Tiểu luận Những khó khăn trong việc thực thi pháp luật thuế giá trị gia tăng

Mở bài Nội dung 1. Khái niện thuế GTGT và pháp luật thuế GTGT. 1 1.1. Thuế GTGT. 1 1.2. Pháp luật thuế GTGT. 1 2. Thành tựu và hạn chế trong thực thi pháp luật thuế GTGT ở Việt Nam. 3 2.1. Những thành tựu 3 2.2. Những hạn chế 4 3. Những yếu tố ảnh hưởng đến thực thi pháp luật thuế GTGT ở Việt Nam hiện nay. 6 4. Định hướng và một số giải pháp hoàn thiện pháp luật thuế GTGT 10 Kết luận Danh mục tài liệu tham khảo Mở bài Thuế giá trị gia tăng (GTGT) tự bản thân nó là một sắc thuế tiên tiến được áp dụng rộng rãi và thành công ở hơn 100 quốc gia trên thế giới. Với bản chất là loại thuế chỉ đánh trên phần giá trị tăng thêm của hàng hoá, dịch vụ . nên thuế GTGT được khẳng định như một loại thuế có độ chính xác, hợp lý, khoa học và công bằng hơn thuế doanh thu, khắc phục được hiện tượng thuế chồng thuế. Đồng thời thuế GTGT còn khẳng định ưu điểm của mình trong khuyến khích hoạt động xuất khẩu, khuyến khích đầu tư và góp phần thực hiện công bằng xã hội trong thuế. Ở Việt Nam Luật thuế GTGT được thông qua ngày 10/5/1997 tại kỳ họp thứ 11 Quốc hội khoá IX và có hiệu lực từ 01/01/1999. Sau nhiều năm thực hiện, bên cạnh những kết quả đạt được, thì việc thực thi pháp luật thuế GTGT cũng gặp nhiều khó khăn, những khó khăn này bắt nguồn từ nhiếu yếu tố khác nhau.

doc14 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2171 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Những khó khăn trong việc thực thi pháp luật thuế giá trị gia tăng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mở bài Thuế giá trị gia tăng (GTGT) tự bản thân nó là một sắc thuế tiên tiến được áp dụng rộng rãi và thành công ở hơn 100 quốc gia trên thế giới. Với bản chất là loại thuế chỉ đánh trên phần giá trị tăng thêm của hàng hoá, dịch vụ... nên  thuế GTGT được khẳng định như một loại thuế có độ chính xác, hợp lý, khoa học và công bằng hơn thuế doanh thu, khắc phục được hiện tượng thuế chồng thuế. Đồng thời thuế GTGT còn khẳng định ưu điểm của mình trong khuyến khích hoạt động xuất khẩu, khuyến khích đầu tư và góp phần thực hiện công bằng xã hội trong thuế. Ở Việt Nam Luật thuế GTGT được thông qua ngày 10/5/1997 tại kỳ họp thứ 11 Quốc hội khoá IX và có hiệu lực từ 01/01/1999. Sau nhiều năm thực hiện, bên cạnh những kết quả đạt được, thì việc thực thi pháp luật thuế GTGT cũng gặp nhiều khó khăn, những khó khăn này bắt nguồn từ nhiếu yếu tố khác nhau. Nội dung 1. Khái niệm về thuế GTGT và pháp luật thuế GTGT 1.1. Khái niệm về thuế GTGT - Định nghĩa: Điều 1 Luật thuế GTGT qui định: “Thuế GTGT là thuế thu trên phần giá trị tăng thêm của hàng hóa dịch vụ phát sinh trong quá trình từ sản xuất. lưu thông đến tiêu dùng”. Như vậy, thuế GTGT là loại thuế tiêu dùng nhằm động viên một bộ phận thu nhập của người chịu thuế đã sử dụng để mua hàng hóa, dich vụ. Xét về bản chất thì thuế GTGT là loại thuế gián thu, thuế do các nhà sản xuất, kinh doanh và cung cấp dịch vụ nộp nhưng thực chất người tiêu dùng mới là người chịu thuế thông