được chia làm ba giai đoạn:
- Bước đầu, doanh nghiệp phát hành chứng khoán, nhận được tiền. Người xuất vốn nhận được chứng khoán.
- Bước hai, để có sự giao dịch trên TTCK, doanh nghiệp có trách nhiệm thông tin cho thị trường qua báo cáo hàng năm, hàng ngày, qua bảng tổng kết tài sản... để những người có cổ phiếu có thông tin để quyết định giữ hay bán cổ phiếu.
Bước ba, sau đại hội cổ đông, tiền lãi cổ phần được doanh nghiệp phân chia và gửi đến tài khoản của mỗi cổ đông.
Phát hành và trao đổi cố phiếu
Thông tin kinh tế
cổ đông 1 cổ đông 2 cổ đông 3
Tiền
Tiền
Thị trường chứng khoán
Doanh nghiệp phát hành
(Sơ đồ 3)
4. Những lợi ích và bất lợi ích khi gia nhập TTCK
Tuỳ theo kế hoạch hoạt động và lợi ích của doanh nghiệp, tuỳ theo mức lãi suất ngân hàng, giá cả trên thị trường chứng khoán, ban quản trị sẽ chọn giải pháp thích hợp:
a) ích lợi
Gia nhập TTCK sẽ có lợi cho doanh nghiệp trong nhiều lĩnh vực:
- Doanh nghiệp có thêm một nguồn tài trợ để tiếp tục phát triển, có thể rẻ hơn là vay ngân hàng, tuỳ theo mức lãi suất.
- Doanh nghiệp có thêm tiếng tăm: dư luận nói đến những kết quả ban quản trị đã đạt được trên mọi thị trường, những thành công về xuất khẩu, những phát minh mới được áp dụng theo nhu cầu đòi hỏi của giới tiêu thụ.
- Doanh nghiệp gia đình kiếm thêm được một nguồn vốn để tiếp tục phát triển.
- Doanh nghiệp được TTCK đánh giá hàng ngày. Người quản trị doanh nghiệp có một giá tham khảo qua thị giá của cổ phần trên TTCK. Giá đó sẽ được áp dụng trong kế hoạch phát triển đã định: Trao đổi cổ phần với doanh nghiệp bạn... Thí dụ: doanh nghiệp bạn A mua X % cổ phần của doanh nghiệp B, doanh nghiệp B mua Y % cổ phần của doanh nghiệp A. Đó là một chính sách bảo trợ nhau, trao đổi tin tức với nhau.
- Doanh nghiệp còn có thể dùng chính sách "cưỡng ép" mua doanh nghiệp đối thủ một cách công khai, bằng cách qua mặt ban quản trị doanh nghiệp này, đề nghị với những người có cổ phiếu của doanh nghiệp đó để mua lại cổ phiếu của họ với một giá cao hơn giá thị trường (nếu không cao hơn thì họ không bán làm gì!) hoặc mua bằng tiền mặt. Hành động này được gọi là "công khai hỏi mua". Ngoài ra, còn có phương pháp để trao đổi cổ phiếu giữa hai hãng với nhau. Hành động này được gọi là "công khai dạm hỏi đổi cổ phiếu".
b. Bất lợi
- Doanh nghiệp phải chấp nhận công khai hoá các hoạt động chính của mình. Phải báo cáo tin tức thất bại và thành công của doanh nghiệp trên mọi thị trường, nghiên cứu phát triển, cách sử dụng nhân viên...
- Doanh nghiệp phải giải thích kế hoạch đã quyết định áp dụng, lý do, năng lực...
- Nếu không đạt được kết quả ngắn hạn như mong muốn, hoặc giải thích không được thoả đáng, doanh nghiệp sẽ bị doanh nghiệp khác để ý đến, công khai hỏi mua hay công khai dạm hỏi.
- Doanh nghiệp có thể bị một doanh nghiệp đối thủ để ý, trực tiếp giao dịch với hội đồng cổ phiếu của mình và đề nghị công khai hỏi mua hay công khai dạm đổi cổ phiếu.
Nhập TTCK: Lợi và bất lợi cho DN
Lợi Bất lợi
- Thêm nguồn tài trợ - Phải công báo thông tin
- Thêm tiếng tăm kinh tế về DN
- Công ty cổ phần gia đình - Phải công báo chiến lược
kiêm thêm vốn để phát triển
- DN được đánh giá hàng
ngày
- Tập trung / đa năng hoá mua - Có thể bị DN khác mua
cổ phiếu = mua DN (công
khai hỏi mua công khai dạm
đổi)
(Sơ đồ 4)
III . TTCK và tài chính nhà nước
1. Sử dụng thường xuyên
Việc sử dụng thường xuyên ngân sách nhà nước đã được đề cập đến trong phần (I), ở đây chúng ta chỉ nhấn mạnh đến việc ngân sách bội chi. Chính phủ phải tìm cách tài trợ sự chênh lệch đó. Có hai cách: chính phủ vay tiền của Ngân hàng Nhà nước, giải pháp này có thể gây ra lạm phát. Cách thứ hai là chính phủ phát hành phiếu kho bạc, thu hút tiền tiết kiệm vào ngân sách nhà nước. Hiện nay, bội chi là một hiện tượng rất thông thường trong các nước phát triển cũng như các nước đang phát triển. ở những nước phát triển, người ta nhận thấy sự tài trợ cho ngân sách nhà nước đã được quốc tế hoá: Thí dụ tiền tiết kiệm ở Nhật dùng để tài trợ khoản thiếu hụt của ngân sách Mỹ.
2. Sử dụng bất thường
Tuỳ theo mục đích kinh tế và chính trị, nhà nước có thể sử dụng hai chính sách: Quốc hữu hoá và tư hữu hóa.
- Quôc hữu hoá là chuyền quyền sở hữu các cổ phiếu vào tay chính phủ. Có hai cách quốc hữu hoá, quốc hữu hóa không bồi thường và quốc hữu hoá có bồi thường. Năm 1982, khi Tổng thống Pháp Mitterrand và Đảng Xã Hội lên nắm chính quyền, một quỹ quốc gia công nghiệp và một quỹ quốc gia ngân hàng đẫ được thành lập để đổi cổ phiếu các xí nghiệp bị quốc hữu hoá thành trái phiếu dài hạn của nhà nước. Đối với ngân sách nhà nước, quốc hữu hóa theo cách thứ hai này không thu vào cho nhà nước thêm đồng nào, trái lại, nhà nước lại có thêm một món nợ dài hạn. Đối với TTCK, các xí nghiệp bị quốc hữu hoá sẽ mất thị giá và tên trên thị trường cổ phiếu. Tiềm năng buôn bán trên thị trường này sẽ kém đi, ngược lại trên nguyên tắc, tiềm năng trên thị trường trái phiếu được tăng lên.
