Tiểu luận Những diễn biến mới của kinh tế thế giới từ sau khủng hoảng tác động đến kinh tế Việt Nam

NHỮNG DIỄN BIẾN MỚI CỦA KINH TẾ THẾ GIỚI TỪ SAU KHỦNG HOẢNG TÁC ĐỘNG ĐẾN KINH TẾ VIỆT NAM Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam I. Tóm lược tình hình kinh tế thế giới từ sau khủng hoảng Cho tới giữa năm 2010, tình hình kinh tế thế giới vẫn diễn ra hết sức phức tạp. Xu hướng phục hồi tại các nền kinh tế lớn đã được khẳng định (hai nền kinh tế mới nổi hàng đầu là Trung Quốc và Ấn Độ đang đóng vai trò là động lực chính cho tiến trình phục hồi của kinh tế thế giới) nhưng không đồng đều và không chắc chắn, tốc độ phục hồi của các nền kinh tế là rất khác nhau, những tín hiệu tốt xấu đan xen liên tục và những lo ngại về khủng hoảng nợ tại châu Âu vẫn chưa chấm dứt. Kinh tế Mỹ và châu Âu dù đang khởi sắc nhưng với tốc độ chậm hơn dự báo trước đó, trong khi đó châu Á vẫn tiếp tục là động lực và đang phục hồi nhanh chóng vượt trội. Có thể nói, quá trình hồi phục của kinh tế thế giới đã được khẳng định, dù khi này khi khác vẫn còn những nghi ngại và cần nhiều thời gian để khắc phục và vượt qua. Báo cáo triển vọng kinh tế toàn cầu ngày 21/4/2010 của IMF nhận định rằng việc giải quyết vấn đề nợ công đang ở mức quá cao đòi hỏi nhiều nỗ lực và các biện pháp quyết liệt của các Chính phủ cũng như cần nhiều thời gian hơn dự tính. IMF cũng dự báo tình trạng thất nghiệp toàn cầu vẫn ở mức cao trong năm 2010 và 2011 và Chính phủ các nước vẫn phải thúc đẩy tăng trưởng kinh tế để giảm tỉ lệ thất nghiệp. IMF cho rằng việc giải quyết vấn đề thất nghiệp là thách thức chính sách lớn nhất khi kinh tế toàn cầu thoát ra khỏi thời kỳ suy thoái tệ hại nhất từ chiến tranh thế giới thứ hai. Như vậy, mặc dù tăng trưởng đã trở lại, nhưng sự phục hồi diễn ra không đồng đều và không chắc chắn, tỉ lệ thất nghiệp tại nhiều nước vẫn cao quá mức cho phép và tác động xã hội của cuộc khủng hoảng vẫn còn tồn tại nhiều nơi. Do đó, ưu tiên cao nhất hiện nay vẫn là tăng cường phục hồi kinh tế, khôi phục việc làm, cải cách và tăng cường các hệ thống tài chính và tạo sự tăng trưởng toàn cầu mạnh mẽ, bền vững và cân bằng.

pdf26 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1873 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Những diễn biến mới của kinh tế thế giới từ sau khủng hoảng tác động đến kinh tế Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n kinh tế khu vực này5. Như vậy, số tiền mà EU phải bỏ ra nhằm tránh nguy cơ khủng hoảng nợ công, gây đổ vỡ nền kinh tế khu vực này là con số khổng lồ so với dự tính ban đầu. Hầu hết các nhà phân tích đều chung nhận định cho rằng gói cứu trợ khổng lồ này chỉ có tác dụng giúp các quốc gia yếu kém trong khu vực Eurozone có thêm thời gian, chứ không thể giải quyết được vấn đề nợ cơ bản ở châu lục này. Sự hỗn loạn trên thị trường hiện nay chỉ có thể được cứu vãn, nếu 16 nước thành viên Eurozone cải tổ hệ thống kinh tế của họ và giảm thâm hụt ngân sách. Hơn nữa, không chỉ riêng Hy Lạp cần được cứu, mà ngày càng nhiều người tin rằng EU, IMF và ECB cần phải tung ra khoản cứu trợ lớn hơn để giúp các nước khác như Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Ý. Nếu tình hình xấu hơn là cả Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha rồi Ý cũng cần phải ứng cứu thì liệu chăng EU có đủ sức cứu không? Bởi vì nợ công hiện tại của Hy Lạp chỉ 236 tỉ USD, là số rất nhỏ so với mức 1.100 tỉ USD của Tây Ban Nha hay 1.400 tỉ USD của Ý. Nhìn lại năm 2008, khi cuộc khủng hoảng kinh tế bắt nguồn từ cho vay nợ dưới chuẩn tại Mỹ lan rộng, chính phủ Mỹ đã liên tục bơm tiền ra để ứng cứu nền kinh tế, khởi đầu là gói cứu trợ 700 tỉ USD của Chương trình giải trừ các tài sản xấu (TARP). Tuy nhiên gói cứu trợ này và hàng loạt gói khác tiếp theo dùng để giải cứu hệ thống tài chính không đạt được mục tiêu mong muốn6. Thậm chí các gói cứu trợ còn làm thị trường biến động liên tục theo chiều hướng tiêu cực và được xem như tiền đề cho khủng hoảng hiện nay ở châu Âu do khu vực này cũng vay nợ để bơm tiền vào nền kinh tế. Bởi vậy việc gói cứu trợ khổng lồ của châu Âu được thông qua không những không đem lại niềm tin cho thị trường mà còn cho thấy mức độ nghiêm trọng của khủng hoảng nợ tại châu Âu và làm gia tăng mối 5 Trong đó chính phủ các nước Eurozone sẽ cung cấp khoản vay 440 tỷ Euro, Quỹ khẩn cấp EU là 60 tỷ Euro và Quỹ tiền tệ quốc tế IMF là 250 tỷ Euro. 6 Năm 2009 có 171 ngân hàng và các tổ chức tín dụng tại Mỹ phá sản, và tiếp tục có thêm 102 ngân hàng Mỹ phá sản trong năm 2010 (tính đến hết 28/7/2010). 7 lo ngại về tình hình kinh tế khu vực này ngày càng xấu đi cũng như tính hiệu quả của gói cứu trợ này sẽ ngăn cản sự phục hồi kinh tế toàn cầu. Theo các chuyên gia kinh tế, khủng hoảng tại châu Âu đã phơi bày những nhược điểm về cơ chế tài chính khu vực này, đó là không có một cơ cấu ngân sách tài chính thống nhất, không có quyền điều động tài chính của các nước. Khi liên minh tiền tệ khu vực châu Âu được thành lập, các nước này chỉ muốn xây dựng một liên minh về tiền tệ mà không thành lập một liên minh chính trị, tức là chỉ đồng ý thiết lập NHTW châu Âu, chứ không muốn cùng các cơ quan chia nhau quyền thu thuế, đây được coi là điểm mấu chốt dẫn tới những vấn đề về nợ công và thâm hụt ngân sách nặng nề tại khu vực châu Âu hiện nay. Chính vì vậy, mặc dù Chính phủ các nước đều bày tỏ quyết tâm giúp đỡ Hy Lạp và tuy nhiên, các nước đều rất khó khăn khi đưa ra các cam kết giúp đỡ tài chính cụ thể. Một số phân tích còn cảnh báo trừ khi khu vực EU có thể từng bước mở rộng nền tảng hợp tác chính trị trong khu vực, nếu không toàn bộ liên minh các nước sử dụng chung đồng Euro có thể sẽ sụp đổ hoàn toàn. Như vậy, châu Âu đang đứng trước những thách thức lớn và chỉ khi những nguyên nhân căn bản được giải quyết thì những rắc rối mới không nảy sinh. Các phân tích đã cảnh báo rằng cho dù EU có thể giải quyết được cuộc khủng hoảng nợ lần này của Hy Lạp, nhưng trong tương lai chắc chắn vẫn sẽ phải đối mặt với một thử nghiệm lớn hơn nếu vẫn chưa thành lập được liên minh cả về kinh tế và chính trị. Đánh giá, nhận định về những giải pháp ứng phó và dự báo diễn biến mức độ ảnh hưởng lan toả tiếp theo trong thời gian tới. Khủng hoảng tài chính toàn cầu bắt nguồn từ nước Mỹ đã lan rộng khắp thế giới với những ảnh hưởng nặng nề buộc chính phủ các nước phải chi rất nhiều tiền để hạn chế những tác động tiêu cực. Có thể khẳng định giai đoạn tồi tệ nhất của khủng hoảng đã qua đi nhưng những tác động của nó vẫn còn tồn tại ở nhiều nơi. Nước Mỹ là nơi khởi nguồn cuộc khủng hoảng nhưng đến nay kinh tế Mỹ đang có những dấu hiệu phục hồi và đà hồi phục tỏ ra vững chắc, bất chấp khủng hoảng nợ ở châu Âu. Hơn nữa, các nhà lập pháp Mỹ đã có những đạo luật mang tính lịch sử để cải cách mạnh mẽ và sâu rộng hệ thống tài chính Mỹ. Trong khi đó, châu Âu với những nhược điểm về cơ chế tài chính như đã phân tích ở trên sẽ vẫn phải đối mặt với những thách thức và khó có thể giải quyết tận gốc nếu không có sự đồng lòng, hợp tác và đưa ra đạo luật để giải quyết một cách triệt để các khó khăn tương tự như ở Mỹ. (1). Đánh giá chung về các biện pháp ứng phó khủng hoảng tài chính của các nước Sự lan rộng của khủng hoảng khiến cho Chính phủ nhiều nước phải bắt tay vào đối phó khủng hoảng nhằm hạn chế tác động xấu của khủng hoảng tài chính. Tuy nhiên các biện pháp ứng phó khủng hoảng tài chính của các Chính phủ trong thời gian vừa qua còn 8 mang tính cục bộ quốc gia, chưa cho thấy mối quan hệ hợp tác ứng phó đối với khủng hoảng trên phạm vi khu vực và thế giới. Cụ thể có một số biện pháp ứng phó với khủng hoảng đã được thực hiện như sau : STT Các biện pháp ứng phó của Chính phủ các nước 01 Quốc hữu hoá toàn bộ hoặc một phần ngân hàng và quỹ tư nhân 02 Kiểm soát các quỹ đầu tư 03 Mua cổ phần hoặc tài sản từ các tổ chức tài chính 04 Bãi bỏ thuế đối với các khoản đầu tư nước ngoài 05 Hạ lãi suất cơ bản 06 Vay tiền từ tổ chức tài chính quốc tế 07 Bảo lãnh tất cả các khoản tiền gửi, trái phiếu và nợ của một số ngân hàng lớn trong 02 năm. 08 Khuyến khích sáp nhập ngân hàng yếu kém 09 Cho phép một số ngân hàng tuyên bố phá sản 10 Mua lại các khoản nợ của các ngân hàng đang có vấn đề hoặc bị phá sản 11 Cấp tiền cho ngân hàng để trả các khoản nợ nước ngoài 12 Huy động tiền từ các nhà đầu tư toàn cầu để chống đỡ cơn khủng hoảng 13 Nới lỏng quy định cho phép các công ty mua cổ phiếu của chính họ Nhìn nhận về các biện pháp ứng phó khủng hoảng của các nước cho thấy đằng sau nó là một số vấn đề then chốt như sau : - Thứ nhất : Duy trì niềm tin cho các nhà đầu tư, người dân về chính sách hỗ trợ của Chính phủ đối phó với khủng hoảng Chính phủ các nước đã đổ rất nhiều tiền vào các gói giải pháp ứng phó khủng hoảng. Tuy nhiên, niềm tin vào hiệu quả do các chính sách đó mang lại đối với đầu tư và người dân chưa thật sự cao. Thị trường tài chính thế giới vẫn ảm đạm : thị trường chứng khoán sụt giảm, thị trường bất động sản không khởi sắc và thiếu tính thanh khoản, thị trường tiền tệ ngân hàng vẫn còn trong giai đoạn chờ đợi phục hồi. - Thứ hai : Phòng chống rủi ro đỗ vỡ thanh khoản toàn hệ thống tài chính, đặc biệt là đổ vỡ khủng hoảng cho vay cầm cố dưới tiêu chuẩn Việc hỗ trợ của Chính phủ đối phó với khủng hoảng nợ cho vay thế chấp dưới tiêu chuẩn đã được thực thi thông qua nhiều biện pháp nhằm nâng cao năng lực tài chính của 9 các tổ chức tài chính và ngân hàng như quốc hữu hoá ngân hàng, khuyến khích sáp nhập ngân hàng, mua lại các khoản nợ của các ngân hàng có vấn đề hoặc bị phá sản,… Biện pháp này đã và đang phát huy tác dụng về mặt ngăn ngừa tác động ảnh hưởng đổ vỡ hệ thống tài chính. Thế nhưng chi phí cho gói giải pháp này vẫn đang tiếp tục tăng lên và chưa có dấu hiệu kết thúc, điển hình là danh sách ngân hàng và các tổ chức tài chính cần được hỗ trợ không ngừng tăng lên và mức độ bơm tiền của Chính phủ vào hệ thống tài chính lại tuỳ thuộc vào khả năng của từng Chính phủ khi thi hành biện pháp này. - Thứ ba : Khủng hoảng tín dụng lan sang khủng hoảng tài chính và khủng hoảng kinh tế Một thực tế cho thấy việc ứng phó khủng hoảng trong thời gian qua của Chính phủ đã không lường hết tính liên thông thị trường của hệ thống tài chính. Khủng hoảng cho vay cầm cố dưới chuẩn làm năng lực tài chính của hệ thống ngân hàng và các quỹ đầu tư bất động sản trở nên yếu kém. Các tổ chức tài chính và ngân hàng liên tiếp tuyên bố lỗ và trông chờ ứng cứu của Chính phủ hoặc phải sáp. Cuộc khủng hoảng sau đó đã lan nhanh sang các nước khác và ảnh hưởng của nó không chỉ trong phạm vi quốc gia mà trên cả thế giới với nhiều mức tác động khác nhau tuỳ theo tình hình cụ thể của từng quốc gia. - Thứ tư : Hiệu ứng của khủng hoảng kinh tế tài chính và vấn đề an sinh xã hội Khủng hoảng kinh tế tài chính đã tác động không nhỏ đến vấn đề an sinh xã hội như làm cho thất nghiệp gia tăng, thu nhập của dân cư giảm và đầu tư hạn chế. Vấn đề này đã khiến cho Chính phủ các nước ngoài việc thực thi các biện pháp ứng phó khủng hoảng còn phải chi thêm tiền cho các tác động ảnh hưởng của khủng hoảng, cụ thể : - Ứng cứu ngân hàng và các tổ chức tài chính còn phải tăng thêm chi phí cho bảo hiểm xã hội, hỗ trợ những người bị thất nghiệp. - Hỗ trợ thanh khoản cho các khoản nợ dưới tiêu chuẩn ngoài việc tăng tính thanh khoản và tăng năng lực tài chính cho ngân hàng, còn là việc giãn nợ cho người dân đang nợ tiền ngân hàng để mua nhà nhưng không trả được nợ, góp phần hạn chế sự tiêu cực của cuộc khủng hoảng tài chính lên nhóm đối tượng đang gặp khó khăn này. - Tăng cường chi tiêu cho hoạt động tái dạy nghề cho những người bị thất nghiệp nhằm giúp họ chuyển hướng nghề nghiệp mới trong giai đoạn kinh tế khó khăn, thất nghiệp gia tăng. (2). Dự báo diễn biến, mức độ ảnh hưởng lan toả tiếp theo trong thời gian tới. Hệ thống tài chính đã ổn định, nhưng những căng thẳng mà tình hình tài khoá, cải cách và việc từ bỏ chính sách hỗ trợ gây ra vẫn còn ở phía trước. Những rủi ro hệ thống tiếp tục giảm đi nhờ các nền tảng kinh tế đã được cải thiện và hỗ trợ chính sách công lớn vẫn đang thực hiện. Cho dù có những cải thiện thì sự ổn định tài chính vẫn còn rất mong manh tại nhiều nước đã phát triển và một số các nước thị trường mới nổi chịu tác động mạnh của 10 khủng hoảng. Ưu tiên hàng đầu là cải thiện sức khoẻ của các hệ thống ngân hàng này để đảm bảo là kênh tín dụng hoạt động bình thường trở lại. Việc chuyển các rủi ro tài chính sang các bảng cân đối của chính phủ và các mức nợ công cao hơn cũng bổ sung thêm vào những rủi ro ổn định tài chính và làm phức tạp quá trình từ bỏ các hỗ trợ kinh tế. Về tổng thể, việc rời bỏ các biện pháp hỗ trợ chưa từng có tiền lệ được thực hiện trong thời gian khủng hoảng để sang một hệ thống tài chính an toàn hơn là cần thiết nhằm hỗ trợ cho sự tăng trưởng bền vững. Đạt được sự cân bằng giữa tính an toàn và tính năng động sẽ không phải là chuyện dễ dàng. Điều này đòi hỏi phải có sự chú ý đặc biệt từ phía các nhà hoạch định chính sách. Các nhà hoạch định chính sách cũng nên tránh các rủi ro gắn với việc triển khai quá nhanh quy định điều tiết mới mà không