qua giá cả hàng hóa, dịch vụ. Thuế GTGT có thể ảnh hưởng tới sức tiêu dùng của người dân và thực hiện thuế GTGT có thể làm ảnh hưởng các vấn đề tiêu dùng, mức độ lạm phát của trên thị trường. Đặc điểm Ngoài những đặc điểm của thuế nói chung như: do cơ quan lập pháp ban hành; mang tính chất bắt buộc; không mang tính chất hoàn trả trực tiếp và tương xứng; luôn gắn với quyền lực nhà nước…, thuế GTGT còn có những đặc điểm riêng: Thứ nhất, có đối tượng chịu thuế rất rộng: Có thể nói, tất cả các thành phần trong xã hội, từ cá nhân đến tổ chức, từ người nghèo đến người giàu,…đều là chủ thể chịu thuế khi họ có hành vi tiêu dùng. Điều này tạo nên sự công bằng của thuế, đồng thời thể hiện thái độ của Nhà nước đối với các loại tiêu dùng trong xã hội. Thứ hai, chỉ tính trên phần giá trị tăng thêm của hàng hóa dịch vụ: Có nghĩa là việc đánh thuế chỉ tính trên phần giá trị tăng thêm mà không phải đối với toàn bộ giá trị hàng hóa dịch vụ làm cho số thuế GTGT áp dụng trong quá trình lưu thông không gây ra những đột biến về giá cả cho người tiêu dùng. Thứ ba, nếu dựa trên giá mua cuối cùng của hàng hóa dịch vụ, số thuế GTGT phải nộp không thay đổi phụ thuộc vào các giai đoạn lưu thông khác nhau. 1.2. Khái niệm pháp luật thuế GTGT - Định nghĩa Pháp luật thuế GTGT là tổng hợp các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong quá trình đăng kí, kê khai, nộp thuế, quản lí và quyết toán thuế GTGT. Đặc điểm của thuế GTGT Pháp luật thuế GTGT có hai đặc điểm cơ bản: Thứ nhất, pháp luật thuế GTGT có tác động trong phạm vi rộng, đến tất cả các đối tượng trong xã hội. Theo đó pháp luật thuế GTGT được áp dụng đối với mọi đối tượng có thu nhập, sử dụng một phần thu nhập phục vụ đời sống. Thứ hai, pháp luật thuế GTGT chỉ có thể được ban hành khi các điều kiện áp dụng đạt đến mức độ nhất định. Các điều kiện chủ yếu là các tiêu chuẩn về kế toán, chế độ chứng từ hóa đơn và khả năng quản lý của chính các cơ quan tham gia quản lý, thu thuế GTGT. - Các yêu cầu đối với pháp luật thuế GTGT Pháp luật thuế GTGT đã góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật thuế. Để đảm bảo tính hiệu quả, pháp luật thuế GTGT cần đáp ứng một số yêu cầu sau: • Đảm bảo tính thống nhất, ổn định và tính khả thi. • Đảm bảo tính đơn giản trong quá trình áp dụng: cụ thể là về cách hiểu và áp dụng với cơ quan quản lý thuế, thu thuế; đơn giản về cách hiểu, tuân thủ đối với đối tượng nộp thuế; về trình tự, thủ tục trong suốt quá trình quản lý và chịu sự quản lý về thuế GTGT. • Hệ thống pháp luật GTGT cần hướng tới người nộp thuế: Thể hiện qua việc tôn trọng người nộp thuế: tối đa hóa cơ hội tự kê khai, tự nộp thuế của đối tượng nộp thuế, không chỉ vậy mà còn cần những chế tài nghiêm khắc đối với những hành vi vi phạm pháp luật thuế GTGT cũng như pháp luật thuế nói chung. 