Nội dung và ý nghĩa của chế độ Bảo Hiểm XH.
LỜI NÓI ĐẦU
Con người muốn tồn tại và phát triển trước hết phải ăn mặc, ở, và đi lại v.v . Để thoả mãn những nhu cầu tối thiểu đó, người ta phải lao động để làm ra những sản phẩm cần thiết. Khi sản phẩm được tạo ra ngày càng nhiều thì đời sống con người ngày càng đầy đủ và hoàn thiện, xã hội ngày càng văn minh hơn. Như vậy, việc thoả mãn những nhu cầu sinh sống và phát triển của con người phụ thuộc vào chính khả năng lao động của họ. Nhưng trong thực tế không phải lúc nào con người cũng chỉ gặp những thuận lợi, có đầy đủ thu nhập và mọi điều kiện sinh sống bình thường. Trái lại, có rất nhiều trường hợp khó khăn bất lợi, ít nhiều ngẫu nhiên phát sinh làm cho người ta bị giảm hoặc mất thu nhập hoặc các điều kiện sinh sống khác. Chẳng hạn, bất ngờ bị ốm đau hay gặp tai nạn trong lao động, mất việc làm hay khi tuổi già khả năng lao động và khả năng tự phục vụ bị suy giảm v.v . Khi rơi vào những trường hợp này, các nhu cầu cần thiết trong cuộc sống không vì thế mà mất đi, trái lại có cái còn tăng lên, thậm chí còn xuất hiện thêm một số nhu cầu mới như: cần được khám chữa bệnh và điều trị khi ốm đau, tai nạn thương tật nặng cần phải có người chăm sóc, nuôi dưỡng v.v . Bởi vậy, muốn tồn tại và ổn định cuộc sống con người và xã hội loài người phải tìm ra và thực tế đã tìm ra nhiều cách giải quyết khác nhau như: san sẻ, đùm bọc lẫn nhau trong nội bộ cộng đồng, đi vay đi xin hoặc dựa vào sự cứu trợ của Nhà nước v.v . rõ ràng, những cách đó là hoàn toàn thụ động và không chắc chắn.
Khi nền kinh tế hàng hoá phát triển, việc thuê mướn nhân công trở nên phổ biến. Lúc đầu người chủ chỉ cam kết trả công lao động, nhưng về sau đã phải cam kết bảo đảm cho người làm thuê có một số thu nhập nhất định để họ trang trải những nhu cầu thiết yếu khi không may bị ốm đau, tai nạn, thai sản v.v . Trong thực tế nhiều khi các trường hợp ttrên không xảy ra và người chủ không phải chi ra một đồng nào. Nhưng cũng có khi xảy ra dồn dập, buộc họ một lúc phải bỏ ra nhiều khoản tiền lớn mà họ không muốn. Vì thế, mâu thuẫn chủ- thợ phát sinh, giới thợ liên kết đấu tranh buộc giới chủ thực hiện cam kết. Cuộc đấu tranh này diễn ra ngày càng rộng lớn và có tác động nhiều mặt đến đời sống kinh tế xã hội. Do vậy, nhà nước đã phải đứng ra can thiệp và điều hoà mâu thuẫn. Sự can thiệp này một mặt làm tăng được vai trò của Nhà nước, mặt khác buộc cả giới chủ và giới thợ phải đóng góp một khoản tiền nhất định hàng tháng được tính toán chặt chẽ dựa trên cơ sở xác xuất rủi ro xảy ra đối với người làm thuê. Số tiền đóng góp của cả chủ và thợ hình thành một quỹ tiền tệ tập trung trên phạm vi quốc gia. Quỹ này còn được bổ sung từ ngân sách Nhà nước khi cần thiết nhằm đảm bảo đời sống cho người lao động khi gặp phải những biến cố bất lợi. Chính nhờ những mối quan hệ ràng buộc đó mà rủi ro, bất lợi của những người lao động được dàn trải, cuộc sống của người lao động và gia đình họ ngày càng được bảo đảm ổn định. Giới chủ cũng thấy mình có lợi và được bảo vệ, sản xuất kinh doanh diễn ra bình thường, tránh được những xáo trộn không cần thiết. Vì vậy, nguồn quỹ tiền tệ tập trung được thiết lập ngày càng lớn và nhanh chóng. Khả năng giải quyết các phát sinh lớn ngày càng đảm bảo.
Toàn bộ những hoạt động với những mối quan hệ ràng buộc chặt chẽ trên được thế giới quan niệm là bảo hiểm xã hội đối với người lao động. Như vậy, bảo hiểm xã hội là sự đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập đối với người lao động khi họ gặp phải những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm trên cơ sở hình thành và sử dụng một quỹ tiền tệ tập trung nhằm đảm bảo đời sống cho người lao động và gia đình họ góp phần đảm bảo an toàn xã hội.
B. NỘI DUNG
Tính chất đa dạng của các loại rủi ro xâm hại lợi ích của xã hội đòi hỏi có nhiều hình thức bảo hiểm. Căn cứ vào phương thức hình thành, tính chất và mục đích sử dụng các loại quỹ bảo hiểm tập trung mang tính cộng đồng mà người ta phân loại nhiều hình thức bảo hiểm. Trong đó bảo hiểm xã hội là hình thức chủ yếu.
I. BẢO HIỂM XÃ HỘI MỘT BỘ PHẬN AN TOÀN CỦA XÃ HỘI
Duy trì trật tự xã hội là một trong những cái đích quan trọng mà bất cứ một thể chế chính trị, một giai cấp hay một quốc gia nào muốn tồn tại đều phải đạt được. Việc duy trì trật tự xã hội có sự đóng góp không nhỏ của các giải pháp công cộng hướng vào giải quyết hậu quả của những sự kiện khác nhau thường gọi là “rủi ro xã hội”. Chính những giải pháp này được gọi là an toàn xã hội hay đảm bảo xã hội. Trong lịch sử phát triển loài người lúc này hay lúc khác, sự bảo vệ của xã hội đối với các thành viên của mình đã được thực hiện. Tuy nhiên chỉ đến khi công nghiệp xuất hiện, các cơ chế bảo vệ đó mới được thực hiện tương đối có hệ thống. Lần đầu tiên xuất hiện từ an toàn xã hội trong một đạo luật của Mỹ (Luật 1935 về an toàn xã hội). Luật này quy định các đối tượng được bảo vệ là những người già yếu, tàn tật, thất nghiệp, chết. Năm 1938 từ an toàn xã hội được sử dụng tiếp trong một đạo luật của Nuizilân và năm 1941 được sử dụng trong hiến chương Đại tây Dương. Đến năm 1952, hội nghị toàn thể ILO đã thông qua công ước 102 về an toàn xã hội trên cơ sở có sự nhận thức đúng đắn, sự kiểm nghiệm trên thực tế về cơ chế bảo vệ này. Theo định nghĩa của ILO thì an toàn xã hội là sự bảo vệ của xã hội đối với các thành viên của mình thông qua các biện pháp công cộng nhằm chống lại những khó khăn về kinh tế và xã hội do bị ngừng hoặc giảm thu nhập gây ra bởi ốm đau, thai sản, tai nạn, thất nghiệp, thương tật, tuổi già và chết, việc cung cấp chăm sóc y tế và việc trợ cấp cho các gia đình đông con. Như vậy đây là một lĩnh vực có nội dung rộng lớn, được cấu thành bởi các bộ phận:
BHXH cho người lao động
Trợ giúp xã hội
Trợ cấp từ cộng đồng
Trợ cấp gia đình
Trợ cấp từ quỹ dự phòng quốc gia
Sự bảo vệ trách nhiệm của người sử dụng lao động
Với nội dung rộng lớn, an toàn xã hội là đối tượng nghiên cứu của nhiều nghành khoa học khác nhau như xã hội học, kinh tế học, luật học, chính trị học . Trong hệ thống an toàn xã hội này, BHXH là một bộ phận cơ bản nhất, quan trọng nhất.