có các nghiên cứu thích đáng xem liệu ảnh hưởng chung của chúng thế nào. Để cải cách chính sách thành công, các quy định an toàn vĩ mô và vi mô sẽ phải bổ sung cho nhau và giúp giảm thiểu có hiệu quả các rủi ro hệ thống. Chỉ khi đó hệ thống tài chính có thể thực hiện được tốt chức năng của nó - trung gian các luồng vốn giữa bên tiết kiệm và bên đi vay theo các cách giúp cải thiện sự tăng trưởng kinh tế bền vững và ổn định tài chính. II. Đánh giá tổng quan tác động của kinh tế thế giới đến kinh tế Việt nam 1. Tác động của kinh tế thế giới và yêu cầu tái cấu trúc nền kinh tế của Việt nam Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế thế giới không tránh khỏi sự ảnh hưởng từ diễn biến kinh tế toàn cầu. Những tác động từ cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế thế giới trước đây (từ tháng 9/2008) đối với Việt Nam được đánh giá là ít hơn các nước khác trong khu vực, nền kinh tế chỉ mới chững lại nhưng chưa rơi vào suy thoái. Sớm nhận thức được ảnh hưởng của khủng hoảng, từ đầu Quý IV/2008, Chính phủ đã chuyển mục tiêu từ ưu tiên kiềm chế lạm phát sang ưu tiên ngăn chặn suy giảm tăng trưởng, coi trọng ổn định kinh tế vĩ mô và đảm bảo an sinh xã hội. Mặc dù đã đạt được những kết quả đáng kể trong năm 2009 như kiềm chế được lạm phát ở mức 6,52%, tăng trưởng GDP đạt 5,32% trong bối cảnh kinh tế thế giới tăng trưởng âm, kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, tuy nhiên hầu hết các lĩnh vực liên quan đến thế giới đều bị tác động mạnh, trong đó, giá trị xuất khẩu giảm 9,7% trong năm 2009, du lịch giảm 15,4%, thu hút vốn đầu tư nước ngoài giảm trên 70%. Trong quá trình đổi mới và phát triển kinh tế, nền kinh tế Việt Nam ngày càng hội nhập sâu vào kinh tế thế giới, cụ thể Việt nam đã gia nhập AFTA và WTO. Việc hội nhập kinh tế thế giới sẽ ảnh hưởng đến nền kinh tế Việt Nam thông qua hai thị trường chính là thị trường hàng hoá, dịch vụ và thị trường tài chính. 11 Cuối Quý II/2009, các tín hiệu lạc quan về tình hình kinh tế thế giới và các nước lớn đã xuất hiện ngày càng nhiều hơn, kinh tế thế giới dần hồi phục. Tại Việt nam, tăng trưởng kinh tế hồi phục rõ nét với tốc độ tăng trưởng GDP tăng dần qua từng Quý : Quý I (3,1%), quý II (4,5%), quý III (5,8%) và quý IV (6,9%). Biểu đồ 1 : Tăng trưởng GDP Việt nam và thế giới Nguồn : VietCapital Tiếp nối những thành quả đạt được trong năm 2009, sang năm 2010, các giải pháp và chính sách của Chính phủ là hoàn toàn sáng suốt, kịp thời, tạo tiền đề cho tăng trưởng kinh tế, ổn định vĩ mô năm 2010. Nổi bật là thông điệp đầu năm 2010 của Thủ tướng Chính phủ đã xác định rõ trọng tâm 5 giải pháp nhiệm vụ cho năm 2010, làm kim chỉ nam cho các Bộ ban ngành lên kế hoạch thực hiện. Trong đó nhóm nhiệm vụ thứ 2 "tập trung thúc đẩy đầu tư, phát triển sản xuất kinh doanh và tái cấu trúc nền kinh tế", theo chúng tôi, là chìa khoá cánh cửa tăng trưởng bền vũng, ổn định về lâu về dài. Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tại Diễn đàn Kinh tế Thế giới Đông Á được tổ chức ngày 06/06/2010 đã khẳng định : "Trong giai đoạn hậu khủng hoảng, mỗi quốc gia cần dựa vào thị trường trong nước hơn nhưng vẫn hướng tới xuất khẩu để phát triển cân bằng hơn, hiệu quả hơn và bền vững hơn. Để đẩy mạnh nhu cầu nội địa, Việt Nam phải đảm bảo duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế cao vì chỉ khi tăng trưởng cao, đời sống người dân được cải thiện thì thị trường trong nước mới được mở rộng. Mở rộng thị trường trong nước đi liền với đẩy mạnh xuất khẩu qua đó từng bước cân bằng để có cơ cấu, mô hình phát triển bền vững hơn". Mục tiêu cuối cùng của chuyển dịch cơ cấu kinh tế là tăng nhanh năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế, của doanh nghiệp và từng sản phẩm. Nhìn vào đặc thù nền kinh tế nước ta, để đạt được mục tiêu đó phải chuyển đổi cơ bản từ một nền kinh tế nông nghiệp nhỏ lẻ, lạc hậu sang một nền nông nghiệp tiên tiến, hiện đại; một nền công nghiệp chủ yếu dựa trên khai thác tài nguyên khoáng sản và lắp ráp, gia công sang các ngành công nghiệp chế tạo, chế biến. Đặc biệt, phát triển mạnh các ngành dịch vụ, nhất là các ngành dịch vụ có giá trị gia tăng cao. Tái cấu trúc nền kinh tế là yêu cầu thường xuyên của bất cứ nền kinh tế nào, nhất là trong bối cảnh kinh tế thế giới biến động càng đòi hỏi mỗi quốc gia có sự linh hoạt, năng động để thích ứng. Trong bối cảnh nền kinh tế nước ta ngày càng hội nhập sâu và trong điều kiện kinh tế thế giới chưa thật sự hồi phục sau khủng hoảng, việc tái cơ cấu nền kinh tế nước ta phải giải 12 quyết các vấn đề lớn sau : (1) tạo nền tảng vững chắc để chuyển dịch cơ cấu kinh tế bằng cách tạo ra sự cải cách đột biến về thể chế, hoàn thiện hơn nữa thể chế kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với lộ trình cam kết WTO; (2) phát triển cơ sở hạ tầng, thúc đẩy đầu tư một cách thông suốt cả về chiều sâu và trên diện rộng; và (3) phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế. 2. Khái quát các kết quả kinh tế đạt được trong 6 tháng đầu năm 2010 Cùng với sự hồi phục của kinh tế thế giới, kinh tế Việt nam 6 tháng đầu năm 2010 đã có những nét khởi sắc. Trong 6 tháng đầu năm 2010, Chính phủ đã điều chỉnh chính sách điều hành nền kinh tế hướng về mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô, tăng trưởng bền vững. Trong các phiên họp thường kỳ hàng tháng, Chính phủ đều tổng kết tình hình thực tế và ban hành các quyết sách kịp thời. Tiêu biểu nhất là Nghị quyết số 18/NQ-CP ngày 06/4/2010 về bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, không để lạm phát cao, đạt tốc độ tăng trưởng khoảng 6,5% trong năm 2010. Bên cạnh đó là Nghị quyết số 23/NQ-CP ngày 07/5/2010, Chính phủ điều chỉnh mục tiêu phấn đấu kiềm chế lạm phát ở mức 8% và yêu cầu Ngân hàng Nhà nước phải có biện pháp phù hợp để khẩn trương hạ lãi suất huy động xuống khoảng 10% và lãi suất cho vay khoảng 12%. Tổng hợp kết quả đạt được cũng như những điểm còn hạn chế trong 6 tháng đầu năm 2010 như sau :  Những nét tích cực : Nền kinh tế phục hồi tăng trưởng khá nhanh và khởi sắc.  Tăng trưởng GDP đạt mức khá cao và trên cả 3 ngành công nghiệp, dịch vụ và nông lâm nghiệp, thuỷ sản.  Lượng vốn FDI giải ngân vẫn duy trì tốc độ khá, đạt khoảng 50% kế hoạch năm; lượng vốn ODA giải ngân đạt 57% kế hoạch năm.  Lạm phát được kiểm soát chặt chẽ, không tăng cao dưới áp lực tăng trưởng tín dụng đột biến gần 38% năm 2009.  Căng thẳng thanh khoản của hệ thống ngân hàng được giải quyết nhờ NHNN đã chủ động bơm vốn với khối lượng lớn thông qua OMO, tái cấp vốn.  