2. Những thành tựu và hạn chế trong thực thi pháp luật thuế GTGT. 2.1. Những thành tựu cơ bản trong quá trình áp dụng thuế GTGT Như chúng ta đã biết, thuế GTGT là một loại thuế hiện đại và mới chỉ được áp dụng ở Việt Nam từ năm 1999. Dù ra đời muộn và khá mới mẻ so với các loại thuế khác song pháp luật thuế GTGT hiện nay ở Việt Nam cơ bản đã đáp ứng được những yêu cầu về lý luận của pháp luật thuế GTGT cả cấu trúc bên trong lẫn hình thức biểu hiện bên ngoài. Cụ thể: các bộ phận hợp thành của pháp luật thuế GTGT là tương đối đầy đủ, các nhóm quy phạm pháp luật này được biểu hiện dưới các hình thức luật, nghị quyết, thông tư. Các qui định của pháp luật thuế GTGT phản ánh đúng nội dung, yêu cầu của chính sách kinh tế - tài chính nói chung và chính sách thuế nói riêng cũng như thể hiện được mục tiêu, định hướng cơ bản trong chủ trương, đường lối phát triển của Đảng. Quy phạm pháp luật thuế GTGT cơ bản phản ánh được bản chất của thuế GTGT cũng như cơ chế vận hành thuế GTGT. Các qui định của pháp luật thuế GTGT còn luôn tính đến các giải pháp cho phù hợp với tình hình cụ thể của đất nước ta trong thời kì quá độ nhằm áp dụng tôt nhất thuế GTGT như qui định về các phương pháp tính thuế, mở rộng diện miễn giảm thuế. Kể từ khi thực hiện luật thuế GTGT đã đạt được những thành tựu cụ thể sau: - Luật thuế GTGT đã thể hiện được thái độ của Nhà nước đối với tính trung lập của thuế. Trong đó, những qui định của pháp luật thuế GTGT đã tạo ra sự công bằng và bình đẳng giữa các đối tượng chịu thuế. Các nhóm hàng hóa, dịch vụ chịu thuế được phân chia một cách hợp lí và chịu mức thuế suất như nhau giữa các hàng hóa, dịch vụ có cùng mục đích. - Luật thuế GTGT đảm bảo ở mức độ nhất định nguyên tắc công bằng và tính hiệu quả của hệ thống pháp luật. Tính công bằng biểu hiện tất rõ ràng thông qua những quyết định mang tính phổ biến về đối tượng nộp thuế, cơ sở tính thuế. Tất cả những chủ thể có đủ điều kiện được ghi nhận theo luật thuế GTGT ( Điều 4 luật thuế GTGT) đều phải thực hiện nghĩa vụ thuế đối với Nhà nước, không phân biệt họ là ai. Ngoài ra, pháp luật còn qui định những trường hợp hoàn thuế (Điều 13 Luật thuế GTGT), qui định giá tính thuế GTGT (Điều 7 luật thuế GTGT). - Pháp luật thuế GTGT tạo cơ sở pháp lí hình thành nguồn thu ổn định chiếm tỷ trọng ngày càng cao trong tổng thu từ thuế, phí và lệ phí. Đồng thời triển khai thực hiện luật thuế GTGT không gây biến động lớn về giá. - Góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển. - Pháp luật thuế GTGT hiện hành mở rộng lưu thông hàng hóa và đẩy mạnh xuất khẩu, bảo hộ sản xuất trong nước, sản xuất, cơ cấu lại nền kinh tế. 2.2. Những hạn chế của quá trình áp dụng luật thuế GTGT Bên cạnh những thành tựu mà pháp luật thuế GTGT đã đem lại cho nền kinh tế thì chúng ta cần phải nhìn lại những hạn chế, những tồn tại không nhỏ của nó để từ đó đưa ra định hướng khắc phục đúng đắn nhất. Cụ thể: Luật thuế GTGT khái quát đến mức sơ sài, khó áp dụng, các văn bản dưới luật hướng dẫn thi hành Luật thuế GTGT quá nhiều, lại luôn thay đổi kéo theo sự không ổn định của bản thân Luật thuế GTGT. Các văn bản hướng dẫn thi hành lại không phù hợp với quy định của văn bản luật hoặc nội dung các văn bản này vượt quá thẩm quyền của cơ quan ban hành. Nội dung hướng dẫn cũng chỉ là giải pháp tình thế, chắp vá mà không được nghiên cứu, không dựa trên một cơ sở lý luận nào làm cho sắc thuế GTGT dần dần bị nhào nặn, bóp méo là nguyên nhân dẫn đến sự không ổn định của thuế GTGT. Cơ chế áp dụng, thực hiện pháp luật thuế GTGT còn nhiều yếu kém, chưa tạo dựng được một cơ chế pháp lý hoàn chỉnh, đồng bộ và thật khoa học để chuyển tải pháp luật thuế GTGT như là một sắc thuế đơn giản và tiên tiến vào cuộc sống. Với những chủ trương đổi mới theo hướng thông thoáng hơn trong lĩnh vực pháp luật về doanh nghiệp và đăng ký kinh doanh, song các cơ quan nhà nước lại bị bó tay, vô hiệu hóa trước những hành vi lạm dụng sự thông thoáng đó để trục lợi trong việc hoàn thuế GTGT. Thiếu vắng một cơ chế giám sát kiểm tra thật hữu hiệu quy trình đăng ký nộp thuế, kê khai, khấu trừ hoàn thuế, với chủ trương “tiền thoái hậu kiểm” tạo không ít thuận lợi cho các doanh nghiệp song không phải tất cả các đối tượng được hoàn thuế đều có thể áp dụng cơ chế này. Chế độ hóa đơn chứng từ trong thuế GTGT mặc dù được qui định khá rõ trong Luật thuế GTGT nhưng trên thực tế thì thực tiễn Việt Nam lại chưa thể đáp ứng được đầy đủ các điều kiện về chế độ hóa đơn chứng từ, điều kiện về quản lí thuế nên trong một vài trường hợp đã xảy ra tình trạng khó khăn trong việc áp dụng thuế GTGT. Có những nội dung cơ bản của pháp luật điều chỉnh thuế GTGT chưa được đề cập đến trong luật thuế GTGT như thời điểm phát sinh cũng như thời điểm kết thúc nghĩa vụ thuế GTGT, phạm vi lãnh thổ của nghĩa vụ thuế GTGT,… 3. Những yếu tố ảnh hưởng đến việc thực thi pháp luật thuế GTGT ở Việt Nam Trên thực tế, những hạn chế trong phần trình bày ở trên cũng là những yếu tố ảnh hưởng tới tới quá trình thực thi pháp luật thuế GTGT ở nước ta, tuy nhiên có thể phân tích cụ thể hơn thông qua một số tiêu chí sau: Thứ nhất, là sự hoàn thiện của pháp luật thuế GTGT Sự hoàn thiện của pháp luật thuế GTGT có ảnh hưởng rất lớn tới hiệu quả thực thi của pháp luật thuế GTGT. Hệ thống pháp luật thuế GTGT có hoàn chỉnh, đồng bộ, sát với thực tế, phù hợp với các quy luật khách quan của sự phát triển của xã hội, phù hợp với các điều kiện kinh tế chính trị, văn hóa xã hội,…đáp ứng nhu cầu đòi hỏi của nước ta ở mỗi thời kì phát triển thì hiệu quả pháp luật thuế GTGT mới cao. Ngược lại, nếu pháp luật còn thiếu các qui định cần thiết, còn nhiều bất cập với thực tế thì không thể có hiệu quả thực thi pháp luật cao được mà nó còn làm phát sinh nhiều vướng mắc trong quá trình áp dụng làm giảm hiệu quả trong hệ thống pháp luật đó. Hay nói cách khác lúc này pháp luật thuế GTGT gây hiệu ứng ngược chiều với các yêu cầu và mục đích đã đặt ra. Một môi trường pháp lí vững mạnh, an toàn không chỉ đảm bảo các hoạt động áp dụng thuế GTGT diễn ra thuận lợi, hiệu quả mà còn tạo cơ hội cho các chủ thể trong và ngoài nước sẵn sàng đầu tư vào nước ta một cách mạnh mẽ hơn. Thứ hai,sự hoàn thiện của hoạt động áp dụng pháp luật Để góp phần nâng cao hiệu quả điều chỉnh của pháp luật thuế GTGT trong đời sống xã hội thì vấn đề quan trọng là thực hiện