Triết học là bộ phận không thể thiếu của đời sỗng xã hội, và lực lượng sản xuất cũng là một yếu tố hết sức quan trọng trong việc phát triển kinh tế của bất kì một quốc gia nào trên thế giới. Và Việt Nam cũng không phải là một ngoại lệ. Từ sự nhận thức đúng đắn về mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, nước ta đã có những khởi sắc đáng kể trong nền kinh tế dưới sự lãnh đạo của Đảng và chính sách của Nhà nước. Đó là một trong những thành tựu quan trọng mà Đảng cùng nhân dân ta đã đạt được trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế như ngày nay.
Những thực tế trên đã cho thấy tầm quan trọng của quy luật “quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất”. Mốì quan hệ giữa chúng không chỉ góp phần vào việc phát triển nền kinh tế mà còn có những đóng góp to lớn cho công cuộc đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Tóm lại, quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất là hai mặt không thể thiếu của quá trình sản xuất vật chất, tạo ra sản phẩm phục vụ cho đời sông của, có mốì quan hệ chi phôi những quá trình khác trong đời sông của con người. Và nhất là quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất nếu phù hợp với nhau sẽ tạo ra tiền đề phát triển mạnh mẽ trong nền kinh tế. Hiểu dược quy luật giữa chúng là hiểu được quy luật phát triển của toàn xã hội,từ đó có những biện pháp để phát triển đát nước một cách toàn diện và mạnh mẽ.
17 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 05/01/2022 | Lượt xem: 485 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Triết học-một bộ phận không thể thiếu trong đời sông văn hóa xã hội của bất kì một quốc gia nào trên thế giới. Giông như nền tảng của xã hội, triết học không chỉ góp phần làm phát triển thêm các vấn đề về tư tưởng của con người mà nó con tham gia vào qúa trình phát triển kinh tế của nhiều quốc gia. Ớ Việt Nam cũng vậy, triết học làm tăng thêm tính khoa học cho những lý luận và quan điểm của Đảng cũng như của Nhà nước trong thời đại hội nhập như ngày nay.
Quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất là một trong những vấn đề của triết học Mac-Lênin. Không chỉ có vậy, nó còn là một trong những bốn bộ phận cấu thành nên hình thái kinh tế xã hội. Hiểu được mốì quan hệ biện chứng giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất sẽ giúp cho việc phát triển của xã hội diễn ra một cách nhanh chóng và dễ dàng hơn. Ớ nước ta, Đảng đã không ngừng nâng cao nhận thức và lý luận, áp dụng linh hoạt vào việc phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, hoàn thiện hơn nữa bộ máy lãnh đạo của Đảng đốì với toàn thể xã hội. Mục tiêu hướng tới là đưa nước ta trở thành một nước có nền công nghiệp hiện đại, khoa học kĩ thuật phát triển, năng suất lao động không ngừng tăng lên, đời sông của người dân được cải thiện.
Bài viết của em dưới đây sẽ làm sáng tỏ hơn nữa quá trình phát triển kinh tế của nước ta dựa trên sự vận dụng mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất vào tình hình kinh tế hiện nay. Có được bài viết này, cho phép em được cảm ơn sự hướng dẫn tận tình và quá trình truyền đạt những kiến thức của thầy giáo-thạc sĩ Bùi Xuân Thanh đã giúp em có được những hiểu biết về vấn đề này. Tuy nhiên, là sinh viên năm thứ nhất, em không thể tránh khỏi những thiếu sót trong quá trình thực hiện đề tài của mình. Vì vậy em rất mong được sự góp ý của thầy để em có thể hoàn thiện hơn nữa bài viết của mình. Em xin chân thành cảm ơn.
Sinh viên thực hiện.
Trần Việt Đức An
LỜI NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN
L QUY LUẬT: “QUAN HỆ SẢN XUAT phải phù hợp với tính
CHẤT VÀ TRÌNH ĐỘ PHÁT TRIEN của Lực LƯỢNG SẢN XUAT”-
NHỮNG Cơ SỞ LÝ LUẬN
Khái niêm phương thức sản xuất, lực lương sản xuất , quan hệ sản xuất.
Phương thức sản xuất.