Thị trường ngoại hối thanh khoản tốt, nguồn cung hết sức dồi dào.  Những điểm hạn chế :  Chưa có sự bứt phá về thu hút vốn FDI, lượng vốn đăng ký còn rất hạn chế, chỉ đạt 1/3 kế hoạch năm.  Thâm hụt thương mại tiếp tục xấu đi do tốc độ tăng trưởng của xuất khẩu mặc dù được cải thiện nhưng vẫn thấp hơn nhiều so với tốc độ tăng của nhập khẩu.  Tăng trưởng tín dụng ở mức thấp, mới đạt 41% so với kế hoạch năm.  Mức lãi suất huy động và lãi suất cho vay khá cao vẫn tồn tại khi lộ trình giảm lãi suất "vào 10, ra 12" bắt đầu được triển khai. 13 Bảng 2 : Tổng hợp các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô 6 tháng đầu năm 2010 Chỉ tiêu TH 2009 KH 2010 TH 6 tháng 2010 Tăng trưởng GDP 5,32% 6,5% 6,16% Lạm phát 6,88% 8% 8,75% Cán cân thương mại Thâm hụt 12,2 tỉ USD Thâm hụt 12-13 tỉ USD (Xuất khẩu tăng 6%, Nhập khẩu tăng 5- 6%) Thâm hụt 6,8 tỉ USD (Xuất khẩu tăng 15,7% Nhập khẩu tăng 29,4%) FDI đăng ký 21,48 tỉ USD 22-25 tỉ USD 8,43 tỉ USD FDI giải ngân 10,73 tỉ USD 10-11 tỉ USD 5,4 tỉ USD Kiều hối 6,8 tỉ USD 7 tỉ USD 3,6 tỉ USD ODA giải ngân 1,99 tỉ USD 2,47 tỉ USD 1,41 tỉ USD Tăng trưởng TD 37,7% 25% 10,52% Lãi suất cơ bản (%/năm) Duy trì lãi suất 7% (T2 đến T12), sau đó điều chỉnh tăng lên 8% Dao động trong khoảng 7-9% Giữ nguyên mức 8%. Từ tháng 2/2010 áp dụng cơ chế LS thoả thuận đối với cho vay TDH và từ tháng 4/2010 áp dụng cơ chế LS thoả thuận đối với cho vay ngắn hạn Tỷ giá USD/VND Tỷ giá bình quân liên ngân hàng dao động từ 16.934- 17.961 VND giảm gía khoảng 3% so với USD Tỷ giá bình quân liên ngân hàng tăng 3,36% lên mức 18.544 Kết quả thực hiện các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô của Việt nam 6 tháng đầu năm 2010 cho thấy, mặc dù đã có bước phục hồi nhanh, vững chắc, nhưng kinh tế Việt nam vẫn còn nhiều khó khăn phải đối mặt, nhất là trước các ảnh hưởng, tác động từ diễn biến kinh tế thế giới sau khủng hoảng tới các lĩnh vực như xuất khẩu khó khăn, FDI suy giảm, luồng vốn đầu tư gián tiếp hạn chế, đòi hỏi Chính phủ phải có sự theo dõi, phân tích và có giải pháp linh 14 hoạt, kịp thời. Những phân tích dưới đây cho thấy rõ nét hơn các tác động ảnh hưởng đến từng lĩnh vực trong nền kinh tế. III. Phân tích, đánh giá tác động đến các lĩnh vực trong nền kinh tế 1. Công nghiệp và bán lẻ Nếu như tác động của sau khủng hoảng tài chính toàn cầu thể hiện rất rõ nét qua cán cân thương mại và hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam, thì đối với hoạt động sản xuất công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ tác động của khủng hoảng cũng có thể quan sát thấy trên bình diện rộng, tuy không rõ nét bằng như đối với hoạt động xuất nhập khẩu. Về hoạt động sản xuất công nghiệp Trong những tháng đầu năm 2009, khi cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới đang có tác động mạnh, ngành công nghiệp Việt Nam phát triển chậm, với tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất công nghiệp (GTSXCN) quý I chỉ tăng 2,7%. Tuy nhiên, bước sang quý II, khi những nền kinh tế lớn trên thế giới bắt đầu có dấu hiệu hồi phục, cùng với việc triển khai quyết liệt các giải pháp của Chính phủ, công nghiệp Việt Nam đã có bước phát triển khả quan hơn, với tốc độ tăng trưởng GTSXCN đạt 4,6%. Tiếp tục xu hướng này, trong quý III, ngành đạt tốc độ tăng trưởng GTSXCN là 6,4 % và quý IV tăng 9,5% đã góp phần đưa tốc độ tăng trưởng công nghiệp cả năm 2009 đạt khoảng 7,6%. Biểu đồ 2 : GTSXCN các tháng 2007 – 2009 Nguồn : Bộ Công thương Biểu đồ 3 : Tăng trưởng GTSXCN phân theo thành phần kinh tế Nguồn : Bộ Công thương Cơ cấu công nghiệp theo thành phần kinh tế tuy có chuyển dịch nhưng khá chậm : - Khu vực kinh tế nhà nước chiếm tỉ trọng 19,4% (giảm 0,3% so với năm 2008). - Khu vực kinh tế ngoài nhà nước chiếm tỉ trọng 35,7% (tăng 0,1% so với năm 2008). - Khu vực đầu tư nước ngoài chiếm tỉ trọng 44,9% (tăng 0,2% so với năm 2008). 0 10.000 20.000 30.000 40.000 50.000 60.000 70.000 T1 T2 T3 T4 T5 T6 T7 T8 T9 T10 T11 T12 NĂM 2007 NĂM 2008 NĂM 2009 15 Bước sang 6 tháng đầu năm 2010, sản xuất công nghiệp vẫn có sự tăng trưởng khá tốt với giá trị ước đạt 366,11 nghìn tỉ đồng, tăng 13,6% so với cùng kỳ năm 2009. Về hoạt động thương mại trong nước Trong bối cảnh xuất khẩu giảm sút, mặc dù điều kiện kinh tế gặp nhiều khó khăn, nhưng hoạt động thương mại trong nước vẫn tăng trưởng khá, diễn biến các tháng trong năm vẫn theo quy luật hàng năm, luôn duy trì xu hướng tăng dần, tuy mức tăng cả năm 2009 chưa bằng mức tăng của năm 2008 (tăng trên 30%). Tổng mức bán lẻ hàng hoá và dịch vụ xã hội tăng bình quân hàng tháng xấp xỉ 2%, càng về cuối năm tăng càng cao trên 5%/tháng, cả năm ước đạt khoảng 1.197,5 nghìn tỉ đồng, tăng 18,6% so với năm 2008 (nếu loại trừ yếu tố giá, mức tăng là 11%). Xét về cơ cấu tổng mức bán lẻ theo loại hình kinh tế năm 2009, kinh tế nhà nước đạt 116,2 nghìn tỉ đồng chiếm 9,7%, kinh tế ngoài nhà nước đạt 1.049,9 tỉ nghìn đồng, chiếm 87,7% và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đạt 31,3 nghìn tỉ đồng chiếm 2,6%. So sánh qua các năm cho thấy, các thành phần kinh tế ngoài nhà nước ngày càng đóng góp nhiều hơn vào tổng mức lưu chuyển hàng hoá dịch vụ toàn xã hội, chiếm tỉ trọng tăng dần so với các thành phần kinh tế nhà nước và đầu tư nước ngoài. Biểu đồ 4 : Cơ cấu tổng mức lưu chuyển hàng hoá phân theo loại hình kinh tế Nguồn : Bộ Công thương Tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ xã hội tháng 6 tháng đầu năm 2010 ước đạt 747,4 nghìn tỉ đồng, tăng 26,7% so với cùng kỳ năm 2009. Xét theo loại hình kinh tế, kinh tế Nhà nước có mức tăng trưởng cao nhất 44,9%, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài tăng 41,1%; kinh tế ngoài Nhà nước tăng 24,4% so với cùng kỳ. Xét theo ngành kinh tế, ngành Thương nghiệp tăng 27,6%; ngành Du lịch dịch vụ tăng 24,8%; ngành Khách sạn, nhà hàng tăng 22,1% so với cùng kỳ. Có thể rút ra kết luận rằng, trong điều kiện hậu khủng hoảng, khi các thị trường xuất khẩu chính của Việt Nam phục hồi chậm chạp và còn nhiều bất ổn thì thị trường trong nước với gần 90 triệu dân là một thị trường đầy tiềm năng để các doanh nghiệp trong nước tiếp tục tận dụng, khai thác. 2. Xuất nhập khẩu Suy thoái kinh tế toàn cầu có tác động đáng kể đến xuất nhập khẩu của Việt Nam, kênh truyền dẫn tác động của suy thoái chính là xuất khẩu với tổng giá trị xuất khẩu hàng Cơ cấu tổng mức lưu chuyển hàng hoá phân theo loại hình kinh tế 0% 20% 40% 60% 80% 100% 20 05 20 06 20 07 20 08 20 09 Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài Kinh tế ngoài Nhà