đúng đắn, nghiêm minh các qui định của pháp luật thuế. Trong đó thì áp dụng pháp luật thuế là một hình thức thực hiện pháp luật có ý nghĩa vô cùng quan trọng bởi vì pháp luật thuế trong đó có pháp luật thuế GTGT được thực hiện làm thay đổi quyền sở hữu đối với khoản tiền thuế. Mục đích chung của áp dụng pháp luật là đảm bảo cho các quy phạm pháp luật được thực hiện đầy đủ, chính xác, nghiêm minh trong cuộc sống hàng ngày. Nếu thiếu sự bảo đảm này thì trong nhiều trường hợp các qui phạm pháp luật sẽ không được thực hiện hoặc được thực hiện không đúng và như vậy chúng sẽ không phát huy được hiệu quả trong cơ sở thực tế. Hiệu quả áp dụng pháp luật có liên quan rất chặt chẽ tới hiệu quả xây dựng pháp luật. Để thực hiện và áp dụng pháp luật có hiệu quả trước hết phải có hệ thống pháp luật tốt nói cách khác thì pháp luật thuế GTGT phải xây dựng đảm bảo tính hoàn thiện về kĩ thuật lập pháp, chất lượng hiện đại và phù hợp với trình độ quản lí và môi trường áp dụng pháp luật. Trong hoạt động áp dụng pháp luật thuế GTGT thì bản lĩnh chính trị, trình độ pháp lí cũng như ý thức pháp lí cũng như ý thức pháp luật của cán bộ thuế có ảnh hưởng rất lớn tới hiệu quả của pháp luật thuế GTGT. Bởi vì bản lĩnh chính trị vững vàng, có sự hiểu biết về pháp luật, có ý thức pháp luật cao, có phẩm chất đạo đức tốt mới có thể áp dụng pháp luật thuế GTGT một cách hiệu quả, khách quan nhất. Sự hoàn thiện của cơ chế áp dụng pháp luật còn thể hiện ở những điều kiện vất chất kinh tế cần thiết đảm bảo cho hoạt động áp dụng pháp luật được tiến hành bình thường. Như chúng ta đã thấy thì trong thời kì hiện nay nền kinh tế nước ta ngày càng phát triển với sự tiến bộ vượt bậc của khoa học - công nghệ; chính điều này đã đòi hỏi chúng ta phải quản lí thuế theo một quá trình mới, ứng dụng các tiến bộ đó mà đặc biệt là khoa học công nghệ thông tin vào quá trình quản lí thuế. Do đó tăng cường trang thiết bị hiện đại vào quản lí thuế là yêu cầu khắt khe của việc áp dụng pháp luật thuế GTGT với kĩ thuật tính thuế phức tạp. Bên cạnh đó, kinh phí cho hoạt động áp dụng pháp luật thuế cũng là một trong những điều kiện cần thiết, quan trọng để việc áp dụng thuế GTGT được hiệu quả. Ngoài ra còn phải quan tâm tới đời sống vật chất tinh thần của các cán bộ và gia đình họ, giúp họ giảm bớt những khó khăn về vật chất để có thể tận tâm dồn hết thời gian, sức lực, trí tuệ cho công việc và một điều có thể nói rằng rất nhạy cảm là việc quan tâm tới họ sẽ tránh tình trạng mua chuộc về vật chất, giữ được thái độ vô tư, khách quan trong công việc. Hoạt động áp dụng pháp luật thuế GTGT đòi hỏi một trình độ quản lí cao ở cán bộ thuế, phương tiện quản lí hiện đại ở cơ quan thuế, đủ khả năng để quản lí, kiểm soát hoạt động của đối tượng nộp thuế. Nếu cán bộ thuế không có trình độ để quản lí tốt các hành vi chuyển giao thuế GTGT giữa các chủ thẻ thì liệu chừng nguồn thu cho NSNN có được đảm bảo? Trong hoạt động áp dụng pháp luật thuế GTGT thì hoạt động xử lí văn bản pháp luật chiếm một vị trí quan trọng và có ảnh hưởng rất lớn