Là cách thức con người thực hiện trong quá trình sản xuất ra của cải vật chất ở những giai đoạn phát triển nhất định của lịch sử xã hội loài người.
Mỗi xã hội được đặc trưng bởi một phương thức sản xuất nhất định. Phương thức sản xuất giữ vai trò quyết định trong hệ thông các điều kiện vật chất và tinh thần của đời sông xã hội, là biểu hiện đặc trưng cho lĩnh vực hoạt động sản xuất vật chất của con người, giữ vai trò quyết định trong các lĩnh vực sinh hoạt xã hội, chính trị vàtinh thần nói chung. Sự thay thế kế tiếp nhau của các phương thức sản xuất trong lịch sử quyết định đến sự phát triển của xã hội loài người từ thấp đến cao.
Trong sản xuất, con người có mốì ''‘quan hệ song trùng”: một mặt là quan hệ giữa người với tự nhiên, tức là lực lượng sản xuất , mặt khác là quan hệ giữa người với người, tức là quan hệ sản xuất.
Phương thức sản xuất là sự thống nhất giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất tương ứng. Vậy lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là gì?
Lực lượng sản xuất
Là biểu hiện của mối quan hệ giữa con người với giới tự nhiên. Con người với trình độ khoa học kĩ thuật, kĩ năng, kĩ xảo của mình sử dụng những công cụ lao động tác động vào giới tự nhiên nhằm cải biến những dạng vật chất của tự nhiên tạo ra những sản phẩm vật chất phục vụ cho nhu cầu của con người .Lực lượng sản xuất chính là sự thể hiện năng lực thực tiễn của con người trong quá trình sản xuất ra của cải vật chất.
Lực lượng sản xuất là sự thông nhất hữu cơ giữa người lao động đã tích luỹ (tư liệu sản xuất mà trước hết là công cụ lao động)vổi lao động sông (những người sử dụng tư liệu sản xuất để sản xuất của cải nhằm đáp ứng những nhu cầu sinh sông và phát triển của con người trong mọi xã hội.
Với cách hiểu như vậy, kết cấu của lực lượng sản xuất bao gồm những yếu tố cơ bản sau:
Người lao đông là con người biết sáng tạo, sử dung công cụ lao động để sản xuất ra những vật phẩm nhằm thỏa mãn nhu cầu nào đó của con người trong đời sống xã hội. Chính người lao động là chủ thể của quá trình lao động sản xuất. Trong quá trình sản xuất con người kết hợp sức lao động của mình với tư liệu sản xuất, trước hết là công cụ lao động tạo thành sức mạnh khai thác giới tự nhiên, làm ra sản phẩm cần thiết cho cuộc sông của mình.
Cùng với người lao động, công cụ lao động cũng là một yếu tố cơ bản cửa lực lượng sản xuất .Công cụ lao động là khí quan vật chất “nhân”sức mạnh con người trong quá trình biến đổi tự nhiên .Công cụ lao động là yếu tố động nhất trong lực lượng sản xuất, nó có vị trí quyết định trong tư liệu sản xuất .Với những sáng chế, phát minh khoa học trong một thời đại, công cụ không ngừng được cải tiến, tư liệu sản xuất mỏ rộng, đốì tượng lao động đa dạng hoá, ngành nghề mới xuất hiện dẫn đến phân công lao động xã hội ngày càng cao. Trình độ phát triển của công cụ lao động vừa là thước đo trình độ chinh phục tự nhiên của con người, vừa là tiêu chuẩn phân biệt sự khác nhau giữa các thời đại kinh tế, kĩ thuật trong lịch sử.