BHXH là sự liên kết của những người lao động thông qua sự san sẻ trách nhiệm bằng đóng phí BHXH xuất phát từ lợi ích chung của người lao động và người sử dụng lao động.
Việc tham gia BHXH là bắt buộc trừ một số trường hợp ngoại lệ.
Nguồn thu BHXH thông qua sự đóng góp của các bên trong quan hệ BHXH bao gồm người lao động, người sử dụng lao động và Nhà nước trong một số trường hợp. Sự đóng góp này thể hiện mối quan hệ lợi ích, trách nhiệm, nghĩa vụ của ba bên, xuất phát từ lợi ích chung của sự an toàn, ổn định và phát triển xã hội.
Các nguồn thu BHXH được tập trung vào một quỹ không nằm trong ngân sách của Nhà nước để chi trả trợ cấp cho người được hưởng BHXH và các hoạt động quản lý BHXH.
Quyền lợi của BHXH không gắn với bất cứ chỉ tiêu nào về nhu cầu và tài sản của người được hưởng.
Như vậy, BHXH là một chính sách rất nhân văn nhưng lại có những quy định chặt chẽ dựa trên cơ sở khách quan và phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội của mỗi nước chứ không dựa trên ý chí chủ quan.
Bảo hiểm xã hội là một trong những chính sách rất quan trọng và cần thiết của xã hội. Đó là một bộ phận an toàn của xã hội.
27 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2111 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Nội dung và ý nghĩa của chế độ Bảo Hiển Xã Hội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU
Con người muốn tồn tại và phát triển trước hết phải ăn, mặc, ở và đi lại . Để thỏa mãn những nhu cầu tối thiểu đó,người ta phải lao động để làm ra những sản phẩm cần thiết cho cuộc sống của mình. Khi sản phẩm được tạo ra ngày càng nhiều thì đời sống của con người ngày càng đầy đủ và hoàn thiện, xã hội ngày càng văn minh hơn.Điều đó cho thấy việc thoả mãn những nhu cầu sinh sống và phát triển của con người phụ thuộc vào chính khả năng lao động của họ. Nhưng trong thực tế khong phải lúc nào cuộc sống của con người cũng đầy đủ và thuận lợi mà đôi khi họ phải chịu không ít những khó khăn và bất lợi do điều kiện khách quan và tác động vào như: tai nạn lao động, những rủi ro từ thiên tai, mất khả năng lao động khi tuổi già….Từ đó buộc con người phải nghĩ đến việc sẽ phải làm gì để đảm bảo sự ổn định cho cuộc sống của họ ngay cả khi những rủi ro trên xảy ra hoặc không xảy ra . Mặt khác khi nền kinh tế hàng hoá phát triển, do việc thuê mướn công nhân trở nên phổ biến đã phát sinh ra khá nhiều những vấn đề có liên quan tới việc trả công và nhu cầu cần được đảm bảo một khoản thu nhập nhất định để người lao động trang trải khi không may ốm, tai nạn, thai sản…,gây ra không ít những mâu thuẫn giữa chủ và thợ , những mâu thuẫn này đã có tác động khá lớn tới đời sống kinh tế xã hội . Do vậy buộc nhà nước phải đứng ra can thiệp và điều hoà mâu thuẫn bằng cách buộc cả giới chủ lẫn thợ phải đóng góp một khoản tiền nhất định hàng tháng được tính dựa trên cơ sở xác suất rủi ro xảy ra với người làm thuê, số tiền đóng của cả chủ lẫn thợ hình thành một quĩ tiền tệ tập trung trên phạm vi quốc gia .Quĩ này còn được bổ sung từ NSNN nhằm đảm bảo đời sống cho người lao động khi gặp phải những biến cố bất lợi. Bên cạnh đó , giới chủ thấy mình có lợi và sản xuất kinh doanh diễn ra bình thường và tránh được những xáo trộn không cần thiết.
Tất cả những hoạt động và mối quan hệ ràng buộc trên và ý nghĩa của nó đối với con người và xã hội được thế giới quan niệm là Bảo Hiểm Xã Hội đối với người lao động .Đồng thời đó cũng chính là tiêu đề mà em chọn cho tiểu luận của mình: "Nội Dung Và ý Nghĩa của chế độ BHXH”.Do trình độ và sự hiểu biết về BHXHcủa em còn hạn chế nên trong quá trình phân tích và trình bầy không tránh khỏi những thiếu sót . Em rất mong sự chỉ bảo và đóng góp ý kiến của thầy cô .Em xin chân thành cảm ơn.
B. NỘI DUNG
I. MỘT SỐ QUAN NIỆM VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI :
1.Khái niệm về BHXH:
Ra đời vào giữa thế kỷ 14, hệ thống BHXH lần đầu tiên là công trình của chính phủ Đức dưới thời Bismask (1883-1889) với cơ chế 3 bên (Nhà nước-giới chủ-giới thợ) cùng đóng góp nhằm bảo hiểm cho người lao động khi họ gặp rủi ro. Sau đó, trước ý nghĩa to lớn của BHXH trong quan hệ lao động, nhiều nước đã bắt đầu áp dụng hệ thống BHXH và BHXH thực sự trở thành một chính sánh xã hội lớn ở VN đó là vào năm 1962 trở lại đây.BHXH ra đời đã giúp người lao động dàn trải được những khó khăn do ốm đau, tai nạn…trên cơ sở những cam kết đóng góp của người lao động, người sử dụng lao động cho một bên thứ 3 (Cơ quan bảo hiểm trước khi xảy ra những biến cố đó
Như vậy xét dưới góc độ kinh tế, BHXH là một phạm trù kinh tế tổng hợp, là sự đảm bảo thu nhập nhằm đảm bảo cuộc sống cho người lao động khi mất hoặc giảm khả năng lao động . Còn nếu xét dưới góc độ pháp lý , chế độ BHXH là tổng hợp những qui định của nhà nước, qui định các hình thức đảm bảo điều kiện vật chất và tinh thần cho người lao động và các thành viên gia đình họ trong trường hợp bị giảm hoặc mất khả năng lao động.