- Tư hữu hoá là nước bán cổ phiếu của các doanh nghiệp quốc doanh. Đối với TTCK, bảng giá các doanh nghiệp có tên tuổ được tăng thêm, do vậy tiềm năng buôn bán của các doanh nghiệp cổ phiếu cũng được rộng hơn. Do bán cổ phiếu, ngân sách nhà nước sẽ có một nguồn thu bất thường. Nhưng mỗi chính quyền có thể tư hữu hóa vì nhiều lý do khác nhau. Thí dụ lý do chính sách kinh tế: Tại Pháp năm 1986, cánh hữu lên cầm quyền, chính phủ quyết định" tự do hoá" nền kinh tế. Nhà nước Anh cũng nhiều lần giải thích chính sách của họ như thế. Nhà lãnh đạo còn có lý do khác để áp dụng chương trình tư hữu hoá. Mục đích là cải tiến phương pháp quản lý của các doanh nghiệp quốc doanh, họ quan niệm rằng doanh nghiệp tư nhân có hiệu quả hơn quốc doanh.
Ngày nay trên thế giới, trong các nước phát triển cũng như các nước đang phát triển đang có phong trào tư hữu hoá các xí nghiệp. Những nước công nghiệp đã hay đang áp dụng chương trình tư hữu hoá trong hay ngoài TTCK của họ: Pháp(Rhône poulenc...), Nhật(NTT...), Anh (British Telecom...), LBCH Đức(Lufthansa...). Sau khi thống nhất, nước Đức đã mở một quỹ riêng để giải quyết điều này. Giải pháp này thông qua TTCK. Nhiệm vụ của quỹ này đánh giá các xí nghiệp ở Đông Đức, rồi chia các doanh nghiệp quốc doanh ra làm ba loại: Các doanh nghiệp không thể tiếp tục hoạt động, các doanh nghiệp có thể cải thiện trước khi bán, các doanh nghiệp có thể bán ngay. Đơn vị mua có thể là doanh nghiệp trong nước hay ngoài nước, nhưng phải chấp nhận mọi yêu cầu của hợp đồng( không thải nhân viên, thêm tiền đầu tư, thực hiện chương trình cải tân...). Nhiều nước tư bản mới phát triển hay đang phát triển ví dụ như Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Maroc, Hunggari, Côte d'lvoire... đều có chương trình tư hữu hoá nền kinh tế của họ. Tuỳ trường hợp, việc này thực hiện quy- hay không qua- TTCK.
IV . TTCK và tài chính của các hộ gia đình
1. TTCK và tiền tiết kiệm
Tiền thu và hộ gia đình dưới mọi hình thức được sử dụng cho chi phí hoạt động thông thường: ăn uống, quần áo, đi lại, thuốc men... Tiền tiết kiệm là phần thu nhập không tiêu. Sự phân chia giữa tiền tiết kiệm và tiền thu nhập có thể thay đổi tuỳ nước và tuỳ thời gian. Ví dụ, khoảng năm 1960-1975, tại Pháp, tiền tiết kiệm chiếm khoảng 17-18% thu nhập của các hộ. Sau thời gian đó, xu hướng thúc đẩy tiêu thụ đã làm con số đó xuống còn khoảng 14%. Các nhà kinh tế đã nhận xét rằng hiện tượng giảm tỷ lệ tiết kiệm hiện nay tăng trong mọi nền kinh tế phát triển.
Tiền tiết kiệm được chia ra làm hai phần chình: một phần mua nhà cửa và đất đai, một phần gia tăng tài sản dưới hình thức khác: vàng, đá quí, bức hoạ hay phức tạp hơn nữa như bảo hiểm nhân thọ, tiền gửi trong ngân hàng, các quỹ tiết kiệm. Chỉ có một phần tiết kiệm được dùng vào TTCK. Tại Pháp, hình thức thứ hai này chiếm 6% tổng số tiền thu nhập của các hộ. Hiện nay một phần lớn của 6% này được chuyển vào TTCK( cổ phiếu, trái phiếu). Nói cách khác, tại Pháp dưới một phần ba tiền tiết kiệm được đưa vào TTCK, ở các nước phát triển khác số tiền này quan trọng hơn.
Năm 1990, số tư nhân có cổ phiếu hay trái phiếu, trực tiếp hay gián tiếp ở các nước như sau:
Pháp 3,5 triệu người, nghĩa là 1/16 dân số
Mỹ 30 triệu người, nghĩa là 1/7 dân số
Nhật 10 triệu người, nghĩa là 1/12 dân số
Đức 4,5 triệu người, nghĩa là 1/14 dân số.
2. Mục tiếu của đơn vị mua chứng khoán
Việc chọn mua cổ phiếu hay trái phiếu biểu hiện hai tâm trạng, hai nhu cầu của con người:
- Nhu cầu thu nhập hàng năm: Mục đích của những người theo tâm lý này là nhu cầu sinh lời. Họ không thích nhiều rủi ro đối với vốn họ đưa ra, họ chú ý đến trái phiếu, hay trái phiếu nào ít có rủi ro. Vốn đề ra 2.000 đồng, mỗi năm phải đưa lại cho họ 100 đồng lãi.
- Nhu cầu có giá trị thặng dư: Đơn vị có nhu cầu này cần chú ý ưu tiên đến sự chênh lệch giữa giá mua và giá bán, khi mua với giá X, họ phải tin trong tương lai họ có thể bán với giá Y cao hơn giá X.
Khi phát hành chứng khoán" giá danh nghĩa"(Valeur nominale, nominal- value)- còn được gọi là "mệnh giá" ( value faciale, face- value)- được in trên giấy cổ phần. Giá phát hành là giá thực sự người mua phải trả, nó có thể bằng hay khác mệnh giá:
- Giá phát hành = giá danh nghĩa, hiện tượng đó được gọi là phát hành ngang giá(au pair, at par).
- Giá phát hành< mệnh giá, được gọi là phát hành dưới mệnh giá (en dessous du pair, below par).
- Giá phát hành> giá danh nghĩa, được gọi là phát hành trên giá danh nghĩa (au dessus du pair, above par).
Khi DN có tên trên bảng giá, người mua chỉ chú ý đến sự chênh lệch giữa giá mua và giá bán:
* Giá bán> giá mua được gọi là " thặng dư" ( phus- value, capital-gain).