Đối tưựng lao động bao gồm những cái đã có sấn trong tự nhiên mà người lao động đã tác động vào nó và cả những cái đã trải qua lao động sản xuất,được kết tinh dưới dạng sản phẩm.sản xuất ngày càng phát triển ,thì con người phải tìm kiếm, sáng tạo ra những đốì tượng lao động mới, bởi những cái có sẩn trong tự nhiên ngày càng bị con người khai thác đến “cạn kiệt”
CacMac viết: “những thời đại kinh tế khác nhau không phải ỏ chỗ chúng sản xuất ra cái gì ,mà là ở chỗ chúng sản xuất bằng cách nào,với những tư liệu lao động nào” C.Mác: Tư bản, quyển thứ nhất, NXB Sự Thật, Hà Nội, 1973, t.I, tr.388
Ngày nay khoa học phát triển đến mức nó trở thành nguyên nhân trực tiếp của mọi biến đổi to lớn trong sản xuất, quản lý, điều khiển các quá trình công nghệ, tạo ra những nghành sản xuất mới ,hiện đại, những lĩnh vực kĩ thuật mũi nhọn, những phương pháp sản xuất mới, những nguồn năng lượng mới với hàng loạt vật liệu nhân tạo có tác dụng to lổn, nhiều mặt mà cuộc cách mạng khoa học, kỹ thuật ỏ những thế kỷ trước không thể có được. Với ý nghĩa to lớn đó, khoa học đang trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp của quá trình sản xuất xã hội. Chưa bao giờ tri thức khoa học được vật hoá, kết tinh, thâm nhập vào các yếu tố của lực lượng sản xuất và cả quan hệ sản xuất nhanh và có hiệu quả như ngày nay.
Lực lượng sản xuất do con người tạo ra, song nó vẫn là yếu tố khách quan, là nền tảng vật chất của toàn bộ lịch sử nhân loại. Lực lượng sản xuất được kế thừa và phát triển liên tục từ thế hệ này sang thế hệ khác. Mỗi thế hệ sinh ra đều phải thích ứng với một trình độ của lực lượng sản xuất của thế hệ trước để lại, vì lực lượng sản xuất là kết quả của năng lực thực tiễn của con người, nhưngbản thân năng lực thực tiễn này bị quyết định bởi những điều kiện trong đó người ta sông, bởi những lực lượng sản xuất đã đạt được, bởi hình thái xã hội đã có trước họ, không phải do họ tạo ra mà do thế hệ trước tạo ra.
Quan hê sản xuất.
Quan hệ sản xuất là quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất, nó bao gồm những mối quan hệ kinh tế cơ bản như: quan hệ đối với sở hữu tư liệu sản xuất, quan hệ trong tổ chức và quản lí sản xuất, quan hệ trong phân phối sản phẩm sản xuất ra .
Quan hệ sản xuất do con người tạo ra, song nó được hình thành một cách khách quan không phụ thuộc vào ý muôn chủ quan, tuỳ tiện của lực lượng sản xuất ở một giai đoạn lịch sử nhất định. c. Mác viết: “Trong sản xuất, người ta không chỉ quan hệ với giới tự nhiên. Người ta không thể sản xuất được nếu không kết hợp với nhau theo một cách nào đó để hoạt động chung và để trao đổi hoạt động với nhau. Muôn sản xuất được, người ta phải có những môi liên hệ và quan hệ nhất định với nhau; và quan hệ của họ vđi giới tự nhiên là quan hệ sản xuất”. Quan hệ sản xuất là hình thức xã hội của sản xuất; giữa ba mặt của quan hệ sản xuất thông nhất với nhau, tạo thành một hệ thống mang tính ổn định tương đốì so với sự vận động, phát triển không ngừng của lực lượng sản xuất.
Trong quan hệ sản xuất, quan hệ sỏ hữu về tư liệu sản xuất giữ vai trò quyết định các quan hệ khác. Địa vị kinh tế của các tập đoàn người trong sản xuất và trong phân phôi sản phẩm đều do chế độ sở hữu và các
hình thức chiếm hữu đốì với tư liệu sản xuất quy định. Trong lịch sử phát triển của xã hội loài người đã từng tồn tại hai loại hình sở hữu cơ bản đốì với tư liệu sản xuất :sỏ hữu tư nhân (tư hữu) và sở hữu công cộng (công hữu). Sở hữu tư nhân là loại hình sở hữu mà trong đó tư liệu sản xuất tập trung vào trong tay một sô' ít người , còn đại đa sô' không có hoặc có rất ít tư liệu sản xuất. Do đó quan hệ giữa người với người là quan hệ thống trị và bị trị, bóc lột và bị bóc lột. Sở hữu công cộng là loại hình sở hữu mà trong đó tư liệu sản xuất thuộc về mọi thành viên của công đồng. Các hình thức sở hữu đó quy định các mối quan hệ về tổ chức quản lí và phân phôi sản phẩm, quy định những nét đặc thù của quan hệ kinh tê'.