2.Tính chất của BHXH:
BHXH gắn liền với đời sống của người lao động , vì vậy nó có một số tính chất cơ bản sau:
2.1.Tính tất yếu khách quan :
Trong quá trình lao động và sản xuất, người lao động có thể gặp nhiều biến cố rủi ro như: tai nạn, đau ốm, thiên tai…Những biến cố đó đồng thời đẩy người sử dụng lao động cùng rơi vào tình cảnh khó khăn không kém như: thiếu nguồn nhân lực, sản xuất kinh doanh bị gián đoạn…Sản xuất càng phát triển, nguy cơ rủi ro đối với người lao động và những khó khăn đối với người sử dụng càng lớn và trở nên phức tạp dẫn đến sự mâu thuẫn trong mối quan hệ chủ-thợ ngày càng căng thẳng. Để điều hoà và giải quyết mâu thuẫn này, nhà nước đã đứng ra can thiệp thông qua BHXH, do vậy sự ra đời của BHXHlà cần thiết, là một điều tất yếu khách quan trong đời sống kinh tế xã hội của mỗi nước.
2.2.BHXHcó tính ngẫu nhiên, phát sinh không đồng đều theo thời gian và không gian:
Để tạo ra giá trị cần thiết cho sự tồn tại và phát triển của mình, con người tác động vào tư nhiên làm ra sản phẩm, nhưng đồng thời con người cũng phải chịu những qui luật khách quan của điều kiện tự nhiên và xã hội, những tác động này thường diễn ra một cách ngẫu nhiên mà con người không thể dự đoán một cách đâỳ đủ. Điều này được thể hiện rất rõ ở những nội dung cơ bản của BHXH, từ thời điểm hình thành và triển khai, đến mức đóng góp của các bên tham gia để hình thành quĩ BHXH.
2.3.BHXH vừa có tính kinh tế, vừa có tính xã hội, đồng thời còn có tính dịch vụ:
Bên cạnh tính tất yếu khách quan, tính ngẫu nhiên, BHXH còn có tính chất kinh tế ,tính xã hội, và tính dịch vụ rất rõ ràng.Trước hết về tính kinh tế được thẻ hiện ở quĩ BHXH, nó là sự đóng góp của các bên tham gia được đặt dưới cơ chế rất chặt chẽ, sử dụng đúng mục đích. Quĩ BHXH chủ yếu dùng để trợ cấp cho người lao động theo các điều kiện của BHXH, trên thực tế phần góp của mỗi người lao động là không đáng kể, nhưng quyền lợi nhận được là rất lớn khi gặp rủi ro, còn đối với người sử dụng lao động thì họ cũng có lợi vì không phải bỏ ra một khoản tiền lớn để trang trải cho những người lao động bị mất hoặc giảm khả năng lao động, mà vẫn đảm bảo được quá trình sản xuất kinh doanh. Và với nhà nước BHXH góp phần làm giảm ghánh nặng cho ngân sách đồng thời còn là một nguồn đầu tư đáng kể cho nền kinh tế quốc dân. Mặt khác đối với xã hội, BHXH là một nhân tố quan trọng trong việc điều hoà và giải quýêt mâu thuẫn chủ-thợ, đồng thời trong mô lớn, lại được hình thành tập trung trên phạm vi quốc gia nên BHXH mang tính dịch vụ rất lớn. Tất cả những điều đó đều cho thấy sự cần, tầm quan trọng của BHXH trong đời sống kinh tế xã hội của mỗi nước trên phạm vi toàn cầu.
II.NỘI DUNG CỦA CHẾ ĐỘ BẢO HIỂM:
1.Các chế độ BHXH được tạo thành bởi các điều kiện BHXH cùng với các mức trợ cấp bảo hiểm:
Về nguyên tắc, BHXH phải đảm bảo an toàn kinh tế cho mọi người lao động trong mọi trường hợp giảm hoặc mất khả năng lao động. Tuy nhiên, tuỳ theo điều kiện kinh tế xã hội từng quốc gia trong từng giai đoạn mà các chế độ BHXH được qui định khác nhau
Ơ nước ta hiện nay thực hiện một số các chế độ BHXH sau:
Chế độ trợ cấp ốm đau
Chế độ trợ cấp tai nạn lao động, bệnh nghệ nghiệp
Chế độ trợ cấp thai sản
Chế độ hưu trí
Chế độ tử tuất
Ngoài ra, những đối tượng đã giải quyết chế độ mất sức lao động, đang hưởng trợ cấp hàng tháng theo các qui định cũ vẫn tiếp tục được hưởng và chế độ bảo hiểm thất nghiệp đang được xây dựng, bước đầu đã được qui định trong Bộ luật lao động sữa đổi 2002
Các chế độ bảo hiểm nói trên nói trên có một điểm chung là đều được tạo thành bởi các điều kiện BHXH và mức trợ cấp BHXH.
2.Đối tượng của BHXH và đối tượng tham gia BHXH:
BHXH ra đời vào những năm giữa thế kỷ 19, khi nền công nghiệp và kinh tế hàng hoá đã bắt đầu phát triển mạnh mẽ ở các nước Châu âu.Từ năm1883,ở nước Phổ (CHLB Đức ngày nay) đã ban hành luật BHYT. Một số nước Châu âu và Bắc mỹ mãi đến cuối năm 1920 mới có đạo luật về BHXH. Tuy ra đời từ lâu như vậy, nhưng đối tượng của BHXH vẫn còn nhiều quan điểm chưa thống nhất, đôi khi còn có sự nhầm lẫn giữa đối tượng BHXH với đối tượng tham gia BHXH. Do vậy ta cần phải phân biệt được 1cách rõ ràng giữa 2 khái niệm này.
2.1.Đối tượng của BHXH:
Như chúng ta đã biết, BHXH là một hệ thống đảm bảo khoản thu nhập bị giảm hoặc bị mất đi do người lao động bị giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm vì các nguyên nhân như ốm đau, tai nạn, già yếu…Do vậy, đối tượng của BHXH chính là thu nhập của người lao động bị biến động giảm hoặc mất đi do bị giảm hoặc bị mất khả năng lao động, mất việc làm của những người lao động tham gia BHXH. Mà mức thu nhập được bảo hiểm chính là mức tiền lương hoặc một mức thu nhập bằng tiền nào đó do nhà nước qui định trên cơ sở mức sống, mức thu nhập bình quân thực tế của người lao động theo 2 cách lựa chọn. Cách thứ nhất là áp dụng một mức đồng nhất đối với mọi người được bảo hiểm. Cách thứ hai là lấy tiền lương làm cơ sở để qui định mức thu nhập được bảo hiểm. Mỗi cách đều có những tác dụng như nhau, nhưng thông thường người ta láy tiền lương làm căn cứ để xác định mức thu nhập được bảo hiểm. Mặt khác đối tượng BHXH hay mức thu nhập được bảo hiểm là công cụ để nhầ nước giám sát , kiểm tra, điều tiết trên giác độ quản lý vĩ mô đối với BHXH và quản lý lao động trong nền kinh tế quốc dân.