nước Kinh tế Nhà nước 16 năm tương đương 60% GDP. Trong năm 2009, giá trị xuất khẩu của Việt Nam giảm 9,7%, sự sụt giảm này tuy thấp so với hầu hết các quốc gia đang phát triển khác, song đã làm cho năm 2009 trở thành năm đầu tiên có tăng trưởng xuất khẩu âm kể từ khi Việt Nam bắt đầu cải cách kinh tế. Giá trị nhập khẩu cũng giảm 14,7% phản ánh mức cầu nội địa đối với các hàng hoá nhập khẩu suy giảm. Biểu 5 : Tăng trưởng XNK 2007-2009 Biểu 6 : Kim ngạch XNK 6 tháng đầu năm 2010 (Đơn vị : %) (Đơn vị : triệu USD) Nguồn : Bloomberg Nguồn : TCTK, Bộ Công thương Từ quý II/2009, khi nền kinh tế thế giới có sự phục hồi tăng trưởng trở lại cùng với chính sách kích thích kinh tế của Chính phủ, hoạt động xuất nhập khẩu đã có những diễn biến tích cực. Tuy nhiên do nhu cầu nhập khẩu tăng cao trở lại trong khi kim ngạch xuất khẩu cải thiện ở mức thấp hơn, điều này dẫn đến tình trạng thâm hụt cán cân thương mại gia tăng, nhập siêu cả năm 2009 ở mức 12,2 tỉ USD, tương đương 22% giá trị kim ngạch xuất khẩu và 13% GDP. 6 tháng đầu năm 2010, xu hướng phục hồi tại các nền kinh tế lớn đã được khẳng định mặc dù có chậm hơn dự báo. Các thị trường xuất khẩu chính của Việt Nam cũng có diễn biễn tốt mặc dù chưa thực sự bền vững. Tổng kim ngạch xuất khẩu 6 tháng ước đạt 32 tỉ USD, tăng 16% so với cùng kỳ 2009, hoàn thành 53% kế hoạch cả năm. Sự phục hồi diễn ra mạnh mẽ trong các ngành sử dụng nhiều lao động như dệt may (17,2%), điện tử (31,4%), thuỷ sản (14,2%). Trong khi đó, nhập khẩu có mức tăng nhanh hơn : 6 tháng đầu năm 2010 đạt 38,8 tỉ USD, tăng 29,4% so với cùng kỳ 2009, thâm hụt thương mại đứng ở mức 6,8 tỉ USD (tương đương 20,8% giá trị xuất khẩu). 3. Thu hút đầu tư Nguồn tín dụng đang dần trở nên cạn kiệt của thế giới trong khủng hoảng đã làm cho hoạt động đầu tư trực tiếp và gián tiếp suy giảm trên phạm vi toàn cầu và Việt Nam không 17 phải là một ngoại lệ. Dòng vốn FDI sau khi đạt mức kỷ lục vào năm 2008 đã giảm xuống mức thấp vào năm 2009. Biểu 7 : Vốn FDI 2006 - 6 tháng đầu 2010 Biểu 8 : FDI các tháng đầu năm 2010 (Đơn vị : tỉ USD) (Đơn vị : tỉ USD) Nguồn : Cục đầu tư nước ngoài – Bộ KHĐT Nguồn : Tổng cục Thống kê 6 tháng đầu năm 2010, cùng với đà phục hồi tăng trưởng của nền kinh tế thế giới, FDI giải ngân duy trì tốc độ khá, đạt khoảng 50% kế hoạch năm trong khi lượng vốn ODA giải ngân đạt 57% kế hoạch năm. Giải ngân FDI mỗi tháng bình quân đạt 900 triệu USD, tăng khoảng 6% so với cùng kỳ năm 2009. Mặc dù vậy, FDI đăng ký chưa thực sự có sự bứt phá khi lượng vốn đăng ký chỉ đạt 1/3 kế hoạch của năm. Tuy nhiên, thu hút vốn FDI cũng có những chiều hướng tích cực khi có sự cải thiện đang kể về cơ cấu vốn theo ngành nghề. Đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực dịch vụ, chế tạo và công nghệ cao dần thay thế cho lĩnh vực khách sạn, bất động sản để trở thành những lĩnh vực chủ lực. Trong 6 tháng 2010, công nghiệp chế biến, chế tạo là lĩnh vực thu hút nhiều sự quan tâm của các nhà đầu tư nước ngoài với 164 dự án, tổng số vốn đầu tư 2,87 tỉ USD, chiếm 34% tổng vốn FDI đăng ký. Bên cạnh đó, nguồn vốn đầu tư gián tiếp (FII) đã được cải thiện đáng kể so với năm ngoái, cho dù còn thua xa đỉnh cao của năm 2007. Theo Ngân hàng Nhà nước, luồng vốn FII tiếp tục duy trì xu hướng thặng dư sau khi bị thâm hụt trong năm 2009. Tính chung 6 tháng đầu năm 2010, vốn FII ròng đạt mức thặng dư 1,8 tỉ USD (trong đó bao gồm 800 triệu các nhà đầu tư nước ngoài mua ròng trên thị trường chứng khoán). Trong dài hạn, cùng với niềm tin của nhà đầu tư về tăng trưởng kinh tế toàn cầu được củng cố và tiềm năng phát triển của thị trường Việt Nam, dòng vốn FDI và FII vào nước ta sẽ có nhiều triển vọng tích cực. Để phát huy những lợi thế từ nguồn vốn FDI, cần chú trọng thu hút vốn gắn liền với kế hoạch tái cơ cấu nền kinh tế. Trong đó, có biện pháp 18 để hướng dòng vốn FDI vào những lĩnh vực quan trọng có giá trị gia tăng cao, đi kèm với chuyển giao công nghệ hiện đại và các ngành sản xuất có tỉ trọng xuất khẩu lớn. Về nguồn vốn ODA : Trên cơ sở nhận định lạc quan về việc Việt nam đã đối phó tốt trước khủng hoảng kinh tế, khả năng phục hồi nhanh và sẽ sớm lấy lại đà tăng trưởng, các nhà đầu tư đã cam kết một mức vốn kỷ lục 8 tỉ USD năm 2010. Đây là một tín hiệu đáng mừng nhưng cũng đặt ra không ít thách thức trong việc sử dụng hiệu quả vốn vay, tính toán các điều kiện đi kèm và tương quan đối với các nguồn vốn trong và ngoài nước khác. Ngoài ra đối với vẫn đề vay nợ cần được xem xét cẩn trọng do Việt Nam hiện đang có tỉ lệ nợ trên GDP ở mức 39%, áp lực trả nợ ngày càng lớn khi tiền đồng tiếp tục mất giá, đồng yên và euro tăng cao trong khi Nhật Bản và khối EU vẫn là các quốc gia tài trợ quan trọng nhất. 4. Tài chính – ngân hàng Diễn biến lãi suất Với những diễn biến khủng hoảng kinh tế thế giới từ năm 2008 đến đầu năm 2009, đồng thời với khủng hoảng nợ công đầu năm 2010, ngay cả khi kinh tế đã ngừng suy giảm nhưng vẫn còn chưa vững chắc, để tăng cường cho sự phục hồi của nền kinh tế, nhiều ngân hàng trung ương các nước phát triển vẫn duy trì mức lãi suất sàn thấp lịch sử và chấp nhận lạm phát trong chừng mực nhất định. Lãi suất cơ bản tiệm cận 0% ở hầu hết các nước : FED (Mỹ) : 0,25%; ECB (EU) : 1%; BOE (Anh) : 0,5%; Nhật Bản 0,1%. Tuy nhiên, ở Việt Nam với lo ngại về sức ép lạm phát, NHNN đã thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt một cách cẩn trọng. Lãi suất cơ bản sau khi tăng 1% lên đến mức 8% từ tháng 12 năm 2009 đã giữ nguyên trong 7 tháng đầu năm 2010. Sau khi NHNN dỡ bỏ trần lãi suất cho vay theo mức bằng 150% LSCB, lãi suất cho vay của các NHTM tăng từ 2- 3%. Các doanh nghiệp phải vay vốn với lãi suất khoảng 14-16%/năm với kỳ hạn ngắn và khoảng 14,5-17%/năm với kỳ hạn trung, dài hạn. Lãi suất huy động vốn vẫn được các ngân hàng duy trì ở mức cao, cá biệt nhiều ngân hàng đã niêm yết lãi suất tới mức 11,99% hoặc kèm theo các hình thức khuyến mại. Trong quá trình thực hiện cho vay theo cơ chế trần lãi suất, nhiều ngân hàng đã áp dụng hình thức "lách" trần thông qua thu phí cho vay, tập trung từ cuối năm 2009 đến đầu năm 2010. Đặc biệt là thời điểm từ cuối năm 2009 đến trước tết Nguyên đán năm 2010, đứng trước những khó khăn về thanh khoản, các NHTM đều mong muốn được dỡ bỏ cơ chế trần lãi suất để linh hoạt hơn trong việc điều hành lãi suất cho vay và huy động vốn, góp phần loại bỏ các hình thức bóp méo về lãi suất cho vay cũng như chi phí huy động vốn. Trước yêu cầu đó, cơ chế lãi suất thoả thuận đã được NHNN hé mở từ tháng 1/2009 với Thông tư quy định về