Giá bán< giá mua được gọi là " giảm giá" ( moins- value, capital-loss).
Mục tiêu đơn vị mua chứng khoán
I. Thu nhập hàng năm
*Trái phiếu Lãi suất
* Cổ phiếu Cổ tức
II. Lợi nhuận khi bán lại
* Giá bán > Giá mua
(Sơ đồ 5)
3. Trực tiếp hoặc gián tiếp mua chứng khoán trên TTCK
Mọi đơn vị kinh tế, cá nhân, doanh nghiệp, cơ quan tài chính có tiền tiết kiệm đều có thể mua bán chứng khoán trên TTCK. Họ giao dịch thẳng với các cơ quan chuyên môn để phát lệnh mua hay bán( tuỳ trường hợp) mọi hình thức chứng khoán: cổ phiếu, trái phiếu kho bạc dưới hình thức dài hạn, trung hạn hay ngắn hạn.
Tất cả đơn vị kinh tế còn có thể hoạt động gián tiếp trên TTCK quq các cơ quan đầu tư tập thể. Có hai loại:
a) Quỹ đầu tư có vốn thay đổi
Các quỹ này được phép hoạt động mua bán mọi hình thức chứng khoán của TTCK : cổ phiếu, trái phiếu, trái phiếu kho bạc... Nguồn của quỹ do vốn của người tiết kiệm đưa vào và được các quỹ sử dụng bằng cách mua chứng khoán. Nhưng người có tiết kiệm có thể mua cổ phần của các quỹ ngày hôm nay và quyết định bán trong tương lai, vì vậy vốn của các quỹ này có thể thay đổi hàng ngày. Người lời là người bán cổ phiếu của quỹ với thặng dư, người lỗ là người bán cổ phiếu của quỹ với giảm giá.
Có rất nhiều loại quỹ đầu tư, có quỹ chuyên môn về TTCK mới, trái phiếu, TTCK châu á, châu Mỹ... Đó là một loại sản phẩm tài chính, các quỹ không có tên trên bảng giá của TTCK nhưng cạnh tranh với nhau mạnh mẽ, kết qủa được đăng báo thường xuyên. Các quỹ này có thể xin các cơ quan chấm điểm" rating" (xem 2.4) cho điểm trước khi mở để họ dễ buôn bán hơn và thông tin đó đượ Uỷ ban giao dịch chứng khoán ( COB commission des operatión de bourse, SEC sécurities exchange commission) kiểm soát.
Các quỹ này đáp ứng những nhu cầu sau đây:
- Các đơn vị có tiết kiệm hợp nhau lại để phân chia rủi ro.
- Sử dụng kinh nghiệm chuyên môn của người quản lý.
- Quản lý dễ hơn, lựa chọn mua hay bán chứng khoán thích hợp, ví dụ như giảm tiền hoa hồng, chia rủi ro trên nhiều ngành kinh tế.
- Các quỹ này đóng vai trò trung gian để huy động vốn nhàn rỗi của các hộ. Để gây được uy tín trong quần chúng, các đơn vị phổ biến các sản phẩm tài chính này ( ngân hàng, hãng bảo hiểm...) phải tôn trọng điều lệ mới vận hành được: Luật pháp nghiêm chỉnh, thông tin chính xác, khả năng các nhà quản lý được chấp nhận...
b) Câu lạc bộ đầu tư
Nhiệm vụ của đơn vị này như sau:
- Như một hội, mở ra để cho hội viên có dịp trao đổi và học hỏi kinh nghiệm trên TTCK.
- Trao đổi tin tức giữa bạn hữu, đồng nghiệp...
- Phân chia rủi ro.
- Quản lý thích hợp.
V. TTCK và các cơ quan đầu tư chuyên môn ( công ty bảo hiểm, quỹ hưu trí...)
Một nền kinh tế phát triển mạnh thường có một hệ thống đầu tư chuyên môn. Tiền tiết kiệm của các ngành kinh tế tạo ra được chuyển sang các cơ quan này (investiseur institutional investor):
- Công ty bảo hiểm: Bảo hiểm nhân thọ, bảo hiểm tai nạn...
- Quỹ hưu trí: Có hai hệ thống, quỹ hưu trí " phân chia qua các thế hệ tương tự như câu ngạn ngữ " lá lành đùm lá rách",vốn thu vào năm nay phát trực tiệp cho những người đang hưu trí năm nay. Quỹ hưu trí "vốn cá nhân", mỗi người mua bảo hiểm hưu trí của mình, có thể với sự giúp đỡ của ngành hay công ty họ đang làm việc( fonds de pension funds)
- Quỹ đầu tư có vốn thay đổi, như đã nói trên.
- Ngân hàng thương mại, ngân hàng đầu tư.
- Quỹ tiền gửi và ký thác ( caisse de dépôts et consignations), theo nhiệm vụ Chính phủ đã trao cho.
Trong các nước phát triển, các cơ quan nói trên, tuy đứng ngoài công việc sản xuất hàng hoá dịch vụ, nhưng đóng một vai trò rất quan trọng, biểu hiện cho sự tích trữ tiết kiệm của một nền kinh tế. Các quỹ này ở Mỹ quản lý tổng số hơn 60 tỉ Mỹ kim. Một quỹ hưu trí bến Mỹ ( pension fund) có thể quản lý hơn 40 triêụ Mỹ kim các công ty bảo hiểm ở Nhật Bản còn lớn hơn.
1. Lý do sức mạnh tài chính của các cơ quan này
Lý do chính là hiện tượng " ngược đường" của các cơ quan này so với guồng máy của các doanh nghiệp san xuất: Các doanh nghiệp cần đầu tư hôm nay để ngày mai tiếp tục phát triển, còn các cơ quan đầu tư thu nhiều tiền hôm nay và trả trong tương lai. Sự khác biệt đó là một vấn đề tài chính mà TTCK phải trả lời. Qua các chương trình tư hữu hoá, các cơ quan này được mời mua chứng khoán của các công ty lớn vì họ có nhiều tiền, họ có thể có một cách nhìn dài hạn.
2. Sử dụng tài chính của các cơ quan đầu tư chuyên môn
Các cơ quan này hoạt động trong một khuôn khổ luật pháp, theo một chính sách đầu tư, mục đích là bảo vệ quyền lợi của những đơn vị đem vốn tới họ. Vốn này, tuỳ nước, được sử dụng theo ba cách:
- Đặt vốn ngắn hạn trên thị trường tiền tệ. Chính sách này được áp dụng ưu tiên khi lãi suất ngắn hạn cao hơn lãi suất dài hạn, hiện tượng này đã và đang có từ mấy năm gần đây.