2.2.Đối tượng tham gia BHXH:
Đối tượng tham gia quan hệ BHXH gồm có: người thực hiện bảo hiểm, người tham gia bảo hiểm, người được bảo hiểm. T uy vậy, tuỳ theo điều kiện phát triển kinh tế xã hội của mỗi nước mà đối tượng này có thể là tất cả hoặc một bộ phận những người lao động nào đó.
Vào những năm đất nước ta bắt đầu có sự đổi mới trong cơ chế quản lý: từ một kinh tế tập trung, bao cấp sang nền kinh tế thị trường nhiều thành phần, có sự điều tiết của nhà nước theo định hướng XHCN đã đánh dấu bước phát triển mới sự nghiệp BHXH ở nước ta đó là: về phạm vi, đối tượng tham gia BHXH đã được mở rộng từ chỗ trước đây chỉ áp dụng cho cán bộ, công nhân, quân nhân làm việc trong khu vực nhà nước và lực lượng vũ trang nay đã được mở rộng ra các đối tượng người làm công hưởng lương ở các đơn vị, tổ chức kinh tế thuộc mọi thành phần kinh tế. Và đồng thời có sự sửa đổi, bổ xung ở điều 3 trong số 12/CP tháng 1/1995 của Chính Phủ :’’ đối tượng áp dụng BHXH bắt buộc với người lao động làm việc theo hợp đồng lao động có thời hạn từ đủ 3 tháng trở lên và hợp đồng kjhông xác định thời hạn trong các DN, cơ quan, tổ chức đều phải đóng BHXH’’
Các thành viên tham gia quan hệ BHXH có mối mối quan hệ mật thiết với nhau. Việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của các bên được đặt trong mối quan hệ thống nhất với nhau. Song, cũng như bất cứ một quan hệ pháp luật nào, trong quá trình phát sinh, tồn tại của quan hệ BHXH giữa các chủ thể không tránh khỏi sự bất đồng với nhau dẫn đến tranh chấp. Nếu sự tranh chấp giữa người lao động với người sử dụng lao động thì giải quyết theo qui định về giải quyết tranh chấp lao động. Nếu tranh chấp giữa người lao động, người sử dụng lao động với cơ quan BHXH thì giả quyết theo qui chế của tổ chức BHXH. Và mối quan hệ có sự ràng buộc lẫn nhau này cũng chính là đặc trưng riêng của BHXH. Nó quyết định sự tồn tại, hoạt động và phát triển của BHXH một cách ổn định và bền vững.
3.Các điều kiện hưởng BHXH và mức trợ cấp BHXH:
3.1.Các điều kiện hưởng BHXH:
Điều kiện BHXH là cơ sở pháp lý để được hưởng BHXH. Các điều kiện BHXH có vai trò quan trọng trong hệ thống BHXH, nó không chỉ là cơ sở pháp lý để hưởng BHXH, mà còn là công cụ điều tiết của nhà nước để đảm bảo cho phù hợp giữa các chế độ BHXH, giữa người lao động và người không lao động hưởng BHXH.
Hệ thống các điều kiện BHXH gồm: tuổi đời, mức độ suy giảm hoặc mất khả năng lao động, và thời gian tham gia BHXH trong đó chế độ hưu trí và chế độ mất sức lao động được coi là những điều kiện chủ yếu và hết sức quan trọng .
3.2.Mức trợ cấp:
Trợ cấp BHXH là số tiền mà người lao động nhận được từ cơ quan BHXH hoặc thêm vào phần thu nhập bị mất hoặc bị giảm do mất khả năng lao động .
Trợ cấp BHXH có 2 loại: trợ cấp thường xuyên và trợ cấp một lần. Và cơ sở để xác định mức trợ cấp BHXH được xây dựng dựa trên cơ sở mức sống dân cư và mức lương tối thiểu , các thang ,bảng trợ cấp BHXH được xây dựng dựa trên thời gian công tác, mức độ suy giảm khả năng lao động. Trong đó, khống chế mức trợ cấp hưu trí và mất sức lao động tối đa và tối thiểu.Trên những cơ sở này, mức trợ cấp cụ thể của từng người được huởng, được tính toán xác định bằng một tỷ lệ so với mức tiền lương cá nhân.
4.Quĩ BHXH và cơ chế quản lý:
*Về Quĩ BHXH:
Quĩ BHXH được huy động trên cơ sở trích nộp theo tỷ lệ phần trăm so với tổng quĩ lương của cơ quan xí nghiệp vào NSNN, ở các đơn vị hành chính sự nghiệp, phần trích nộp này do nhà nước đảm nhiệm, còn ở các đơn vị kinh doanh phần này được tính vào giá thành sản phẩm.Như vậy, cá nhân, công nhân viên chức không phải đóng góp gì cho quĩ này.
Về tính chất quĩ BHXH không chỉ là một quĩ an toàn về tài chính nhằm đối phó với những rủi ro mang tính ngẫu nhiên hoặc mất khả năng lao động, mà quĩ BHXH còn là một quĩ tiêu dùng, là bộ phận cấu thành của hệ thống phân phối thu nhập quốc dân, làm nhiệm vụ phân phối hoặc phân phối lại thu nhập cho người lao động. Là một quĩ tích luỹ đồng thời đồng thời là quĩ tiêu dùng trên cơ sở tuân theo qui luật phân phối theo lao động, ở một mức độ nhất định theo nguyên tắc tương đương, đồng thời phải tham gia điều chỉnh cần thiết giữa nhu cầu và lợi ích.
*Về cơ chế quản lý :
Khi mới ban hành điều lệ, quĩ BHXH và nói chung toàn bộ sự nghiệp BHXH do công đoàn quản lý.Nhưng theo cơ chế mới trong nghị định số 43/CP của chính phủ ra ngày 22/6/1993 qui định quĩ BHXH là quĩ độc lập,. Tập trung nằm ngoài NSNN do: người sử dụng lao động góp 15% quĩ lương, người lao động góp 5% tiền lương, trợ cấp của nhà nước, ngoài ra còn dược bổ xung thêm phần lãi suất do đầu tư mang lại và cá tổ chức quốc tế, các nhà hảo tâm đóng góp .
Như vậy, quĩ BHXH là một bộ phận nằm trong NSNN gồm 2 phần do 2 cơ quan quản lý nhưng được thực hiện theo cơ chế chung-cơ chế tập trung bao cấp. Hoạt động của quĩ BHXH thực hiện theo kiểu dư đoán và cấp phát ngân sách theo thực tế phát sinh BHXH giữa phần thu và chi của quĩ luôn không cân đối, bội chi ngày càng lớn và do ngân sách phải cấp bù giữa 2 phần của quĩ do 2 cơ quan quản lý không có quan hệ gì với nhau và không thể điều tiết lẫn cho nhau nên trên thực tế trở thành 2quĩ độc lập.