Quan hệ tổ chức và quản lý sản xuất trực tiếp tác động đến quá trình sản xuất, đến việc tổ chức, điều khiển quá trình sản xuất. Nó có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm quá trình sản xuất. Quan hệ tổ chức và quản lý sản xuất do quan hệ sở hữu quyết định và nó phải thích ứng với quan hệ sỏ hữu. Tuy nhiên có trường hợp, quan hệ tổ chức và quản lý không thích hợp với quan hệ sở hữu, làm biến dạng quan hệ sở hữu. Trong sự tác động lẫn nhau của các quan hệ cấu thành quan hệ sản xuất, quan hệ về tổ chức quản lý và quan hệ phân phôi có vai trò rất quan trọng. Quan hệ tổ chức, quản lý và quan hệ phân phôi có thể góp phần củng cô' phát triển quan hệ sản xuáí, cũng có thể làm xói mòn, biến dạng quan hệ sở hữu.
Quan hệ sản xuất mang tính ổn định tương đô'i trong bản chất xã hội và mang tính phong phú, đa dạng trong hình thức biểu hiện.
Quy luât “Quan hê sản xuất phải phù hựp vời tính chất và trình đô phát triển của lực lương sản xuất ”
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt của phương thức sản xuất, chúng tồn tại không tách rời nhau, tác động qua lại lẫn nhau một cánh biện chứng, tạo thành quy luật, tạo thành quy luật về sự phù hựp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, quy luật cơ bản nhất của sự vận động và phát triển xã hội.
Khuynh hướng chung của sản xuất vật chất là không ngừng phát triển. Sự phát triển đó xét đến cùng là bắt nguồn từ sự biến đổi và phát triển của lực lượng sản xuất, trước hết là công cụ lao động.
Ph. Angghen viết: "... giai cấp tư sản ... không thể biến những tư liệu sản xuất ấy thành những lực lượng sản xuất hùng mạnh mà lại không biến chúng thành những tư liệu sản xuất xã hội, chỉ có thể được sử dụng chung bởi một số đông người”. C.Mác và Angghen: Toàn tập, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994, t.20, tr,373
Trình độ lực lượng sản xuất trong từng giai đọan lịch sử thể hiện trình độ chinh phục tự nhiên của con người trong giai đoạn lịch sử đó. Trình độ lực lượng sản xuất biểu hiện ở trình độ của công cụ lao động, trình độ, kinh nghiệm và kĩ năng lao động của con người, trình độ tổ chức và phân công lao động xã hội, trình độ ứng dụng khoa học vào sản xuất. Trình độ phân công lao động biểu hiện trình độ của lực lượng sản xuất ở một giai đoạn nhất định của lịch sử sản xuất vật chất.
Gắn liền với một trình độ của lực lượng sản xuất là một tính chất của lực lượng sản xuất. Một tình trạng nhất định của lực lượng sản xuất nói lên cả tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Khi còn sản xuất với những công cụ thủ công, lực lượng sản xuất mang tính chất cá nhân. Nó thể hiện tính chất của tư liệu sản xuất là sử dụng công cụ thủ công và tính chất lao động là riêng rẽ, tách rời nhau. Khi sản xuất bằng máy ra đời, lực lượng sản xuất mang tính chất xã hội hóa. Nó thể hiện tính chất của tư liệu sản xuất là sử dụng máy móc và tính chất của lao động là do nhiều người sử dụng tư liệu sản xuất ấy theo kiểu phân công mỗi người một bộ phận; sản phẩm làm ra là kết quả hiệp tác của nhiều người. Chỉ đến nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, lực lượng sản xuất mới đạt tới tính chất xã hội hóa.