- Đầu tư nhà cửa: Sử dụng tiền cách này có tính chất dài hạn, chú trọng ưu tiên thặng dư ( phus- value, capital gain) rồi mới đến tiền thuê nhà ( revenu, revenue). Theo chính sách này, họ mua nhà cho tư nhân hay công ty thuê hay mua khách sạn. Họ có thể mua trực tiếp hay gián tiếp qua các quỹ bất động sản chuyên môn về nhà cửa thương mại ( sicomi) hay quỹ tài chính ( holding financiere, finanial holding company).
- Đầu tư trên TTCK: Mua trực tiếp hay gián tiếp của TTCK: cổ phần, cổ phiếu, hoặc tham dự mua trong những vụ hỏi mua công khai.
- Tham gia mua cổ phần của các quỹ vốn rủi ro hay các quỹ vốn phát triển
VI. TTCK phản ánh tình hình kinh tế
Người ta thường đặt câu hỏi TTCK có phản ánh một nền kinh tế hay không?
1. TTCK và giá một công ty có giá bảng
Trên nguyên tắc, giá của một doanh nghiệp có tên trên TTCK phản ánh cách TTCK đánh giá doanh nghiệp này. Nó được một giá thưởng ( giá lên ) hay bị một giá phạt ( giá xuống); điểm tốt hay xấu tuỳ theo cách TTCK đánh giá:
- Ban quản lý doanh nghiệp.
- Kế hoạch phát triển.
- Khả năng sinh lời.
- Và nhiều lý do tâm lý khác như sự dự báo của TTCK ( xem phần 3.2).
Những hiện tượng này có thể áp dụng cho một ngành kinh tế: chế biến lương thực phẩm, sản xuất máy điện tử...
2. TTCK phản ánh tình trạng chính trị và kinh tế vĩ mô
- Ngắn hạn: TTCK, cũng như con người, có thể có một " cảm xúc" rất mãnh liệt. Nhờ những bộ máy điện tử chạy quanh hoàn cầu và tốc độ truyền tin nhanh chóng, ngày nay cảm xúc đó đóng một vai trò rất quan trọng. Do đó xuất hiện một hiện tượng" quả bong bóng tài chính" khoảng từ năm 1982 trở đi ( anh mua, tôi cũng mua!). Nhưng việc mua bán này không có gì thực tế! Vì thế, ở mức ngắn hạn, TTCK có thể nhầm lẫn hoặc phát triển độc lập đối với tình trạng kinh tế.
- Dài hạn: TTCK được coi là một trọng tài" biết suy nghĩ" hơn, công bằng hơn, vì những sự nhầm lẫn của ngắn hạn, của sự bồng bột, thiển cận được thời gian sửa chữa, uốn ắn.
Cũng vì hai cách nhìn đó, mà TTCK được coi là một sòng bạc, một Casino. Chơi trò này có thể trở thành triệu phú nhanh chóng nhưng cũng có thể phá sản một cách rất nhanh chóng. Đó là một vấn đề luân lý tài chính mà đến ngày nay chưa có quốc gia nào giải quyết được trọn vẹn.
Chương III
Cơ chế thị trường chứng khoán
I. Những chứng thư chính trên thị trường chứng khoán
1. Cổ phiếu
Những đặc tính pháp luật của cổ phiếu đã được mô tả ở phần 1 khi đình nghĩa chứng khoán ( cổ phiếu và trái phiếu). Từ hơn mười năm qua, trên thị trường các nước phát triển, nhu cầu tài chính của tư nhân và doanh nghiệp đã thay đổi rất nhiều nên đã có nhiều loại mới đã được phát minh và sự phân chia giữa cổ phiếu và trái phiếu không còn rõ ràng nữa. Có các loại cổ phiếu mới như sau:
- Cổ phiếu có lãi ưu tiên
Loại này đáp ứng nhu cầu của các công ty cần phát hành cổ phiếu để tăng vốn tự có mà không muốn mất quyền sở hữu doanh nghiệp, họ muốn tự bảo trợ để tránh bị công khai hỏi mua. Những đơn vị mua cổ phần có lãi ưu tiên hưởng mọi quyền lợi dành cho cổ phiêu, ngoại trừ quyền tham dự và bầu cử trong hội đồng cổ đông. Để bù sự thiệt thòi đó, họ được nhận một lãi cổ phần tối thiểu nếu doanh nghiệp có lãi.
- Phát cổ tức dưới hình thức cổ phần mới
Khi phát hành giấy chứng nhận đầu tư, doanh nghiệp có thêm vốn nhưng không phải chia quyền quản trị. Vì vậy, loại giấy này thương do các doanh nghiệp quốc doanh phát hành trên TTCK hoặc các tư doanh muốn tránh sự công khai hỏi mua của những doanh nghiệp đối thủ.
Cơ chế TTCK - Cổ phiếu
- Biểu hiện một khoản vốn góp
- Chủ sở hữu cổ phiếu là cổ đông, cổ đông là chủ sở hữu của doanh nghiệp phát hành cổ phiếu
- Cổ tức tuỳ lợi nhuận của DN có rủi ro
- Khoản vốn góp thuộc vốn riêng của DN
- Cổ đông được dự và được bầu trong đại hội cổ đông được tham gia vào sự quản lý DN
(Sơ đồ 6)
2. Trái phiếu
Những đặc điểm và quyền lợi của trái phiếu đã được đề cập ở trên. ở đây, chúng ta sẽ phân tích các loại trái phiếu thông thường nhất.
- Trái phiếu có lãi suất cố định
Những đặc tính của loại trái phiếu này được xác định ngay từ khi phát hành và có giá trị trong suốt kỳ hạn của trái phiếu. Lãi suất được trả mỗi năm, vốn trái phiếu được khấu hao- nghĩa là trả lại vốn- một lần vào cuối kỳ hạn trái phiếu, hoặc mỗi năm một phần.
- Trái phiếu có lãi suất thay đổi
Nguyên tắc của loại trái phiếu này là lãi suất danh nghĩa thay đổi theo một chỉ số tham khảo được tính trước ngày trả cuống phiếu, những chỉ số tham khảo thường dùng là: Tỷ lệ trung bình hàng tháng của thị trường tiền tệ, tỷ lệ trung bình của các trái phiếu...