III.CÁC CHẾ ĐỘ BHXH và Ý NGHĨA :
Các chế độ BHXH:
Hệ thống BHXH ở nước ta hiện nay bao gồm: BHXH đối với công nhân, công nhân viên chức nhà nước và mọi người lao động theo loại hình bắt buộc (được qui định trong nghị định 12/CP ngày 26/1/1995, và BHXH đối với sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp , hạ sĩ quan, binh sĩ quân đội nhân dân và công an ND (được qui định trong nghị định 45/CP ngày 15/7/1995.Hai hệ thống nói trên về cơ bản có nhiều điểm chung như nguyên tắc thực hiện BHXH, điều kiện căn cứ hưởng BHXH….Tuy nhiên, do lao động cua lực lượng vũ trang là một loại lao động đặc biệt nên pháp luật thường qui định với sự ưu đãi nhất định đối với quyền lợi, chế độ của người lao động thuộc lực lượng vũ trang .
Trong hệ thống các chế độ BHXH nước ta hiện nay đang thực hiện gồm các chế độ sau: chế độ trợ cấp ốm đau; chế độ trợ cấp tan nạn lao động, bệnh nghề nghiệp; chế độ trợ cấp thai sản; chế độ hưu trí; chế độ tử tuất.( Ngoài ra trong bộ luật sữa đổi 2002, bướa đầu đã qui định thêm chế độ bảo hiểm thất nghiệp )
Chế độ trợ cấp ốm đau:
Người lao động nghỉ việc vì ốm đau, bị tai nạn rủi ro (không phải tai nạn lao động) được khám bệnh và điều trị tại các cơ sở y tế theo chế độ BHYT và được hưởng trợ cấp ốm đau thay tiền lương nếu có chứng nhận hợp pháp cơ quan y tế có thẩm quyền chế độ trợ cấp ốm đau cũng được áp dụng với lao động nữ có con thứ nhất,thứ hai (kể cả con nuôi theo hợp pháp) hoặc trường hợp đặc biệt có con thứ 3 (theo qui định cua phấp luật) dưới 7 tuổi bị ốm đau có giấy xác nnhận hợp pháp cua cơ quan y tế. Trong một số trường hợp, chế độ này cũng được áp dụng với cả người bố.
Chế độ trợ cấp ốm đau không áp dụng đối với những trường hợp nghỉ việc do tự huỷ hoại sứu khoẻ, do đánh nhau, do say rượu ….
Thời gian hưởng trợ cấp và mức trợ cấp ốm đau phụ thuộc vào điều kiện làm việc, mức và thời gian đóng phí BHXH.
Chế độ trợ cấp tai nạn lao động , bệnh nghề nghiệp :
Tai nạn la động là tại nạn làm ảnh hhưởng tới sức khoẻ, tính mạng hoặc l tổn thương bất kì bộ phận, chức năng nào của cơ thể làm người lao động và xảy ra trong quá trình lao động gắn liền với việc tục hiện công việc, nhiệm vụ lao động.
Theo một số qui định trước đây, trong một số trường hợp bất khả kháng, tình thế cấp thiết tai nạn xảy ra không liên quan đến việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ lao động cũng được coi là tai nạn lao động (cứu người, cứu tài sản của nhà nước…..).
Bệnh nghề nghiệp là bệnh phát sinh do tác động của điều kiện lao động có hại đối với người lao động. Bệnh nghề nghiệp chỉ phát sinh và bắt nguồn từ quá trình làm việc mà thường xuyên phải tiếp xúc với môi trường có yếu tố độc hại của nghề đó.Như vậy không phải bất cứ bệnh nào cũng coi là bệnh nghề nghiệp. Danh mục bệnh nghề nghiệp do Bộ y tế qui định .
Người lao động khi bị tai nạn lao động hay bệnh nghề nghiệpđược hưởng trợ cấp bằng 100% tiền lương trong thời gian điều trị và được cấp chi phí khám, chữa bệnh.
Sau thời gian điều trị, khi thương tật ổn định, người lao động bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp được giám định y khoa có thẩm quyền. Tuỳ theo mức độ suy giảm khả năng lao động mà người lao động được hưởng trợ cấp hàng tháng. Đối với người lao bị tai nạn lao động, bẹnh nghề nghiệp mà bị tổn thương các chức năng hoặt động của cơ thể(chân, tay, mắt…)được cấp một lần các phương tiện trợ giúp cho sinh hoạt phù hợp với các tổn thất của cơ quan chức năng. Khi vết thương tái phát, nngười lao động được chữa trị và giám định lại thương tật.
Người lao động chết khi xảy ra tai nạn lao động hoặc do bệnh nghề nghiệp thì gia đình đựoc hươngr chế độ tử tuất và được trợ cấp thêm một lần trên cơ sở số tiền lương tối thiểu theo qui định của pháp luật.
1.3.Chế độ trơ cấp thai sản :
Lao động nữ là một loại lao động đặc thù, bởi vì người phụ nữ ngoài việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ lao động, họ còn đảm nhận một chức năng không ai thay thế là sinh đẻ và nuôi con.
Do đó, khi sử dụng lao đọng nữ, bên cạnh việc tuân thủ các qui địng chung về sử dụng lao động. Pháp luật còn có những qui định riêng để sử dụng lao động phù hợp với đặc điểm về cơ thể, sinh lý và chức năng làm mẹ của người phụ nữ.
Trong lĩnh vực BHXH, các chế độ đối với lao động nữ khi thai sản nhằm trợ giúp, bổ xung sự thăng băng trong thu nhập và đảm bảo sức khoẻ cho người phụ nữ khi chức năng làm mẹ. Chế độ trợ cấp thai sản áp dụng cho người lao động nữ sinh con thứ nhất thư hai. Nội dung chế độ thai sản bao gồm: thời gian nghỉ trước và sau khi sinh con, thời gian nghỉ đi khám thai, sẩy, nạo thai, thời gian đối với người nuôi con hợp pháp, thời gian nghỉ theo thoả thuận. Trong toàn bộ thời gian nghỉ nói trên, người lao động nữ được hưởng trợ cấp bằng 100% tiền lương (trừ thời gian nghỉ theo thoả thuận).
1.4.Chế độ hưu trí :
Người lao động tham gia quan hệ lao động được hưởng chế độ hưu trí hàng tháng khi họ đạt đến một độ tuổi nhất định và với thời gian tham gia BHXH theo qui định của pháp luật. Độ tuổi hưu trí và độ dài thời gian tham gia bảo hiểm để hưởng chế độ hưu trí hàng tháng được pháp luật qui định khác nhau dựa trên cỏ sở của điều kiện và mức độ lao động.
Chế độ đối với người hưởng trợ cấp hưu trí hàng tháng bao gồm: trợ cấp hưu trí một lần trước khi nghỉ hưu và lương hưu hàng tháng. Mức trợ cấp cũng như mức lương hưu pháp luật qui định dựa trên cơ sở thời gian tham gia BHXH.
Đối với người lao động không đủ điều kiện hưởng chế độ hưu trí hàng tháng, nếu có đủ diều kiện theo qui định của pháp luật sẽ được hưởng trợ cấp hưu trí một lần .