tới hiệu quả pháp luật. Bởi vì việc xử lí nghiêm minh, dứt điểm, kịp thời các trường hợp vi phạm pháp luật thuế GTGT có thể ngăn chặn được tình trạng vi phạm pháp luật xảy ra trên qui mô rộng, giáo dục được những đối tượng vi phạm chấm dứt hành vi vi phạm pháp luật và tái phạm, ngăn ngừa được những đối tượng khác vi phạm luật thuế. Bên cạnh đó, sự phối hợp hoạt động giữa các cơ quan chức năng như cơ quan thuế, hải quan, viện kiểm sát, công an,…cũng có ảnh hưởng lớn tới hiệu quả pháp luật thuế GTGT, bởi vì giữa các cơ quan trên có sự phối hợp chặt chẽ thì việc áp dụng pháp luật mới được diễn ra một cách thuận lợi, liên tục, đúng trình tự và thủ tục và đảm bảo các qui định của pháp luật được thực hiện đúng đắn, đầy đủ. Tóm lại, sự hoàn thiện của cơ chế áp dụng pháp luật chiếm một vị trí quan trọng và ảnh hưởng rất lớn tới hiệu quả điều chỉnh của pháp luật thuế GTGT, hoạt động áp dụng được thực hiện tốt thì hiệu quả thực thi pháp luật mới được nâng cao và ngược lại nếu áp dụng pháp luật mà không tốt thì không những không nâng cao hiệu quả mà còn có những hậu quả xấu cho xã hội. Thứ ba, ý thức pháp luật và hành vi nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật của công dân. Một trong những điều kiện quan trọng đảm bảo việc thực thi cũng như đảm bảo hiệu quả pháp luật thuế GTGT là ý thức pháp luật và hành vi nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật của cán bộ thuế, đối tượng nộp thuế và nhân dân cả nước. Đối với người cán bộ, nếu có ý thức pháp luật tốt, có phẩm chất tốt thì có thể độc lập áp dụng pháp luật thuế GTGT một cách có hiệu quả, không bị sự cám dỗ về vật chất và tinh thần để làm sai luật hay áp dụng không đầy đủ luật thuế GTGT làm giảm đi hiệu quả tác động của luật thuế GTGT trên thực tế, trong quá trình áp dụng luật thuế thì người cán bộ phải dựa vào trình độ quản lí, ý thức pháp luật của mình và những nguyên tắc của pháp luật để giải quyết vụ việc theo những cách thức tốt nhất, phù hợp nhất. Đối tượng tiếp theo là những đối tượng nộp thuế, nếu là chủ thể có ý thức pháp luật tốt và chấp hành các qui định của pháp luật một cách nghiêm chỉnh thì việc thực thi pháp luật thuế GTGT được đảm bảo dễ dàng và hiệu quả hơn. Điều này không những bảo vệ lợi ích cho chính bản thân những người nộp thuế mà còn hạn chế được tình trạng các đối tượng xấu lợi dụng kẽ hở của pháp luật để chiếm đoạt tài sản của Nhà nước, làm giảm đi hiệu quả điều chỉnh của pháp luật thuế GTGT. Đối với toàn thể nhân dân thì việc có ý thức và chấp hành pháp luật thuế GTGT càng quan trọng hơn cả. Bởi lẽ nhân dân là số đông, là chủ thể của đất nước nên họ có ảnh hưởng rất lớn tới các vấn đề pháp luật cũng như xã hội. Có tri thức và ý thức pháp luật thì nhân dân sẽ có niềm tin vào pháp luật, thấy được giá trị của việc tôn trọng và thực hiện chính xác, đầy đủ các qui định của pháp luật từ đó tuân theo pháp luật và vận động những người khác tuân theo pháp luật. Bên cạnh đó, nếu có trình độ nhận thức sâu sắc về luật thuế, người dân có thể phản ảnh những bất cập trong các qui