- Trái phiếu chỉ số hoá
Lãi suất được định từ lúc phát hành và biến đổi theo vài chỉ số, như giá điện, giá tiền ECU (đơn vị tiền tệ của Cộng đồng Âu Châu).
- Trái phiếu chuyển được thành cổ phiếu
Loại này dùng để đáp ứng nhu cầu của những đơn vị muốn mua cổ phiếu của một doanh nghiệp nhưng muốn có một thời gian quan sát. Lãi suất của loại này thấp hơn lãi suất của trái phiếu thông thường. Khi quyền chuyển hoá được sử dụng thì trái phiếu sẽ mất đi và đồng thời vốn của doanh nghiệp sẽ tăng lên và cổ phiếu mới được phát hành. Lẽ dĩ nhiên, người có loại trái phiếu này chỉ sử dụng quyền chuyển hóa khi nào giá cổ phiếu cao hơn giá trái phiếu trên thị trường. Tuỳ theo đặc tính của loại trái phiếu này, quyền chuyển hoá được sử dụng theo ba cách:
* Lúc nào cũng được.
* Trong một thời gian nhất định đã quy định khi phát hành.
* Một vài năm sau khi phát hành. Khi đến kỳ hạn đó, đơn vị có trái phiếu phải quyết định trong vòng ba tháng.
Trái phiếu
+ Phiếu biểu hiện một khoản vốn cho vay dài hạn
+ Chủ sở hữu trái phiếu là chủ nợ cơ quan phát hành TP
+ Lãi suất hàng năm không có rủi ro
+ Hai hình thức hoàn lại vốn
- Rút thăm mỗi năm một lần
- Một lần khi tới kỳ hạn
+ Các loại chính
- Trái phiếu có lãi suất cố định
- Trái phiếu có lãi suất thay đổi
- Trái phiếu chỉ số hoà
- Trái phiếu chuyển hoá được thành cổ phiếu
(Sơ đồ 7)
II. Các nhân tố của giá cả trên thị trường chứng khoán
1. Giá cổ phiếu
- Tình hình chính trị trên thế giới, trong một nước: Phụ lục "Năm lần xung đột nhìn qua TTCK" cho ta thấy rằng mỗi lần có một cuộc chiến tranh quan trọng, thì giá trên TTCK thay đổi theo ba giai đoạn: lúc sửa soạn chiến tranh, TTCK bao giờ cũng đi xuống; trong chiến tranh , giá TTCK bao giờ cũng đi lên; đến giai đoạn ba, khi hội đàm, TTCK lại xuống. Bài học kinh nghiệm đó được chứng minh qua chiến tranh Việt - Mỹ, Việt - Pháp, đại chiến thứ hai...
Gần đây hơn, ngày 2.8.1990, khi Tổng thống Saddam Hussein ra lệnh mang quân sang đánh nước Koweit, tình thế trở thành rất bấp bênh, ai cũng lo sợ giá dầu hoả sẽ vụt lên cao và sẽ làm giảm lợi nhuận của các doanh nghiệp, sợ lạm phát, sợ lãi suất sẽ lên... bầu không khí khó thở đó kéo dài từ tháng tám đến giữa tháng chín 1990. Trong thời gian này, giá ở TTCK xuống như sau:
Paris Luân Đôn Nữu ước Tokio
Đầu 8.90 500 2.230 2.730 28.500
Giữa 9.90 438 2.095 2.565 24.900
Trong thời gian chiến tranh, giá TTCK lên, kinh tế bắt đầu phát triển lại, các doanh nghiệp sản xuất súng đạn được giới đầu tư để ý đến. Gần một năm sau, giá TTCK Paris, vào 9.91 lên đến 24%.
Vì thế có câu châm ngôn nói rằng: "Phải mua khi nghe tiếng súng, phải bán khi nghe tiếng kèn".
- Tin tức, thông báo thống kê về kinh tế: Những tin tức về thất nghiệp, cán cân thương mại, cán cân thanh toán, nhất là những tin tức về kinh tế Mỹ được TTCK trực tiếp chú ý; khi thông tin tốt, hay đúng hơn được TTCK cho là tốt, thường giá trên thị trường lên.
- Tình hình thị trường vốn và lãi suất ngắn hạn và dài hạn: Thường khi lãi suất tín dụng xuống, TTCK coi là một tin vui vì các doanh nghiệp phải trả ít lãi hơn cho các ngân hàng, do đó lợi nhuận sẽ cao hơn. Người có cổ phiếu và trái phiếu sẽ có lợi.
- Các dự báo về TTCK: Hiện tượng này quan trọng hơn xưa vì sự tin học hoá và toàn cầu hoá về TTCK không những dựa vào thông tin về quá khứ và hiện tại mà theo dự báo của mọi tác nhân, hay tổ chức có quyền hành trong lĩnh vực kinh tế, ngân hàng, chính trị.
- Tình trạng phát triển từng ngành: Nền kinh tế vĩ mô được chia ra thành nhiều ngành. ở một thời điểm nhất định, có những ngành phát triển mạnh, trong các ngành khác lại hết thời vì nhu cầu của thị trường đã thay đổi. Kinh nghiệm cho ta biết rằng, khi nền kinh tế trở lại con đường phát triển, giá trên TTCK của các doanh nghiệp thuộc ngành xây dựng nhà cửa, cơ sở hạ tầng sẽ lên. Những ngành khác có liên quan trực tiếp hay gián tiếp với ngành xây dựng cũng từ từ theo khuynh hướng đó: ngành xi măng, vật liệu xây dựng. Vì thế ở Châu Âu có câu "khi ngành xây dựng tiến thì cái gì cũng tiến".
- Tình trạng của doanh nghiệp: Khả năng của ban lãnh đạo, tên tuổi, quá khứ nghề nghiệp của Tổng giám đốc, tiếng tăm thực sự hay tin đồn về tài năng, luân lý đạo đức của ê kíp cầm đầu đều được TTCK chấm điểm. Tin tức về doanh nghiệp: Những thành công, những khó khăn, thất bại... nói một cách tổng quát hơn, khả năng phát triển, sinh lời, áp dụng sáng tạo... tất cả thông tin đó đều được TTCK chú ý và chấm điểm: Ví dụ, tháng 12 năm 1984 có tin công ty Mỹ UNION CARBIDE có xưởng hoá học ở BHOPAL bên ấn Độ bị nổ, trong chớp nhoáng giá của doanh nghiệp này trên WALL STREET xuống 30% từ 49$ đến 35$, ở Paris giá từ 529F xuống đến 330F. Ví dụ khác, tháng 11 năm 1991, có tin công ty TOTAL khám phá ra dầu hoả ở CUSIANA bên COLOMBIE giá của công ty này từ 1027F lên đến 1062F.