1.5.Chế độ tử tuất:
Chế độ này áp dụng đối với người lao động đang tham gia quan hệ lao động cũng như những người lao động đã chấm dứt quan hệ lao động nhưng đang hưởng trợ cấp BHXH mà bị chết. Nội dung chế độ này bao gồm chế độ mai táng phí và chế độ trợ cấp tiền tuất. Chế độ mai táng phí là khoản là khoản trợ cấp cho người lo việc chôn cất, mai táng cho người chết. Mức độ trợ cấp do pháp luật qui định. Chế độ trợ cấp tiền tuất là chế độ áp dụng cho nhân thân, gia đình người lao động bị chết khi họ có một khoảng thời gian nhất định tham gia BHXH. Tuỳ theo nguyên nhân của việc người lao động chết mà họ được hưởng chế độ tuất hàng tháng hay chế độ tuất một lần. Mức trợ cấp hàng tháng và một lần do pháp luật qui định.
2.Ý Nghĩa của các chế độ BHXH:
Qua hơn 30 năm thực hiện đã có rất nhiều van bản sữa đổi và bổ xung, nhưng kết quả cho thấy BHXH ở nước đã có những thành công nhất định và ngày càng phát triển, nó có ý nghĩa rất to lớn đối với các bên tham gia BHXH, nó giúp cho cuộc sống của người lao động đi vào ổn định, giúp cho nền kinh tế và xã hội của nước ta ngày vững chắc so với các nước trên thế giới.
2.1.Ý nghĩa của các chế độ BHXH đối nền kinh tế xã hội:
Từ khi nước ta thực hiện chính sách, cơ chế hoạt động BHXH mới, có bước chuyển đổi cơ bản phù hợp với sự thay đổi cơ chế quản lý từ một nền kinh tế tập trung bao cấp sang kinh tế thị trường nhiều thành phần có sự điều tiết của nhà nước theo địng hướng XHCN, kết quả cho thấy đã giải quyết được những vấn đề cơ bản, có tác dụng nhiều mặt trong việc đảm bảo an toàn xã hội, có ý nghĩa quan trọng trong phát triển kinh tế xã hội. Chính sách BHXH đã thực sự trở thành công cụ để thực hiện xã hội hoá các hoạt động xã hội từng bước giảm dần sự bao cấp của NSNN, thông qua việc xác lập trách nhiệm đóng góp chủ sử dụng lao động và người lao động có sự bảo hộ của nhà nước, dần hình thành quĩ hoạt động độc lập với NSNN quĩ BHXH ngoài đảm bảo các khoản chi, phần “nhàn rỗi “ thông qua các hoạt động đầu tư, bảo tồn tăng trưởng đã trở thành nguồn quan trọng tham gia vào thị trường vốn, góp phần đầu tư tăng trưởng kinh tế. Tính đến cuối năm 2002, quĩ BHXH đã đầu tư theo kế hoạch của nhà nước 25000 tỷ đồng gồm có: mua trái phiếu, công trái, cho NSNN vay, cho các NHTM vay, tổng lãi thu qua các năm đã bổ xung cho quĩ là gần 4tỷ đồng .
Chính sách BHXH đã thể hiện rõ sự tiến bộ xã hội và công bằng trên nguyên tắc “lấy số đông bù số ít”, “có đóng có hưởng”.Cơ chế tổ chức, quản lý các hoạt động BHXH đã được thiết lập thành một hệ thống tập trung, thống nhất từ trung ương tới địa phương, giải quyết được những vướng mắc chồng chéo giữa các chức năng quản lý sự nghiệp. Chính sách BHXH đã đi vào cuộc sống, tạo niềm tin cho cán bộ, công chức và người lao động góp phần đẩy mạnh sự phát triển mang đến sự ổn định cho toàn bộ nền kinh tế chính trị quốc gia.
2.2.Ý nghĩa của các chế độ BHXH đối với người tham gia BHXH:
Như chúng ta đã biết, BHXH có ý nghĩa rất quan trọng đối với nền kinh tê xã hội, nhưng bên cạnh đó BHXH còn ý nghĩa lớn đối với những người tham gia BHXH đó là: cán bộ, công nhân viên chức nhà nước nói chung và những người sử dụng lao động và người lao động nói riêng.
Trước hết đối với những cán bộ CNVC nhà nước và người lao động thì chế độ BHXH có ý nghĩa góp phần đảm bảo quyền và lợi ích cá nhân, tạo cho họ một khoản thu nhập để trang trải trong trường hợp không may có rủi ro xảy ra, giúp họ phần nào ổn định đời sống của bản thân và gia đình mình .
Còn đối với người sử dụng lao động tham gia chế độ BHXH có ý nghĩa giúp họ giàn trải những khoản tiền lớn mà họ không muốn bỏ ra cùng một lúc trong trường hợp người lao động gặp rủi ro hàng loạt. Bên cạnh đó người sử dụng lao động thấy khi tham gia BHXH họ có lợi và được bảo, việc sản xuất kinh doanh diễn ra bình thường, tránh được những mâu thuẫn giữa chủ-thợ nguyên nhân gây ra những xáo trộn không cần thiết mà có ảnh xấu tới việc phát triển doanh nghiệp. Mặt khác BHXH còn là trung gian gắn bó lợi ích giữa người lao động với người sử dụng lao động, giữa người sử dụng lao động với nhà nước.
Như vậy, dưới sự lãnh đạo của Đảng ta, chính sách BHXH đã trở thành một chính sách xã hội quan trọng của hệ thống an sinh xã hội, góp phần đảm bảo an toàn đời sống của cán bộ công chức, người lao động, góp phần tích cực vào công cuộc bảo vệ và xây dựng đất nước.
IV.TÌNH HÌNH THI HÀNH CHẾ ĐỘ BHXH TẠI DN DỆT MAY
VÀ GIẢI PHÁP
Theo qui định của pháp luật BHXH hiện hành không có sự phân biệt về chính sách đối với các DN thuộc các thành phần kinh tế, mọi DN đều có nghĩa vụ như nhau về BHXH đối với người lao động và người lao động trong các DN đều có quyền lợi như nhau về BHXH.Tuy nhiên các DN thuộc diện tham gia BHXH phải thực hiện nghĩa vụ BHXH(đóng BHXH cho người lao động. Qua điều tra cho thấy có khoảng 61% số DN thực hiện đóng BHXH cho người lao động. Xét trong các loại hình DN thì 100% công ty, DN thuộc nhà nước và công ty cổ phần thực hiện đầy đủ nghĩa vụ nộp BHXH cho người lao động và công ty Dệt May Hà Nội là một trong những công ty đó. Nhưng do tính đặc thù của công ty Dệt May là có sử dụng nhiều lao động nữ nên trong quá trình thực hiện chính sách nàyvẫn có nhiều vấn đề đặt ra và cần phải có những giải pháp đúng đắn để người lao động có thể được hưởng một cách tối đa quyền và lợi ích của mình.