định của pháp luật thuế, giám sát được việc thực hiện luật thuế, chống tiêu cực từ các cán bộ thuế. Ý thức pháp luật và ý thức chấp hành pháp luật là điều cơ bản quyết định quá trình thành công của quá trình thực thi pháp luật thuế GTGT. Thuế GTGT là một loại thuế có tính phức tạp của kĩ thuật tính và thu thuế gắn liền với cơ chế khấu trừ thuế, hoàn thuế nên các đối tương nộp thuế phải có ý thức tự giác cao trọng việc thực hiện nghĩa vụ nộp thuế, nếu không rất có thể xảy ra hiện tượng số thuế thu được ít nhưng Nhà nước phải khấu trừ thuế, hoàn thiện thuế nhiều lần do các hành vi gian lận, lợi dụng cơ chế khấu trừ thuế, hoàn thuế GTGT. Các yếu tố ảnh hưởng tới việc thực thi pháp luật GTGT chi phối toàn bộ cơ chế điều chỉnh pháp luật thuế GTGT đối với đời sống xã hội. Các yếu tố này vừa chi phối hoạt động lập pháp vừa chi phối hoạt động áp dụng pháp luật. 4 - Định hướng và một số giải pháp hoàn thiện pháp luật thuế GTGT Sau nhiều năm thực hiện, pháp luật thuế GTGT đã đi vào đời sống kinh tế nước ta một cách quen thuộc, ở đó ta cũng đã nhận ra một số hạn chế, và dưới đây là một số định hướng nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật thuế GTGT: Một là, pháp luật thuế GTGT phải được cải thiện trên cơ sở ghi nhận đầy đủ các nội dung chủ yếu của việc điều chỉnh pháp luật thuế, đồng thời phản ánh đúng chuẩn xác và khách quan bản chất của thuế GTGT với tính liên hoàn và tính trung lập kinh tế cao, đánh vào hoạt động chuyển giao hàng hóa và cung cấp dịch vụ được tính trên giá trị tăng thêm của hàng hóa dịch vụ trong quá trình sản xuất lưu thông đến tiêu dùng theo pháp luật khấu trừ. Hai là, tiếp tục đổi mới công tác quản lý thu thuế GTGT: Bên cạnh việc đổi mới một cách căn bản về nội dung tư tưởng của cơ chế chính sách thuế GTGT, cần thiết chúng ta phải có những biện pháp tổ chức thực hiện. Trong đó cải cách về qui trình nghiệp vụ và thủ tục hành thu là nội dung cốt yếu nhất, đồng thời nó còn là một yêu cầu bức xúc trong tình hình hiện nay, nhằm hạn chế thất thu thuế ở mức thấp nhất, bảo đảm thu đúng, thu đủ, thu kịp thời vào ngân sách nhà nước và từ đó nâng cao trình độ quản lý thuế của VN ngang tầm với các nước tiên tiến trong khu vực. Đổi mới công tác quản lý thuế cần tập trung các vấn đề chủ yếu sau: Thực hiện tốt công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật về thuế, thường xuyên và đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra về thuế, đẩy mạnh triển khai ứng dụng công nghệ thông tin vào hầu hết các khâu quản lý thuế, tăng cường công tác quản lý hóa đơn nhằm ngăn chặn các hành vi vi phạm qui định về quản lý, sử dụng hóa đơn và ngày càng nâng cao quyền hạn, trách nhiệm và hiệu lực của bộ máy quản lý thuế...  