2.Các chỉ số chính của thị trường chứng khoán
Trên thị trường cổ phiếu có vài chỉ số được dùng một cách rất phổ biến qua mọi hệ thống thông tin.
Tồn tích tại sở giao dịch chứng khoán .Tuỳ theo luật và kế hoạch của ban quản trị ,một doanh nghiệp có thể quyết định đạt một tỷ lệtối thiểu vốn điều lệ,hay nhiều hơn trên thị trường cổ phần .
Thí dụ,nhà nước quyết định cho phép công ty LEGAMEX bán xcổ phiếu.Tồn tích tại sở giao dịch chứng khoán là giá một cổ phiếu x có mặt trên thị trường .Thông tin này tượng trưng cho khả năng thanh toán -sự dễ mua,dễ bán cổ phiếu đó trên thị trường-người ta áp dụng khái niệm tồn tích cho một doanh nghiệp ,một ngành ,một TTCK,một nước hay cả thế giới.
Khái niệm này rất quan trọng và thông dụng .Tiếng việt có chữ “tỷ suất tồn tích tiền lãi”.Nó biểu hiện cho giá cuả một doanh nghiệp so với lợi tức của nó nghĩa là giá người đầu tư sẵn sàng trả cổ phiếu một doanh nghiệp bằng x lần (nghĩa là x năm)lợi tức của nó .
ví dụ :giá cổ phiếu của công ty L trên TTCK là 100.000đ,có 100.000 cổ phiếu ,lợi tức chia cho cổ đông năm nay là 5,27% như vậy mỗi cổ phiếu nhận được 5.270đ(5,27%x100.000) PERcủa công tyL là:
Giá trên TTCK 100.000đ/lãi mỗi cổ phiếu 5.270 =18,97
tính cách khác :
Tồn tích 10.000.000.000/Tổng số lãi527.000.000đ =18,97
khái niệm này dùng để so sánh doanh nghiệp này với doanh nghiệp khác trong cùng một ngành ,để so sánh ngành này với ngành khác,TTCKnước này với nước khác.PERđược dùng trong quá khứ nhưng hữu dụng thật sự là trong tương lai:PER định giá cho năm nay làX lần tiền lời của nó ...và cho năm tới là Y. Nếu Y>X, Gía rẻ hơn:
khả năng sinh lời :Người đầu tư chú ý đến thu nhập của một chứng khoán .Khả năng sinh lời là tỷ lệ giữa lãi của một chứng khoán với giá của chứng khoán .Đối với cổ phiếu,khả năng là sinh lời là tỉ lệ giữa tổng số lợi tức đối với tồn tích tại sở giao dịch chứng khoán .Khái niệm khả năng sinh lời là một tiêu chuẩn để quản lý lựa chọn các cổ phiếu hay nói chung là chứng khoán.
Các chỉ số chính của TTCK
F Tồn tích tại cơ sở giao dịch chứng khoán
Giá TT cổ phiếu "số lượng trên TT
F "PER" Price earning Ratio
Giá TT cổ phiếu Tồn tích
=
Cổ Tức mỗi cổ phiếu Tổng số cổ tức
F Sự sinh lợi
Cổ tức mỗi cổ phiếu Tổng số cổ tức
=
Giá TT cổ phiếu Tồn tích
Các chỉ số tích cho một DN, một ngành, một TTCK tất cả các TTCK thế giới
(Sơ đồ 7)
3. Giá trái phiếu
Giá trái phiếu thay đổi hàng ngày, do hai yếu tố chính.
Giá lãi suất dái hạn trên thị trường có ảnh hưởng trực tiếp đến giá trái phiếu có lãi suất cố định. Nếu giá lãi suất dài hạn lên, những trái phiếu mới được phát hành có một lãi suất cao hơn các trái phiếu đã được phát hành trước, thì người ta sẽ sử dụng cách thay thế trái phiếu, nghĩa là họ sẽ bán trái phiếu cũ để mua trái phiếu mới, như thế giá trái phiếu cũ sẽ xuống và khả năng sinh lời của nó sẽ cân bằng với lãi suất mới, theo luật “ cung và cầu “.
Ví dụ: một trái phiếu X có giá trị trên thị trường 200.000đ, lãi suất 15%. Tiền lãi hàng năm là: 200.000 x 15% = 30.000đ; năm năm sau, lãi suất dài hạn của trái phiếu mới được phát hành là 20%. Giá của trái phiếu X sẽ xuống đến mức lý thuyết 150.000đ, như thế khả năng sinh lời của X mới đạt được 20% (30.000/150.000 = 20%), nếu người ta bán trái phiếu lúc đó, tiền lời sẽ được nhiều hơn nhưng sẽ bị “giảm giá” đối với giá bán: 200.000 - 150.000 = 50.000đ.
Nếu lãi suất xuống, giá trái phiếu sẽ lên cũng vì lý do trên. Người định bán trái phiếu lúc đó sẽ hưởng ít tiền lời hơn nhưng sẽ được hưởng sự “tăng giá”.
Kỳ hạn của trái phiếu: Thường càng gần kỳ hạn, giá trái phiếu càng gần mệnh giá hơn, nghĩa là càng gần giá phải trả. Ngược lại, càng xa kỳ hạn thì giá trái phiếu có thể thay đổi hơn, nhiều rủi ro hơn.
Ngoài ra còn vài yếu tố khác:
+ Năng lực vốn của thị trường ở một thời điểm. Năng lực này lệ thuộc vào tình hình tài chính và kinh tế vĩ mô: thói quen tiêu thụ và tiết kiệm của quần chúng, tình hình làm cho họ bi quan hay lạc quan, tin tức về sự phát triển của các thị trường đầu tư khác cạnh tranh với thị trường trái phiếu (thị trường nhà cửa, cổ phiếu, vàng bạc, tranh hội hoạ, đồ cổ...).
+ Biến chuyển của lãi suất dài hạn và ngắn hạn. Hiện tượng này thay đổi theo chính sách tiền tệ của nhà nước, và của các nước khác.
+Chính của nhà nước về thuế, giá cả... nói chung là chính sách kinh tế nhằm mục đích khuyến khích ngành này hay ngành khác, hoặc thúc đẩy tiết kiệm vào ngành nào thích hợp với công ích.
Chương IV
một thị trường chứng khoán tại việt nam?