1.Tình hình thi hành chế độ BHXH tại DN:
Xét về đối tượng đối tượng tham gia BHXH và việc thi hành 5 chế độ BHXH, thì công ty Dệt May Hà Nội đã thực hiện theo đúng qui định của pháp luật. Từ phía người lao động họ đã có ý kiến rằng:” công ty có đảm bảo cho họ được hưởng đầy đủ các chế độ BHXH, tuy nhiên vẫn còn một số vấn đề cần được quan tâm hơn trong các chế dộ BHXH dành riêng cho lao động nữ, vì số lượng lao động nữ ở cong ty chiếm phần đa ví dụ như chế độ trợ cấp thai sản, chế độ trợ cấp ốm đau…. Bên cạnh đó họ còn mong muốn ban tổ chức quản lý công ty quan tâm hơn đến điều kiện lao động của họ.
*Chế độ trợ cấp ốm đau:
Theo ở điều 6 số 12/CP của chính phủ thì Cty Dệt May Hà Nội đã thực hiện tương đối đúng qui định của pháp luật. Đa số người lao động đều được hưởng mọi quyền lợi được do chế độ trợ cấp ốm đau mang lại, từ việc được nghỉ đi khám bệnh tới việc điều trị tại các cơ sở y tế hay việc được hưởng trợ cấp ốm đau thay tiền lương khi có chứng nhận hợp pháp của cơ quan y tế có thẩm quyền. Trường hợp con cái hoặc bố ốm họ cũng có quyền được nghỉ làm theo đúng qui định, trong việc thực hiện chế độ này công ty Dệt May đã đem lại khá nhiều niềm tin và sự an tâm cho người lao động,tuy nhiên vẫn còn một số vấn đề xuất phát từ phía người lao động và các cơ quan y tế có thẩm quyển đó là vẫn còn trường hợp gian lận trong giấy xác nhận ốm đau, nguyên nhân của bệnh tật không đúng với thực tế, điều này đôi khi đã gây những nghi ngờ cho ban lãnh đạo công ty dẫn đến điều đáng tiếc xảy ra trong mối quan hệ chủ thợ. Đây là tình trạng cần phải được khắc phục và có sự hợp tác của nhiều bên để tránh những việc không cần thiết phải xảy ra.
*Chế độ trợ cấp tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp:
Theo như qui định ở điều 6 “Sau khi điều trị ổn định thương tật người sử dụng lao động có trách nhiệm sắp xếp công việc phù hợp cho người bị tai nạn lao động và được tổ BHXH giới thiệu đi giám định khả năng lao động tại hội đồng giám định y khoa theo qu định của bộ y tế”. Nhưng có một số trường hợp đã xảy ra do sự thiếu tránh nhiệm trong ban lãnh đạo của DN như: người lao động sau khi bình phục đến công ty để nhận việc nhưng lại không đuợc chấp nhận hoặc phải nhận những công việc không đúng chuyên môn hay không phù hợp với khả năng của mình. Cũng có trường hợp người lao động chưa bình phục hẳn nhưng vẫn bị gọi đi làm vì công ty có nhiều đơn đặt hàng, đây là do sự thiếu tránh nhiệm và sự coi thường mạng sống của con người. Bên cạnh đó, còn có xảy ra việc làm giấy tờ và thủ tục để người nhà của người lao động chết khi bị tai nạn lao động khá khó khăn, vấn đề này đôi khi đã gây cho họ sự bất mãn, dẫn đến kiện cáo và nhièu việc không hay đã xảy ra. Đây là một vấn đề cấp bách cần được sự quan tâm của nhà nước và các cán bộ có thẩm quyền can thiệp.
*Chế độ trợ cấp thai sản:
Chế độ thai sản là một trong chính sách quan trọng của nhà nước nhằm bảo vệ sức khỏe không chỉ cho lao động nữ mà còn bảo vệ cả thế hệ tương lai. Có lẽ do vậy mà ở công ty Dệt May đã thực hiện khá tốt nghĩa vụ của mình, gần như 100% người lao động nữ khi có thai đều được hưởng đầy đủ các chính sách thai sản bao gồm: nghỉ khám thai, nghỉ sinh con, nghỉ khi có thai đến tháng thứ 7, nghỉ để thựchiện kế hoặch hoá gia đình. Đây là một điều đáng để chúng ta tuyên dương lệ và khích lệ đối với công ty Dệt May vì hiện nay số DN hoặc các côngty tư nhân khác thực hiện đúng theo qui định cuả nhà nước khá ít ỏi, đôi khi mang đến cho người lao động nhiều sự thiệt thòi không đáng có.
*Chế độ hưu trí:
Theo qui định hiện hành, tuổi nghỉ hưu của nam là 60 tuổi và nữ là 55 tuổi (trong điều kiện lao động bình thường). Ban lãnh đạo công ty có thực hiện đuúng nghĩa vụ của mình, tuy nhiên họ cho rằng qui định hiện nay chưa phù hợp và có đưa ra ý kiến của mình như sau:
+) Đối với lao động gián tiếp: Tuổi nghỉ hưu nên qui định bằng nhau đối với lao động nữ và lao động nam vì đây là nghành dệt may, không đòi hỏi lao động nặng mà chỉ là đòi hỏi tính chuyên môn cao.
+) Đối với lao động trực tiếp SX thì nên qui định tuổi nghỉ hưu của nữ thấp hơn nam là 5 tuổi.
Và Ban lãnh đạo công ty thì họ rất mong muốn được thực hiện chế độ hưu trí theo ý kiến của mình đưa ra, họ nghĩ rằng đấy là độ tuổi về hưu thích hợp với cả lao động nữ và lao động nam trong nghành dệt may hiện nay.
*Chế độ tử tuất:
Thực hiện đúng qui định của pháp luật, 100% số người lao động trong công ty đều được hưởng mọi trợ cấp của chế độ này như: chế độ mai táng phí và chế độ cấp tiền tuất.Tuy nhiên dệt may là một nghề khá nhẹ nhàng đối với lao động nữ, không có sự nguy hiểm đến tính mạng, số người bị chết do công việc gần như là không có.
Trên đây là tình hình thực hiện chế độ BHXH tại Công Ty Dệt May Hà Nội mà em đã tìm hiểu. Tuy nhiên đó chỉ là một phần nhỏ, có thể còn nhiều vấn đề mà em còn chưa tìm hiểu hết được ,nhưng với một chút hiểu biết về việc thi hành các chế độ BHXH của của Công Ty Dệt May Hà Nội em có một số kiến nghị về giải pháp ở phần trình bày sau.
2. Giải Pháp :
Như em nêu trên về thực trạng tình hình thi hành các chế độ BHXH của công ty Dệt May Hà Nội cho thấy, công ty này cũng phần nào đã thực hiện đầy đủ các chế độ BHXH mà nhà nước qui định đối với người lao động, tuy nhiên vẫn đang còn một số hạn chế cần phải khắc phục để đảm bảo được sự an toàn cho xã hội, sự no ấm cho người lao động, sự phồn vinh cho các công ty Dệt May nói riêng và cho các công ty, các DN khác nói chung. Mà các hạn chế này theo em phải có sự hợp tác từ nhiều bên thì với có thể khắc phục được, đó là các giải pháp từ nhà nước, từ người lao động, người sử dụng lao động, ngoài ra cũng cần có sự quan tâm của các cơ quan nhà nước như : các cơ quan bảo hiểm , các đơn vị y tế….