cho vay theo lãi suất thoả thuận đối với các nhu cầu vốn phục vụ đời sống. Đến tháng 2/2010, một lần nữa cơ chế trần lãi suất lại được dỡ bỏ dần khi NHNN Thông tư số 07/2010/TT-NHNN quy định về cho vay bằng VND theo lãi suất thoả thuận của các tổ chức tín dụng đối với khách hàng đối với các khoản vay trung và dài hạn. Ngày 14/4/2010, 19 NHNN ban hành Thông tư số 12/2010/TT-NHNN quy định về cơ chế cho vay theo lãi suất thoả thuận đối với cả ngắn và trung dài hạn; chính sách này của NHNN đã được các ngân hàng trong hệ thống hưởng ứng mạnh mẽ và cho đây là một quyết sách đúng đắn góp phần khơi thông nguồn vốn phục vụ sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế. Kể từ khi Chính phủ ban hành Nghị quyết 18/NQ-CP ngày 6/4/2010 về 6 giải pháp bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, không để lạm phát cao và đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế khoảng 6,5% trong năm 2010, NHNN đã thực hiện nhiều giải pháp nhằm hạ nhiệt lãi suất thị trường là tăng cường hỗ trợ vốn cho các NHTM qua kênh thị trường mở. Ngày 11/6, sau cuộc họp giữa NHNN và Hiệp hội ngân hàng cùng lãnh đạo các NHTM, thể hiện sự kiên trì với định hướng "vào 10, ra 12" (lãi suất huy động 10%, lãi suất cho vay 12%) và Thống đốc thông báo sẽ thanh tra các ngân hàng có lãi suất huy động 12%/năm, lãi suất huy động giảm nhẹ về quanh mức 11,5%/năm. Ngày 7/5/2010, Chính phủ ban hành Nghị quyết 23/NĐ-CP quy định hạ mức lãi suất huy động và cho vay lần lượt ở mức 10%/năm và 12%/năm. Lãi suất cho vay của các NHTM cũng đã hạ nhiệt, lãi suất cho vay VND bình quân thực tế của 4 ngân hàng thương mại nhà nước và 7 NHTMCP có quy mô lớn khoảng 13,3%; Lãi suất cho vay ngắn hạn phục vụ sản xuất nông nghiệp, nông thôn, xuất khẩu ở mức 12,5% - 13%/năm, cho vay trung và dài hạn khoảng 14%/năm (tương ứng với lãi suất cùng kỳ năm 2006, 2007). Tín dụng tăng trưởng thấp trong 6 tháng đầu năm 2010 Biểu 9 : Tăng trưởng TD, HĐV các tháng so với đầu năm 2010 (%) Nguồn : Ngân hàng Nhà nước Nhu cầu về tín dụng trung, dài hạn chưa có dấu hiệu cải thiện do áp lực lãi vay còn cao hơn khả năng sinh lời, nhiều NHTM đặt mục tiêu phát triển tín dụng ngắn hạn. Tuy nhiên, điều này cũng không dễ dàng. Khủng hoảng nợ công tác động tiêu cực đến các nền kinh tế châu Âu, ảnh hưởng đến tăng trưởng của các nước này. Thị trường xuất khẩu sang EU của Việt Nam bị thu hẹp lại. Thực tế, các ngân hàng đã nỗ lực để dành ưu đãi tốt nhất cho doanh nghiệp trong lĩnh vực xuất khẩu, nhưng trước diễn biến hiện nay hoạt động của các doanh nghiệp xuất khẩu gặp khó khăn, với mức lãi suất thoả thuận 12 - 12,5%/năm các doanh nghiệp này cũng chưa mạnh dạn tiếp cận vốn vay mở rộng kinh doanh. Tăng trưởng tín dụng của toàn hệ thống NHTM ở mức thấp (6 tháng đầu năm mới chỉ đạt 10,52% so với đầu năm). Tín dụng tăng chậm do nhiều nguyên nhân : do lãi suất cho 20 vay vẫn ở mức cao, do các doanh nghiệp chưa thể tiếp cận vốn vay từ ngân hàng, ngoài ra còn do các doanh nghiệp đang gặp khó khăn ở thị trường đầu ra. Theo thống kê, đến thời điểm 30/6/2010, có đến 1/6 lượng hàng công nghiệp tồn kho, tăng 27,5% so với cùng kỳ năm ngoái, nên trước mắt, khu vực sản xuất - kinh doanh khó hấp thụ được thêm lượng vốn lớn trong thời gian ngắn, dù lãi suất đã giảm. Theo nhận định của các chuyên gia kinh tế, với dư nợ tăng trưởng tín dụng toàn ngành 6 tháng đầu năm chỉ mới đạt trên 10%, trong đó chủ yếu là vốn vay bằng ngoại tệ thì việc thực hiện tốc độ tăng trưởng dư nợ khoảng 25% như mục tiêu Ngân hàng Nhà nước đề ra trong năm nay là không dễ. Trong khi nguồn thu của các NHTM chủ yếu vẫn là từ hoạt động tín dụng, với diễn biến chưa khả quan của thị trường tín dụng, nhiều khả năng các NHTM khó có thể hoàn thành kế hoạch lợi nhuận đặt ra trong năm 2010. Diễn biến thanh khoản của ngân hàng thương mại Trên thị trường liên ngân hàng, từ đầu năm 2010 đến tuần thứ 3 của tháng 2/2010, thanh khoản VND trên thị trường LNH hết sức căng thẳng, đặc biệt vào thời điểm giáp Tết Nguyên đán, lãi suất thị trường tăng vượt mức trần quy định 12%/năm. Trước tình hình đó, NHNN đã có những hỗ trợ kịp thời khiến thị trường nhanh chóng trở lại ổn định vào thời điểm cuối tháng 2. Từ sau Tết Nguyên đán (tuần cuối tháng 2) đến nay, tính thanh khoản của thị trường đã được cải thiện, nguồn cung VND dồi dào ở kỳ hạn ngắn dưới 1 tháng. Lãi suất giao dịch luôn xoay quanh mức lãi suất thị trưởng mở của NHNN. Trong tháng 6, thị trường LNH tiếp tục ổn định nguồn cung trên thị trường dồi dào khiến cho lãi suất duy trì ở mức thấp (lãi suất kỳ hạn O/N – 1 tuần phổ biến từ 6-7%; 2 tuần -1 tháng từ 7,2-8,6%). Một số thời điểm lãi suất giao dịch dưới cả lãi suất thị trường mở do nhu cầu thị trường ở mức thấp. Doanh số giao dịch tập trung ở các kỳ hạn ngắn, O/N – 2 tuần. Đến nay, nhu cầu vốn ngắn hạn của các NHTM đang gia tăng. Điều này thể hiện rất rõ qua giá trị giao dịch hàng ngày của các NHTM trên thị trường mở. Tuần thứ ba trong tháng 7, tổng lượng tiền chào thầu trên thị trường mở của NHNN là khá cao, đạt 61.000 tỉ đồng, tăng 3.000 tỉ đồng so với tuần trước đó, tỉ lệ vốn chào thầu so với vốn đăng ký đấu thầu giảm xuống 60,7% trong tuần trước so với mức 73% của tuần trước đó. Điều này là do lượng vốn đăng ký đấu thầu tăng 27,6%, lên mức 101.000 tỉ đồng trong tuần thứ ba của tháng 7 từ 79.400 tỉ đồng trong tuần trước đó. Khi nhu cầu vốn ngắn hạn của các NHTM tiếp tục tăng sẽ khiến lãi suất ngắn hạn trên thị trường liên ngân hàng tăng trong tương lai gần, đặc biệt là đối với vốn kỳ hạn 7 – 14 ngày. Xu hướng M&A trong ngành ngân hàng tài chính Ngoài ra, những diễn biến bất lợi và phục hồi chưa vững chắc của kinh tế toàn cầu đã ảnh hưởng đến thị trường chứng khoán thế giới từ đó gián tiếp ảnh hưởng đến thị trường chứng khoán Việt Nam, việc huy động vốn thông qua thị trường chứng khoán để tăng vốn điều lệ lên 3.000 tỉ trong năm 2010 đáp ứng quy định của NHNN (theo thống kê hiện còn 21 22 NHTMCP và 01 NHTMNN có số vốn điều lệ chưa đủ 3.000 tỉ đồng như quy định) và những nhu cầu tăng vốn để đảm bảo năng lực cạnh tranh của nhiều NHTMCP sẽ gặp nhiều khó khăn. Xu thế M&A trong lĩnh vực NH-TC dự báo sẽ sôi động trong thời gian tới. 5. Thị trường chứng khoán Thị trường chứng khoán vốn luôn được xem như hàn thử biểu của nền kinh tế, là nơi mà yếu tố tâm lý tác động rất mạnh đến động thái của các nhà đầu tư. Nếu quan sát tác động của cuộc khủng hoảng tài chính thế giới đến nền kinh tế thì không nơi nào thể hiện rõ nét và sống động như thị trường chứng khoán. Thị trường chứng khoán