1. Nguyên tắc hoạt động của các quỹ đầu tư
Trong những phần trước chúng ta có đề cập đến hiện tượng toàn cầu hoá của thị trường vốn và vai trò quan trọng của các cơ quan đầu tư chuyên môn (công ty bảo hiểm, quỹ hưu trí...). Kinh nghiệm cho thấy rằng các nước sắp và mới phát triển thường thu hút các cơ quan này. Hiện nay trên thế giới có rất nhiều quỹ đầu tư được lập ra, ví dụ như KOREA INVESTMENT FUND, TAIWAN FUND, THAI INTERNATIONNAL FUND... Có những công ty quản lý chuyên môn về các quỹ này như MORGAN STANLEY ASSET MGT., SCHRODER INV. MGT.
Chúng ta lấy ví dụ việt nam growth fund credit lyonnais để tìm hiểu phương pháp hoạt động và cách tổ chức một loại quỹ này, tuy rằng chương trình này chưa được hoàn thành.
Thông thường, cơ chế của loại quỹ này như sau:
- Khách của quỹ là doanh nghiệp, cơ quan đầu tư chuyên môn, cá nhân có tiền.... có quan điểm tốt đẹp về tương lai nền kinh tế Việt Nam. Các tác nhân này mua cổ phiếu A do quỹ phát hành ra, và họ thành cổ đông A. Quỹ sẽ có bảng giá trên TTCK Hồng Kông để có thể bán cổ phiếu A.
- Vốn đầu tư huy động được dùng để mua cổ phần của các doanh nghiệp Việt Nam đáng tin cậy. Trong lúc chờ đợi cơ hội thuận tiện, ban quản lý dùng vốn trên thị trường vốn ngắn hạn để hưởng lãi.
- Quỹ mua cổ phần các doanh nghiệp Việt Nam B, C, D... rồi 5 năm sau, quỹ sẽ bán cổ phiếu trên TTCK Việt Nam, hay bán cho doanh nghiệp khác, thặng dư sẽ chia cho khách.
2. Việt nam growth fund - các tác nhân
Công việc kỹ thuật được phân chia như sau:
- CREDIT LYONNAIS đóng vai trò cố vấn cho chính phủ Việt Nam trong chương trình tư hữu hoá, và sẽ là cơ quan liên lạc và tìm khách đầu tư mua cổ phần A.
- jf việt nam management ltd chính thức chịu trách nhiệm quản lý, nghĩa là quyết định chọn các doanh nghiệp để đầu tư.
- JARDINE FLEMING INVESTMENT LTD nhận trách nhiệm quản lý uỷ nhiệm, góp kinh nghiệm tổng quát trên thế giới nhằm đầu tư cho đúng.
- STANDARD CHARTERED INTERNATIONAL LTD nhận công việc quản lý chứng khoán, quản trị tài chính mua bán trên thế giới.
- PRICE WATERHOUSE kiểm tra kế toán.
Quỹ của CREDIT LYONNAIS chỉ là một trong các quỹ có ý định đầu tư trên thị trường Việt Nam. Từ ngày chính sách đổi mới được áp dụng, nền kinh tế tài chính Việt Nam được giới đầu tư tài chính quốc tế quan tâm tới. Vì thế từ năm 1991, đã có 4 quỹ đầu tư chuyên về Việt Nam dự định mở, nhưng đến nay (cuối năm 1993) chưa có quỹ nào hoạt động; còn nhiều khó khăn kỹ thuật, kế toán... chưa vượt qua được, và lý do chính là các quỹ không đạt được mức vốn muốn thu hút, CREDIT LYONNAIS GROWHT FUND phải tạm thời hoãn. Quỹ INDOCHINA HOTEL LTD của JAMES CAPEL, quỹ việt nam fund của smith new court cũng trong trường hợp này. Chỉ có quỹ của KEPPEL SECURITIES SINGAPOR đã được chính thức thành lập.
Việt Nam Growth Fund: Các tác nhân
- Credit Lyonnais: Cố vấn - tìm khách
- JF Việt Nam Management LTD: Quản lý
- Jardine Fleming Investment LTD: Quản lý uỷ nhiệm
- Standard chartered international LTD: Quản lý chứng khoán
- Price waterhouse: Kiểm tra kế toán
- TTCK Hồng Kông
(Sơ đồ 8)
3. Thị trường chứng khoán tại Việt nam - điều kiện
Trong một nền kinh tế thị trường, vấn đề mở một thị trường chứng khoán thể nào cũng phải đặt ra. Những điều kiện tối thiểu để Việt Nam có thể có một thị trường chứng khoán theo tiêu chuẩn quốc tế là:
- Phải có cung về vốn: Muốn có một thị trường chứng khoán thì phải có cung ứng vốn trong nước, hiện tượng này biểu hiện cho một nền kinh tế quốc gia đã đủ sức tự tạo ra nguồn vốn do tiết kiệm.
- Phải có cầu về vốn: Các ban quản trị doanh nghiệp phải có "máu" đầu tư, chấp nhận rủi ro về kinh doanh, và thấy cầu vốn trên thị trường chứng khoán có lợi hơn vay ngân hàng.
Nhưng có cầu và cung chưa đủ, cá nhân hay công ty ngoại quốc chỉ mua cổ phần của các doanh nghiệp có một giá trị tối thiểu, có tiềm năng sinh lời. Không ai sẽ mua cổ phần của các doanh nghiệp không có tiềm năng và không có lợi nhuận.
Môi trường thể chế pháp lý: thuận lợi, và ổn định về mặt chính trị, xã hội, kinh tế. Giới đầu tư không bao giờ đem vốn vào một nước thiếu ổn định lâu dài vì họ quan tâm tới quyền lợi lâu dài của họ. Chính quyền có mạnh mẽ, vững bền, được tín nhiệm, thì mới có khả năng tạo ra bộ máy hành chính có hiệu nghiệm, cơ chế luật lệ rõ ràng, được áp dụng nghiêm chỉnh: Có luật đầu tư, hệ thống kế toán, kiểm toán, thuế má, luật lao động...mới tạo ra một bầu không khí được thị trường chứng khoán tín nhiệm.
Kỹ thuật thị trường chứng khoán: Khả năng thanh toán của một TTCK là sự dễ dàng mua bán chứng khoán; tồn tích giao dịch chứng khoán càng phát triển thì khả năng thanh toán càng dễ dàng; càng nhiều ngành, nhiều doanh nghiệp có giá trị trên TTCK thì khả năng lựa chọn của người đầu tư càng lớn, giới này chỉ mua khi họ tin tưởng sẽ bán được khi cần đến. Hơn nữa, phải có một cơ quan điều hành như COB, SEC đóng vai trò cảnh sát, áp dụng pháp luật gây tín nhiệm cho các tác nhân. Cách xử lý lệnh mua bán bằng máy điện tử cần được thực hiện nhanh chóng và chính xác theo tiêu chuẩn quốc tế.