Sự vận động, phát triển của lực lượng sản xuất quyết định và làm thay đổi quan hệ sản xuất cho phù hợp với nó. Đó là sự kết hợp đúng đắn giữa các yểu tô' cấu thành quan hệ sản xuất; giữa quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất đem lại những phương thức liên kết có hiệu quả cao giữa người lao động vổi tư liệu sản xuất. Khi một phương thức sản xuất mới ra đời, khi đó quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất cũng ra đời theo. Sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là một trạng thái mà trong đó quan hệ sản xuất là “hình thức phát triển” của lực lượng sản xuất. Trong đó, tất cả các mặt của quan hệ sản xuất đều “tạo địa bàn đầy đủ” cho lực lượng sản xuất phát triển. Điều này có nghĩa là, nó tạo điều kiện sử dụng và kết hợp một các
tối ưu giữa người lao động với tư liệu sản xuất và do đó lực lượng sản xuất có cơ sở để phát triển hết khả năng của nó.
Quan hệ sản xuất được hình thành, đựợc biến đổi, phát triển dưới ảnh hưởng quyết định của lực lượng sản xuất
Sự phát triển của lực lượng sản xuất đến một trình độ nhất định làm cho quan hệ sản xuất từ chỗ phù hợp trỏ thành không phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất. Lúc này, quan hệ sản xuất trở thành “xiềng xích”của lực lượng sản xuất, kìm hãm lực lượng sản xuất phát triển. Yêu cầu khách quan của sự phát triển lực lượng sản xuất tất yếu dẫn đến sự thay thế quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mđi phù hợp với trình độ phát triển mới của lực lượng sản xuất để thúc đẩy lực lượng sản xuất tiếp tục phát triển. Thay thế quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới cũng có nghĩa là phương thức sản xuất cũ mất đi, phương thức sản xuất mới ra đời thay thế.
Khi lực lượng sản xuất ở trình độ thấp, công cụ lao động còn thô sơ thì quan hệ sản xuất lúc nàylà quan hệ dựa trên chế độ công xã nguyên thủy. Nhưng với sự ra đời của công cụ bằng kim loại, thủ công với con người lao động đã biết trồng trọt và chăn nuôi, năng suất lao động ngay càng cao hơn,loài người bắt đầu sản xuất ra những sản phẩm thặng dư. Do đó quan hệ sản xuất dựa trên chế độ công xã nguyên thủy bị tan rã và thay vào đó là quan hệ sản xuất dựa trên chế độ tư hữu chủ nô ra đời. Sự xuất hiện của quan hệ sản xuất dựa trên chế độ tư hữu chủ nô bước đầu phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất lúc bấy giờ đã làm cho quan hệ sản xuất phát triển. Nhưng, loài người vẫn tiếp tục cải tiến công cụ lao động, phát triển lực lượng sản xuất; đất đai ngày càng được khai phá nhiều hơn, cùng với đó là sự xuất hiện của nhiều ngành nghề tiểu, thủ công nghiệp mới, với sự giao lưu buôn bán các sản phẩm làm ra phát triển hơn. Vì thế, quan hệ sản xuất dựa trên chế độ tư hữu chủ nô không còn phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất nữa, lúc này quan hệ xuất hiện sự đòi hỏi phải thay thế quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới dựa trên chế độ tư hữu địa chủ. Tuy nhiên lực lượng sản xuất không chỉ dừng lại ở đó. Loài người vẫn tiếp tục cải tiến công cụ lao động, phát triển lực lượng sản xuất. Khi công cụ lao động bằng máy móc ra đời cùng với lao động là những người công nhân trong các nhà máy, xí nghiệp, phân công lao động mang tính xã hội. Vì thế, quan hệ sản xuất dựa trên chê' độ tư hữu tư bản chủ nghĩa ra đời. Điều này đã đẩy nhanh sự phát triển của lực lượng sản xuất đạt tới trình độ chuyên môn hóa và xã hội hóa cao. Đến lượt nó lại mâu thuẫn gay gắtvới quan hệ sản xuất dựa trên chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa. Đê’ giải quyết mâu thuẫn này tất yếu phải xóa bỏ quan hệ sản xuất cũ và xác lập quan hệ sản xuất mổi.
Như vậy, sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là sự phù hợp trong mâu thuẫn; mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất là nội dung thường xuyên biến đổi (động) với quan hệ sản xuất là hình thức xã hội lại tương đốì ổn định (tĩnh).
Lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất, nhưng quan hệ sản xuất cũng có tính độc lập tương đối và tác động trở lại sự phát triển của lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất quy định mục đích của sản xuất, khuynh hướng phát triển của quan hệ lợi ích; từ đó hình thành một hệ thông các yếu tố thúc đẩy, hoặc kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Tác dụng đó chỉ mang tính tương đốì. Quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là động lực thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Ngược lại, quan hệ sản xuất lỗi thời lạc hậu hoặc “tiên tiến” hơn một cách giả tạo so với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất sẽ kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Với sự phát triển là tất yếu, khách quan của lực lượng sản xuất thì quan hệ sản xuất lỗi thời cuối cùng sẽ bị thay thế bằng một kiểu quan hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ phát triển mới của lực lượng sản xuất. Tuy vậy khi mâu thuẫn khách quan giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất đã bộc lộ gay gắt và đòi hỏi con người phải giải quyết nhưng con người không phát hiện ra, hoặc phát hiện mà không giải quyết được mâu thuẫn, hoặc do những sai lầm chủ quan trong quá trình giải quyết mâu thuẫn v.v.thì tác dụng kìm hãm của quan hệ sản xuất sẽ trỏ thành nhân tố phá hoại đối với lực lượng sản xuất.
Tuy nhiên, việc giải quyết mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất không phải giản đơn. Nó phải thông qua nhận thức và hoạt động cải tạo xã hội của con người. Trong xã hội có giai cấp phải thông qua đấu tranh giai cấp, thông qua cách mạng xã hội.
Chính vì thế, quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là quy luật phổ biến tác động trong toàn bộ tiến trình lịch sử nhân loại. Sự thay thế, phát triển của lịch sử nhân loại từ chế độ công xã nguyên thủy, qua chế độ chiếm hữu nô lệ, chế độ phong kiến, chế độ tư bản chủ nghĩa và đến xã hội cộng sản tương lai là do sự tác động của hệ thông quy luật xã hội, trong đó quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là quy luật cơ bản nhất.
II- VẬN DỤNG QUY LUẬT “QUAN HỆ SẢN XUAT phải phù hợp
VỚI TÍNH CHẤT VÀ TRÌNH ĐỘ CỦA Lực LƯỢNG SẢN XUAT” vào
VIỆC PHÁT TRIỂN Lực LƯỢNG SẢN XUAT ở nước ta hiện nay.
Biện chững giữa quy luật môi quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất có tác động mạnh mẽ vào sự nghiệp đổi mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Lý luận và thực tiễn cho chúng ta thấy, lực lượng sản xuất chỉ có thể phát triển khi có một quan hệ sản xuất phù hợp với nó.
Thực trạng đất nước ta trước khi Đảng tiên hành đối mời (từ năm
1986 trở về trước)
Trước năm 1986, cơ chế nền kinh tế nước ta vẫn còn quan liêu, bao cấp. Vì thế nó kìm hãm sự phát triển của nền sản xuất vật chất, tạo cho con người thói ỷ lại. Do đó, nền kinh tế nước ta lúc bấy giờ là nền kinh tế lạc hậu, trì trệ và kém phát triển.
So với các nước phát triển trên thế giới lúc bấy giờ thì nền kinh tế nước ta đã tụt hậu xa. Trước tình hình đó đặt ra cho Đảng và nhà nước ta yêu cầu cấp bách là phải có một chính sách kinh tế sao cho phù hợp với yêu cầu của thời đại và thúc đẩy được sự phát triển của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, sớm đưa nước ta thoát khỏi tình trạng kém phát triển.
Tại đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV (12/1976) đã vạch ra đường lối rằng: “đẩy mạnh công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa nưổc nhà, xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật của chủ nghĩa xã hội, đưa nền kinh tế nước ta từ sản xuất nhỏ lên thành sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, kết hợp phát triển lực lượng sản xuất với xác lập và hoàn thiện quan hệ sản xuất mớĩ” Đảng Cộng Sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần IV, nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1976, tr.32
.
Với phương châm lãnh đạo sáng suốt của Đảng, nhân dân ta đã đạt được nhiều thành tựu kinh tế đáng kể. Tuy nhiên sai lầm của Đảng ta trong quyết định này đó là chưa xác định được chặng đường đầu tiên để tiến lên
chủ nghĩa xã hội, nóng vội tả khuynh trong việc cải tạo và xây dựng chủ nghĩa xã hội (CNXH) ỏ một nước vốn có nền nông nghiệp lạc hậu trải qua mấy chục năm chiến tranh , đất nước bị tàn phá nặng nề.