Việt Nam sau khủng hoảng có thể chia thành 02 giai đoạn chủ yếu : Giai đoạn phục hồi và tăng trưởng mạnh mẽ Nếu tính từ ngày 01/01/2009 đến 31/12/2009 thì VN- Index đã tăng thêm 171.96 điểm, tương đương với mức tăng 58%. Nếu tính từ đáy thấp nhất trong năm khi VN-Index ở mốc 234.66 điểm vào ngày 24/02/2009 và đỉnh nhất là 633.2 vào ngày 23/10/2009 thì VN- Index đã tăng 2.69 lần. Tương tự ở sàn HNX mức tăng trưởng trong năm 2009 của HNX- Index là 60.9%. Nếu so từ đáy thấp nhất 78.06 điểm lên đỉnh cao nhất trong năm 218.38 điểm thì HNX-Index đã tăng 2.79 lần. Biểu 10 :Diễn biến chỉ số Vn-index năm 2009 Mức vốn hoá của TTCK Việt Nam cuối năm 2009 khoảng 620 nghìn tỉ đồng, tăng gần gấp 3 lần so với cuối năm 2008 (225 nghìn tỉ đồng). Bảng 3 : Quy mô giao dịch thị trường chứng khoán 2006 2007 2008 2009 HOSE Khối lượng CP (triệu) 539 1,817 2,978 10,432 Giá trị tỉ VND 35,742 217,835 124,576 423,299 Giá TB 1 CP (VND) 66,37 119,9 41,832 40,577 22 2006 2007 2008 2009 HNX Khối lượng CP (triệu) 96 612 1,531 5,765 Giá trị tỉ VND 3,917 63,442 57,122 197,524 Giá TB 1 CP (VND) 40,97 103,63 37,31 34,263 Nguồn : HOSE và HNX Giai đoạn thị trường hạ nhiệt và dao động trong biên độ hẹp Thị trường chứng khoán Việt nam trong 6 tháng đầu năm 2010 dao động trong biên độ hẹp trên cả hai sàn do phụ thuộc nhiều vào tâm lý của nhà đầu tư, cũng như dòng tiền chảy vào thị trường trong thời gian qua do những biến động của kinh tế vĩ mô. VN-Index đạt mức thấp nhất ngày 22/01/2010 ở mức 447.59 điểm và đạt mức cao nhất ngày 06/05/2010 ở mức 549.51 điểm, với biên độ dao động tối đa là 23%, thấp hơn rất nhiều so với biên độ dao động 111% cùng kỳ năm ngoái. Hiện tượng tương tự cũng xảy ra trên sàn Hà Nội, khi HNX-Index dao động trong biên độ hẹp 23%, so với mức 129% cùng kỳ năm ngoái. Khối lượng giao dịch, tuy có sụt giảm so với 6 tháng cuối năm 2009 nhưng được duy trì ở mức ổn định, bình quân 1,850 tỉ đồng/ngày trên sàn HOSE và 1,079 tỉ đồng/ngày trên sàn Hà Nội. TTCK Việt Nam trong 6 tháng đầu năm tiếp tục được hỗ trợ bởi xu hướng mua ròng của NĐTNN. Trong khi nhà đầu tư trong nước còn đang thận trọng thì NĐTNN duy trì động thái mua bán ổn định và mua ròng trong suốt 6 tháng đầu năm mà không chịu ảnh hưởng nhiều từ biến động tăng giảm của cả hai chỉ số. Trong đó, đỉnh điểm là trong tháng 4/2010, NĐTNN đã mua ròng lên tới 2,313 tỉ đồng trên sàn HOSE. Qua biến động về tỉ trọng giao dịch cũng như giá trị giao dịch của NĐTNN, có thể thấy NĐTNN đã có gắn bó lâu dài với TTCKVN, luôn đặt kỳ vọng vào sự tăng trưởng trở lại của TTCK VN. 5. An sinh xã hội Khủng hoảng kinh tế thế giới đã tác động trực tiếp đến tình hình an sinh xã hội trong nước, đặc biệt là tình trạng mất việc làm và thu nhập giảm sút. Trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế, Bộ LĐTBXH dự báo số người mất việc làm trong năm 2009 là 400.000. Trước tình hình trên, ngày 23/2/2009 Thủ tướng đã có Quyết định số 30/2009/QĐ-TTg để hỗ trợ đối với lao động mất việc làm. Bên cạnh đó, hàng loạt các chương trình hành động nhằm đảm bảo đời sống cho nhân dân như tăng mức lương cơ bản cho người lao động trong doanh nghiệp và cán bộ công chức; tiếp tục hỗ trợ lương thực, hỗ trợ và tạo điều kiện để ổn định đời sống người dân; thực hiện các biện pháp xoá đói giảm nghèo; thực hiện chương trình nhà ở cho người nghèo, các đối tượng chính sách, nhà ở cho người lao động tại các khu công nghiệp tập trung, nhà ở và tín dụng ưu đãi cho học sinh, sinh viên. Nhìn chung, an sinh xã hội được quan tâm thường xuyên, đời sống dân cư có nhiều cải thiện. 23 Bước sang năm 2010, trước những diễn biến mới của kinh tế thế giới cũng như trong nước, Chính phủ tiếp tục thực hiện nhiều chính sách quan trọng để giải quyết hài hoà giữa các mục tiêu : kiềm chế lạm phát, ổn định thị trường tài chính tiền tệ và tăng trưởng kinh tế, đảm bảo an sinh xã hội. Xu hướng điều hành nền kinh tế của Chính phủ đang mong muốn hướng về mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô, giữ vững thành quả năm 2009 hơn là mục tiêu tăng trưởng như trong năm 2009. Các biện pháp lớn mà Chính phủ đã đề ra là : (i) tái cấu trúc nền kinh tế; (ii) nâng cao chất lượng tăng trưởng trước hết là nâng cao hiệu quả đầu tư và (iii) đảm bảo an sinh xã hội. Như vậy, công tác an sinh xã hội vẫn được đặc biệt quan tâm trong bối cảnh kinh tế có những tín hiệu chuyển biến tích cực. IV. Một số kiến nghị, đề xuất giải pháp Trên cơ sở các phân tích đánh giá như trên, nhằm góp phần thúc đẩy quá trình tái cấu trúc nền kinh tế, BIDV xin đề xuất một số giải pháp như sau : 1. Đối với lựa chọn tái cơ cấu kinh tế, ổn định dài hạn Chính phủ cần xem xét rà soát và có lộ trình khả thi triển khai đề án tái cơ cấu tổng thể nền kinh tế chi tiết đến ngành, địa phương. Song song với việc tái cơ cấu kinh tế, cần đổi mới quản trị và nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước, như tiếp tục quá trình chuyển đổi các doanh nghiệp nhà nước lớn sang hình thức cổ phần. Hình thành các tập đoàn kinh tế trong từng ngành, lĩnh vực then chốt nhằm tập trung sức mạnh vốn, công nghệ thành những trụ cột cho nền kinh tế. 2. Nhằm giảm thâm hụt cán cân thương mại, đối với một nước đang phát triển có nhu cầu lớn về nhập khẩu máy móc, nguyên vật liệu đầu vào phục vụ sản xuất như Việt Nam thì kiềm chế nhập khẩu đặt ra trong ngắn hạn là một thách thức lớn. Tuy nhiên, nhằm dần cải thiện tình trạng thâm hụt cán cân thương mại trong dài hạn thông qua việc đẩy mạnh xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu, các giải pháp cần phải thực hiện đồng bộ gồm : - Nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp sản xuất trong nước thông qua việc đầu tư, cải tiến thiết bị công nghệ, năng lực quản lý, tổ chức sản xuất,… nhằm tạo ra các sản phẩm nội địa chất lượng cũng như tạo uy tín của sản phẩm và doanh nghiệp Việt Nam. Qua đó, cả chất lượng và số lượng hàng xuất khẩu đều được nâng lên. - Tăng cường tỉ lệ nội địa hoá của sản phẩm thông qua việc sử dụng các chi tiết, linh kiện sản xuất nội địa, chỉ nhập khẩu máy móc thiết bị, nguyên liệu đầu vào cần thiết mà doanh nghiệp Việt Nam chưa thể sản xuất. Hạn chế nhập khẩu, đặc biệt là các mặt hàng tiêu dùng xa xỉ, không thiết yếu. - Đẩy mạnh thực hiện phong trào "Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam" nhằm thay đổi tâm lý "sính hàng ngoại" giúp đẩy mạnh tiêu dùng hàng hoá nội địa cũng như hạn chế hàng nhập khẩu. 24 3. Để tăng cường thu hút đầu tư nước ngoài : Việt Nam cần nỗ lực đẩy mạnh cải thiện môi trường kinh doanh bao gồm giải quyết những