Ba là, cần thiết phải luật hóa những quy định đang được ghi nhận tại các văn bản quy phạm pháp luật dưới luật để đảm bảo tính pháp lí, đảm bảo tính công bằng của luật. tiếp tục hoàn thiện pháp luật thuế GTGT đồng thời gắn liền với việc hoàn thiện cả hệ thống pháp luật về thuế đặc biệt là các loại thuế như thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất nhập khẩu. Bốn là, tiếp tục duy trì những tiêu chí đánh giá xây dựng pháp luật thuế GTGT. Hoàn thiện pháp luật thuế GTGT theo xu hướng đơn giản, ổn định, công bằng, hiệu quả và đáp ứng xu thế hội nhập và toàn cầu hóa hiện nay, đồng thời phát huy vai trò đảm bảo nguồn thu cho NSNN của thuế GTGT trong điều kiện nhiều loại thuế sẽ phải cắt giảm để đáp ứng yêu cầu của hội nhập. Năm là, cải cách đồng bộ hệ thống thể chế quản lý kinh tế xã hội: Nhằm thực hiện Luật thuế GTGT một cách có hiệu quả, bên cạnh việc đổi mới cơ chế chính sách, đổi mới công tác quản lý hành thu thì cần thiết phải tiến hành đồng bộ cải cách các lĩnh vực hành chính – kinh tế có liên quan sau:  - Cần sớm sửa đổi Bộ luật hình sự theo hướng tăng mức hình phạt đối với tội danh trốn thuế hoặc giả mạo chứng từ để chiếm đoạt tiền ngân sách nhà nước, bổ sung một số chế tài xử lý hình sự đối với các tội danh mới phát sinh, nhất là tội mua bán hóa đơn, in hóa đơn giả.   - Thực hiện nghiêm chỉnh việc niêm yết giá qui định tại Điều 29 Pháp lệnh giá ngày 8.5.2002, theo đó các tổ chức, cá nhân phải niêm yết giá hàng hóa, dịch vụ tại cửa hàng, nơi giao dịch mua bán hàng hóa và cung cấp dịch vụ.   - Vấn đề có tính quyết định nhất là phải có cuộc cải cách lớn về cơ chế quản lý tiền tệ. Bắt buộc các quan hệ mua bán, trao đổi hàng hóa, dịch vụ phải thanh toán bằng chuyển khoản, hạn chế đến mức thấp nhất hình thức thanh toán bằng tiền mặt như hiện nay. Thông qua các tài khoản tại hệ thống ngân hàng, Nhà nước sẽ quản lý được hầu hết các hoạt động kinh tế phát sinh, có như vậy tệ nạn tham nhũng, trốn lậu thuế sẽ không còn cơ hội để tồn tại.  Kết luận Thuế GTGT là một trong những loại thuế gián thu có phương pháp thu thuế khoa học và tiên tiến nhất hiện nay, đang được nhiều nước trên thế giới áp dụng. Ở VN, trong tương lai, thuế GTGT sẽ trở thành sắc thuế chủ yếu, chiếm tỷ trọng cao trong hệ thống chính sách thuế nhằm bù đắp được nguồn thu thuế nhập khẩu khi cắt giảm thuế theo cam kết quốc tế và góp phần hoàn thiện hệ thống chính sách thuế của nước ta phù hợp với tình hình kinh tế xã hội của đất nước theo định hướng phát triển đến năm 2020 và phù hợp với thông lệ quốc tế Mục lục Trang Mở bài Nội dung Khái niện thuế GTGT và pháp luật thuế GTGT. 1 Thuế GTGT. 1 Pháp luật thuế GTGT. 1 Thành tựu và hạn chế trong thực thi pháp luật thuế GTGT ở Việt Nam. 3 Những thành tựu….. 3 Những hạn chế… 4 Những yếu tố ảnh hưởng đến thực thi pháp luật thuế GTGT ở Việt Nam hiện nay. 6 Định hướng và một số giải pháp hoàn thiện pháp luật thuế GTGT 10 Kết luận Danh mục tài liệu tham khảo Danh mục tài liệu tham khảo Giáo trình Luật thuế Việt Nam, Nxb CAND, Hà Nội, 2008. Luật thuế GTGT năm 2008. Trần Minh Hiền, pháp luật thuế GTGT ở Việt Nam và phương hướng hoàn thiện. Luận văn thạc sĩ, 2006. Báo cáo số 38/BC-UBND của UBND tỉnh Bình Định ngày 09/6/2011 về việc chấp hành pháp luật về quản lý thuế

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docHK tamp224i champ237nhlu7853n.doc
Tài liệu liên quan