Đến tháng 3/1982 tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần V của Đảng đã đề ra nhiệm vụ chủ yếu về kinh tế-xã hội trong 5 năm: “Để chuyển biến cơ bản thực trạng kinh tế phải tạo cho được một lực lượng sản xuất mới, năng suất lao động xã hội cao hơn ngay trong khi chưa có nền công nhgiệp tương đối phát triển. Đồng thời phải đảm bảo sự phù hợp giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất”.
Đại hội đã có những bước tìm tòi trên con đường đi lên CNXH, trước hết là về mặt kinh tế. Song đại hội chưa thấy được sự cần thiết phải duy trì nền kinh tế nhiều thành phần trong suốt thời kì quá độ, chưa xác định được những quan điểm cụ thể về kết hợp kế hoạch với thị trường, công tác quản lí lưu thông, phân phôi vẫn một chiều do kế hoạch nhà nước quyết định, chưa có những chính sách, giải pháp cụ thể và đồng bộ để giải phóng các lực lượng sản xuất trong nông nghiệp. Đi kèm những sai lầm trên là những quan điểm chủ quan, nóng vội, dốt cháy giai đoạn trong việc thực hiện các kế hoạch 5 năm và các cuộc cải cách. Đặc biệt là sai lầm trong cuộc cải cách giá, tiền lương được tiến hành lần 2 vào ngày 14-9-1985 đã dẫn đến tình trạng lạm phát “phi mã” trong 3 năm 1986-1988. Chính vì vậy, nhà nước đã phải lùi lại một bước , thực hiện chính sách 2 giá năm 1985. Đặc điểm của nền kinh tế nước ta lúc này là trì trệ, kém phát triển. Lực lượng sản xuất Việt Nam với trình độ chuyên môn thấp, công cụ lao động thô sơ chưa đạt đến trình độ tinh xảo, tổ chức quản lí không chặt chẽ , quy mô phân tán nhỏ hẹp. Phân phôi sản phẩm còn theo cơ chế bao cấp tràn lan. Hậu quả là tách rời con người với tư liệu sản xuất, công cụ lao động bị phá hoại một cách nghiêm trọng, đời sông người dân thấp.
Từ thực tế trên cho thấy tầm quan trọng của việc xác định đúng đắn mốì quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, quy luật chi phôi lẫn nhau của chúng. Qua đó vận dụng một cách đúng đắn và sáng tạo vào công cuộc đổi mới ở đất nước ta trong thời kì tiến lên CNXH.
2« Công cuộc đối mời từ năm 1986 đến nay.
Sự đổ vỡ của sự nghiệp xây dựng CNXH ở Liên Xô và các nước Đông Âu những năm 90 là tổn thất lổn nhất mà phong trào cộng sản gặp phải trong suốt hơn 150 năm qua. Sự đổ vỡ đó không chỉ trực tiếp đẩy hệ thông XHCN thế giới vào giai đoạn khó khăn chưa từng thấy trong lịch sử, mà quan trọng hơn đã cho thấy rõ lý luận về chủ nghĩa xã hội cồn tồn tại không ít vấn đề nan giải, liên quan đến vận mệnh của các nước XHCN còn lại nói riêng, xu thế phát triển của thế giới nói chung.
Đổi mới đất míđc theo định hướng xã hội chủ nghĩa trước hết cần xác định rằng, phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp là tiêu điểm của cuộc đấu tranh giữa định hướng XHCN và con đường tự phát đi lên CNTB, đồng thời cũng là vấn đề phức tạp nhất cả về mặt lí luận cũng như trong thực tiễn. Cuộc đấu tranh đo ngày càng gay go phức tạp, đốì với một nước từ nền kinh tế tiểu nông, lạc hậu quá độ lên CNXH như nước ta.