bất cập về hạ tầng, thủ tục hành chính, thực hiện các cam kết với quốc tế, minh bạch thông tin, tăng cường năng lực thể chế. Đây là những yếu tố cốt lõi để không chỉ giúp thu hút vốn đầu tư nước ngoài mà còn có tác động tích đối với phát triển kinh tế trong dài hạn cũng như khuyến khích được đầu tư tư nhân trong nước. Với mức vốn FDI đăng ký mới và tăng thêm trong 6 tháng đầu năm 2010 còn khiêm tốn như hiện nay, để đạt được mục tiêu thu hút vốn FDI từ 22 - 25 tỉ USD trong năm 2010 thì trong những tháng còn lại Chính phủ cần tăng cường các chính sách thu hút vốn như vận động xúc tiến đầu tư mạnh mẽ hơn, đẩy nhanh quá trình cải thiện môi trường đầu tư và cải cách thủ tục hành chính một cách đồng bộ. 4. Về chính sách tiền tệ - Nhờ sự hỗ trợ tích cực của NHNN qua kênh OMO trong những tháng đầu năm 2010, khả năng thanh khoản và nguồn vốn khả dụng của các ngân hàng thương mại đã tương đối ổn định. Các NHTM với sự đồng thuận cao đã có động thái giảm lãi suất huy động vốn, trước mắt xuống 11%, và mục tiêu cuối cùng là giảm xuống 10%. Do đó, trong 6 tháng cuối năm, NHNN cần tiếp tục sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ một cách linh hoạt và hỗ trợ kịp thời cho các NHTM giảm mặt bằng lãi suất kinh doanh và tăng thanh khoản cho nền kinh tế. Tuy nhiên, để ngăn ngừa lạm phát tăng cao, NHNN cần đặt ra lộ trình đối với các NHTM để hút vốn trở lại trong Quý IV/2010. - Các NHTM hiện nay đã đồng thuận giảm lãi suất huy động về khoảng 11%, tuy nhiên lo ngại về huy động vốn giảm trong thời gian tới sẽ khiến các NHTM khó đáp ứng nhu cầu vay của khách hàng, đặc biệt khi nhu cầu vay sẽ tăng lên do lãi suất cho vay giảm. Vì vậy đề nghị NHNN cho phép các NHTM xây dựng và thực hiện theo lộ trình cụ thể để giảm lãi suất từ từ kết hợp giữa tín hiệu thị trường và mục tiêu quản lý. 5. Nhằm giữ ổn định và an toàn hệ thống ngân hàng - Song song với sự giám sát, kiểm tra của NHNN, các NHTM cần chủ động nâng cao năng lực quản lý rủi ro tín dụng, nâng cao chất lượng tín dụng đảm bảo hiệu quả đầu tư, hiệu quả kinh doanh và hoạt động an toàn. Bên cạnh đó, cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng phát huy vai trò trong việc thanh tra, giám sát việc thực thi pháp luật về tiền tệ và hoạt động ngân hàng cũng như cảnh bảo rủi ro trong hoạt động ngân hàng để từ đó kiến nghị biện pháp ngăn chặn và xử lý thích hợp. - Theo yêu cầu của NHNN tại văn bản số 3417/NHNN-TTGSNH ngày 10/5/2010, chậm nhất ngày 30/6/2010 các TCTD phải trình NHNN hồ sơ đề nghị chấp thuận tăng vốn để đảm bảo mức vốn pháp định 3.000 tỉ tại Nghị định 141. Đến hết năm 2009, có 23 NHTM có vốn điều lệ dưới mức tối thiểu 3.000 tỉ VND, trong đó có 9 NHTM chỉ có mức vốn 1.000 tỉ. Hiện nay, thời điểm 30/6/2010 đã qua, NHNN cần có đánh giá về khả năng tăng vốn của các NHTM này và công bố thông tin rộng rãi trong hệ thống. Đối với các NHTM 25 không có phương án tăng vốn khả thi đáp ứng yêu cầu vốn điều lệ 3.000 tỉ đồng theo Nghị định 141, NHNN cần thực hiện các biện pháp : (i) Trình Chính phủ cho phép thực hiện bơm thêm vốn (mua cổ phần bằng mệnh giá) và đóng vai trò là chủ sở hữu, thực hiện cơ cấu lại hoạt động của các ngân hàng này. Sau đó thực hiện thoái vốn thông qua việc bán cổ phần cho các NHTM lớn có uy tín tiếp tục tham gia điều hành, quản lý; (ii) Giao trực tiếp cho các NHTM lớn (đặc biệt là các NHTMNN) tham gia vào quá trình xây dựng phương án sắp xếp, cơ cấu lại các NHTMCP nhỏ theo phương thức mua lại toàn bộ hoặc một phần để tham gia điều hành, quản trị đảm bảo các ngân hàng này hoạt động an toàn, hiệu quả (thực hiện theo hướng dẫn tại Thông tư số 04/2010/TT-NHNN ngày 11/02/2010 quy định việc sáp nhập, hợp nhất, mua lại các TCTD). 6. Phát triển thị trường trái phiếu để làm kênh huy động vốn dài hạn cho DN Mặc dù, hiện nay thanh khoản và nguồn vốn khả dụng của các NHTM đã từng bước được bình ổn trở lại, nhưng sự mất cân đối về kỳ hạn giữa huy động vốn và sử dụng vốn vẫn đang là một vấn đề lớn của các NHTM. Các NHTM chủ yếu chỉ huy động được nguồn vốn ngắn hạn, gần như không có ngân hàng nào huy động được nguồn vốn với kỳ hạn trên 1 năm. Trong khi đó, nhu cầu tín dụng cho các dự án trung dài hạn của doanh nghiệp rất lớn, vì vậy hầu hết các ngân hàng đều thiếu nguồn vốn trung dài hạn để cho vay. Đề tháo gỡ khó khăn này, đề nghị Chính phủ chỉ đạo Bộ Tài chính xây dựng Đề án phát triển thị trường trái phiếu, bao gồm trái phiếu Chính phủ và trái phiếu doanh nghiệp để tăng khả năng huy động vốn trung dài hạn của nền kinh tế, đảm bảo nguồn vốn cho NSNN và nguồn vốn thực hiện đầu tư phát triển kinh tế xã hội. Theo đó sớm cụ thể hoá các biện pháp khuyến khích các doanh nghiệp huy động vốn trái phiếu để đầu tư, phát triển sản xuất kinh doanh, giảm áp lực tín dụng trung dài hạn cho các NHTM. 7. Phát triển thị trường chứng khoán Để TTCK Việt Nam phát triển bứt phá, thực sự là một kênh huy động vốn dài hạn quan trọng nhất của các doanh nghiệp, cũng như thu hút các nhà đầu tư nước ngoài, cần phải tập trung vào một số giải pháp sau đây : - Hoàn thiện khung pháp lý cho hoạt động đầu tư, M&A, mua bán doanh nghiệp. Xây dựng và hoàn thiện khung pháp lý cho các sản phẩm tài chính mới như các sản phẩm phái sinh, hedging... - Tăng cường tính công khai minh bạch, thông tin thông suốt cho thị trường, xây dựng định chế trung gian (công ty chứng khoán, ngân hàng thanh toán, ngân hàng giám sát, tổ chức lưu ký...) vững mạnh, nâng cao niềm tin của các nhà đầu tư với thị trường. - Việt Nam đang trong thời kỳ cơ cấu, chuyển đổi và cổ phần hoá doanh nghiệp và quản lý tài chính doanh nghiệp. Tài chính doanh nghiệp tốt thì những đơn vị, công ty phát hành cổ phiếu sẽ gặp nhiều thuận lợi. Do đó, chất lượng sản phẩm của thị trường phải được coi trọng và phải làm cho nhà đầu tư tin tưởng và đảm lợi ích cho nhà đầu tư. 26 8. Về an sinh xã hội : Thông thường thì người nghèo, công nhân và khu vực nông thôn là những đối tượng chịu ảnh hưởng nặng nề nhất của khủng hoảng. Đây cũng là đối tượng phục hồi khó khăn nhất sau khủng hoảng do bị hạn chế về nguồn lực. Do vậy, cùng với các giải pháp kích thích kinh tế, bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô cần đặc biệt quan tâm tới bảo đảm phúc lợi và an sinh xã hội, hỗ trợ cho khu vực nông nghiệp nông thôn; trong đó việc hỗ trợ đào tạo nghề, xây dựng nhà ở cho người thu nhập thấp cần được chú trọng.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfnhung_dien_bien_moi_cua_kinh_te_the_gioi_tu_sau_khung_hoang_va_tac_dong_den_kinh_te_viet_nam_779.pdf
Tài liệu liên quan