TTCK tại Việt Nam
Nhập đề: Thị trường vốn là một phần chủ yếu của một nền kinh tế thị trường.
Điều kiện 1: Có cung ứng vốn
Điều kiện 2: Có cầu vốn (đầu tư)
Điều kiện 3: Môi trường thể chế - pháp lý
- Tình trạng chính trị ổn định
- Bộ máy luật lệ rõ ràng, ổn định, theo tiêu chuẩn quốc tế áp dụng có hiệu quả (thuế, sở hữu, hợp động, kế toán, thông tin kinh tế... )
Điều kiện 4: Kỹ thuật
- Quy luật TTCK
- Cơ quan điều hành ( như COB, SEC)
- Tổ chức
(Sơ đồ 9)
Chương V.
Kết luận
Trong nền kinh tế thị trường, việc hình thành TTCK là một tất yếu khách quan. Song, để có được một Thị trường chứng khoán không phải là điều đơn giản đối với nước ta nói riêng cũng như các nước đang phát triển nói chung. Bởi trên thực tế chúng ta vừa chân ướt, chân dáo tập tễnh bước vào cơ chế thị trường, nên mọi cái đều phải học hỏi và tích luỹ dần dần để chuẩn bị tốt mọi điều kiện cho việc hình thành một thị trường Chứng khoán ở Việt Nam.
1. Những khó khăn.
Trong điều kiện thực tế nước ta hiện nay, tuy Uỷ ban chứng khoán của Chính phủ đã chuẩn bị khá công phu cho một thị trường chứng khoán mới ra đời phù hợp với thực trạng nền kinh tế ở Việt Nam nhưng cũng đang gặp rất nhiều khó khăn vì nhiều lý do, như:
- Do TTCK là một mô hình hoàn toàn mới đối với một nước thuần nông như nước ta, lại vừa chuyển đổi cơ chế không nâu nên những hiểu biết về TTCK còn khá ít ỏi.
- Do tập quán từ nâu đời của nghề nông nghiệp, nên dân ta không có thói quen đưa tiền vào lưu thông mà chủ yếu cất giữ nên cũng là một điều bất cập và thách thức đối với những lãnh đạo.
- Do chưa có đủ hàng hoá phong phú cho một thị trường có thể hoạt động tốt, mà mới chỉ bước đầu có một số hàng hoá nhất định nên cũng gây ra nhiều khó khăn cho việc trao đổi.
- Do còn thiều kinh nghiệm quả lý về thị trường chứng khoán của các nhà quản lý.
- Hay do một số lý do khác nữa như: luật để điều tiết vấn đề TTCK chưa có đủ, những chính sách của Nhà nước với vấn đề này cũng chưa đáp ứng được nhu cầu đòi hỏi của thực tế, hoặc ảnh hưởng của cuộc khủng khoảng tài chính kinh tế thế giới mà bắt đầu từ Thái Lan ....
Song không phải vì những khó khăn bước đầu đó mà chúng ta trùn bước, chúng ta hãy tin tưởng. Bởi vì, không cái gì có thể thành công một cách như ta mong đợi ngay được mà nó phải có sự thử thách, có khó khăn và quan trọng là chúng ta biết vượt nên trên những khó khăn đó để đi đến một thành công rức rỡ và tươi đẹp. Và, chúng ta tin tưởng như vậy không phải là không có căn cứ mà là phải dựa trên những sự phân tích khá kỹ lưỡng. Đó là, chúng ta không phải chỉ có những khó khăn mà chúng ta còn có những thuận lợi đáng kể.
2. Những thuận lợi
Việc hình thành TTCK ở Việt Nam là một xu hướng khách quan. Vì vậy nó tuy có những khó khăn song cũng có rất nhiều thuận lợi, như:
- Chúng ta xây dựng TTCK trong khi TTCK đã khá phổ biến trên thế giới do vậy chúng ta đã được thừa hưởng những kinh nghiệm thành công cũng như thất bại của các nước khác để có thể rút ra những bài học kinh nghiệm cho mình.
- Chúng lại có được sự quan tâm rất lớn của Đảng, Chính phủ và các ban ngành hữu quan.
- Chúng ta còn có thể tự hào về sự tiến bộ vượt bậc về kinh tế sau hơn mười năm đổi mới và nó sẽ giúp chúng ta tự tin hơn trong những bước đường sắp tới.
- Và chúng ta lại càng tin tưởng hơn trong một tương lai không xa TTCK sẽ phát triển rất mạnh ở Việt Nam. Vì hiện nay chúng ta đã bước đầu hình thành thị trường giao dịch chứng khoán ở TP. HCM và không lâu nữa sẽ là Hà Nội.
- Chúng ta cũng tin tưởng và vững vàng hơn khi cuộc khủng hoảng tài chính, kinh tế thế giới đang được khắc phục và có thể không lâu nữa nó sẽ trở lại hoạt động bình thường (vì một bước thụt lùi sẽ là cơ sở vững chắc hơn cho hai bước tiến tiếp theo)...
Qua những điều phân tích và đánh giá ở trên, chúng ta tin tưởng chắc chắn trong một tương lai không xa tất cả chúng ta sẽ được hưởng những lợi ích và thuận lợi do TTCK mang lại.
Tài liệu tham khảo:
Thị trường chứng khoán và công ty cổ phần, Hà Nội, 1989
Thị trường chứng khoán. Ernard J. Foley, NXB Tài chính, 1995
Thị trường chứng khoán. Merrill Lynch Co., Viện khoa học tài chính, 1996
Vận dụng thị trường chứng khoán vào điều kiện Việt Nam. Nguyễn Ngọc ảnh, Luận văn thạc sĩ kinh tế do giáo sư tiến sĩ Lê Văn Tư hướng dẫn
Một số biện pháp góp phần cho thị trường chứng khoán Việt Nam hình thành và phát triển. Bùi Văn Trịnh, Luận văn thạc sỹ kinh tế do PGSTS Lê Văn Tư hướng dẫn
Tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính. Frederic S.Miskin, NXB Khoa học kĩ thuật, Hà Nội, 1994
Thị trường hối đoái và thị trường tiền tệ. Heinz, Riche, M.Rodeiguez, NXB Chính trị Quốc Gia, Hà Nội, 1996
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- L0792.doc