*Kiến nghị giải pháp từ Nhà Nước :
Vì nhà nước đảm nhiệm các chức năng quản lý vĩ mô đối với BHXH, do vậy nhà nước cần phải quan tâm nhiều hơn tới việc ban hành các chính sách pháp luật về BHXH nhằm qui định và đều chỉnh các mối quan hệ lớn, các vấn đề cơ bản về các ngưỡng quan trọng của các chế độ BHXH, tổ chức và bảo hộ hệ thống BHXH của quốc gia, thanh tra và kiểm tra nhà nước đối với các hoạt động của hệ thống BHXH của các DNNN cũng như các DNTN. Sớm ban hành luật BHXH và văn bản qui phạm pháp luật về công tác BHXH tạo cơ sở pháp lý cơ bản để thực hiện công tác BHXH, có qui định đầy đủ và chặt chẽ các chế tài xử phạt trong việc thực hiện chính sách BHXH cho cơ quan BHXH khi phát hiện có sự vi phạm về việc thực hiện chính sách BHXH.
Mặt khác về cơ cấu các chế độ, ngoài 5 chế độ BHXH theo nghị định 12/CP mà chính phủ đã qui định, cần sớm nghiên cứu ban hành thêm chế độ trợ cấp thương tật một cách rõ ràng để BHXH đối mọi trường hợp thương tật ngoài tai nạn lao động và chế độ BHXH đối với tường hợp mất việc làm. Vì hiện tượng nất việc làm là một hiện tượng khách quan xảy ra nền kinh té thị trường.
*Kiến nghị giải pháp từ người sử dụng lao động :
Theo như tình hình thi hành chế độ bảo hiểm xã hội của công ty Dệt May Hà Nội , theo em vì đây là một công ty có đa số là lao động nữ lại là công ty có qui mô lớn do vậy, để tăng thêm phúc lợi cho lao động nữ công ty nên tổ chức việc đưa đón công nhân bằng xe ô tô và tổ chức các bữa ăn ca cho người lao động.
Mặt khác, do đặc điểm giới tính của lao động nữ, công ty Dệt May nói chung và các công khác nói riêng, nên thực hiện một số chế độ riêng đối với lao động nữ như đáp ứng các công trình vệ sinh, tạo cho họ có điều kiện tốt, an toàn trong quá trình làm việc.
Bên cạnh đó, công ty nên có những biện pháp từ phía các ban lãnh đạo công ty yêu cầu có qui định làm việc nghiêm túc tránh tình trạng không công bằng trong việc đối xử với công nhân, cần phải có biện cứng rắn cho mọi người bất kể người đó ở chức vụ nào để có sự nghiêm túc trong việc thi hành các chế độ BHXH nối riêng và các cong việc nói chung khác.
*Kiến nghị giải pháp từ người lao động:
Về phía người lao động, điều trước tiên đó là phải thực hiện nghiêm túc quyền và nghĩa vụ của mình, không được gian lận trong trường hợp, phải trích 5% tiền lương nộp vào BHXH theo đúng qui định của nhà nước để được hưởng một khoảm tthu nhập trong trường hợp rủi ro xảy ra. Mặt khác, với tư cách là một bên tham gia BHXH người lao động cần phải tìm hiểu về các qui định của pháp luật về các chế độ BHXH để nắm được quyền lợi và nghĩa vụ của mình, tránh trường hợp kiện cáo không lý do, có biện pháp đòi lại quyền và lợi ích của bản thân mọi trường hợp.
C. KẾT LUẬN.
Tóm lại, xét về mặt xã hội, lịch sử phát triển chính sách xã hội nói chung và BHXH nói riêng, đã xuất hiện, tồn tại qua nhiều thế kỉ trong những điều kiện chính trị, kinh tế – xã hội khác nhau và được thực hiện ở hầu hết các nước trên thế giới. Sự phát triển và mức độ hoàn thiện chính sách xã hội nói chung và BHXH nói riêng, không chỉ chi phối bởi định hướng chính trị, quan điểm của giai cấp mà còn được quyết định bởi mức độ phát triển kinh tế của xã hội, đồng thời chính sách BHXH có những tác động, ảnh hưởng trở lại đến sự ổn định và phát triển của toàn bộ nền kinh tế – xã hội, chính trị của các quốc gia. Ơ nước ta , chính sách BHXH cùng với các chế độ của nó, là một bộ phận quan trọng trong hệ thống chính sách xã hội, có tác động rất lớn vào quá trình phân phối lại thu nhập để ổn định đời sống cho cán bộ, công chức và người lao động. Thực tế ốm đau, tai nạn, rủi ro, già yếu không trừ một ai và những người lâm vào hoàn cảnh này được quỹ BHXH đảm bảo thay thế, bù đắp một phần thu nhập để ổn định cuộc sống. Với ý nghĩa đó, BHXH rất cần cho tất cả mọi người trong xã hội, bất luận giàu hay nghèo, địa vị xã hội cao hay thấp và mặc dù trong quá trình thực hiện các chế độ BHXH còn khá nhiều những hạn chế, những khó khăn như trường hợp chúng ta đã thấy trong quá trình thi hành các chế độ BHXH của Công ty Det May Hà Nội mà rất cần có sự quan tâm, can thiệp của Nhà nước nhưng dưới sự lãnh đạo của Đảng ta chính sách BHXH đã trở thành một trong những chính sách xã hội quan trọng của hệ thống an sinh xã hội, góp phần đảm bảo an toàn đời sống của cán bộ, công chức, người lao động và gia đình họ, góp phần tích cực vào công cuộc bảo vệ và xây dựng đất nước.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Giáo trình Bảo hiểm trường Đại học Kinh tế quốc dân.
Nghị định số 12/CP của Chính phủ.
Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VII
Mac - Ăng ghen tuyển tập 2, Nhà xuất bản Sự thật Hà nội năm 1962.
Tạp chí lao động và xã hội số 8 năm 1991.
MỤC LỤC
A. Lời mở đầu 1
B. Nội dung 3
I. Một số quan niệm về bảo hiểm xã hội 3
1. Khái niệm về BHXH 3
2. Tính chất của BHXH 3
II. Nội dung của chế độ bảo hiểm 5
1. Các chế độ BHXH được tạo thành bởi các điều kiện BHXH cùng với các mức trợ cấp bảo hiểm 5
2. Đối tượng của BHXH và đối tượng tham gia BHXH 6
3. Các điều kiện hưởng BHXH và mức trợ cấp BHXH 8
4. Quĩ BHXH và cơ chế quản lý 9
III. Các chế độ BHXH và ý nghĩa 10
1. Các chế độ BHXH 10
2. Ý nghĩa của các chế độ BHXH 13
IV. Tình hình thi hành chế độ BHXH tại doanh nghiệp dệt may và giải pháp 15
1. Tình hình thi hành chế độ BHXH tại doanh nghiệp 16
2. Giải pháp 19
Kết luận 22
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- anh123.docx