Vấn đề đầu tiên của định hướng XHCN trong xây dựng các quan hệ sản xuất nằm trên bình diện lý luận về các quan hệ sản xuất trong thời kì quá độ, nhất là quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN. Những quan điểm lí luận giải quyết không đúng bản chất, vai trò của các môi quan hệ giữa các thành phần kinh tế, đặc biệt là giữa kinh tế nhà nưđc và kinh tế tư bản tư nhân, cả theo hướng hữu khuynh và tả khuynh. Những lúng túng vì lệch lạc trong tư duy lý luận sẽ dẫn đến những vướng mắc trong xử lí, các quan hệ sở hữu , tổ chức quản lí, phân phôi và tiêu dùng. Nếu không giải quyết không kịp thời sẽ dẫn đến chệch hướng xã hội chủ nghĩa trong xây dựng và phát triển các quan hệ sản xuất, cần phải chú ý rằng cơ sở khoa học của định hướng XHCN trong xây dựng là nhận thức đúng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Mấc đã dự đoán được rằng bộ phận trỏ thành lực lượng sản xuất trực tiếp- cách mạng khoa học kĩ thuật. Ngày nay trước những đổi thay mạnh mẽ của các ngành khoa học, bộ phận này cần phải được mở rộng sang cả lĩnh vực công nghệ mới- cách mạng khoa học- kĩ thuật và công nghệ.
Trong công cuộc đổi mới, kể từ đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng, Đại hội đã đề ra mục tiêu cụ thể về kinh tế xã hội như sau: “xây dựng và hoàn thiện một bước quan hệ sản xuất mới phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Củng cố thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa bao gồm cả khu vực quốc doanh và khu vực tập thể một cách toàn diện, cả về chế độ sở hữu, chế độ quản lí, chế độ phân phối làm cho thành phần kỉnh tế này giữ vai trò chỉ phối trong nền kỉnh tế quốc doanh, thể hiện tính ưu việt về năng suất lao động, chất lượng sản phẩm, thu nhập của người lao động và tích lũy cho cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Bằng những biện pháp thích hợp sử dụng mọi khả năng của các thành phần kinh tế khác nhau trong sự nghiệp liên kết chặt chẽ, dưới sự chỉ đạo của thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa...” (4). Yêu cầu đặt ra là phải bố trí lại cơ cấu sản xuất, điều chỉnh lớn cơ cấu đầu tư. Xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa (XHCN), sử dụng và cải tạo đúng đắn các thành phần kinh tế. “muôn phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất đi đôi với việc bô' trí lại cơ cấu sản xuất, cơ cấu đầu tư, theo ngành và theo vùng phải xác định đúng cơ cấu thành phần kinh tế” Đảng cộng sản Việt Nam, văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần VI, nxb chính trị quốc gia , Hà Nội, 1986, tr. 125,132
Đảng cộng sản Việt Nam,Văn kiện đai hội đại biểu toàn quốc lần VI, nxb Chính trị quốc gia, Hà nội, 1991
Giải pháp này xuất phát từ tình hình thực tế của nước ta và là sự vận dụng quan điểm của Lênin “coi nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần là một vấn đề đặc trưng của thời kì quá độ. Mac Angghen cũng đã từng cho rằng “lực lượng sản xuất xét đến cùng đóng vai trò quyết định trong việc thay đổi quan hệ sản xuất và do đó thay đổi các hình thái kinh tế xã hội”. Mac đã từng viết rằng: “ những quan hệ xã hội đều gắn liền mật thiết với những lực lượng sản xuất. Do đó có được những lực lượng sản xuất mới đã thay đổi những phương thức sản xuất của mình và do đó thay đổi được phương thức sản xuất, cách kiếm sông của mình, thay đổi được tất cả quan hệ xã hội với mình” C.Mac và Angghen, toàn tập, nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,1995,tr.187
.
Chính vì thế, những chính sách cải tạo xã hội chủ nghĩa trước hết phải xuất phát từ đặc trưng cụ thể của nền kinh tế, để từ đó đề ra những chủ trương biện pháp đúng đắn.
Đảng đã chủ trương cải tạo XHCN, xây dựng XHCN phải tiến hành trên cả 3 mặt: xây dựng chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, chế độ quản lí và chế độ phân phôi xã hội chủ nghĩa. Đảng xác định rõ, tuy chế độ công hữu về tư liệu sản xuất là nền tảng của của quan hệ sản xuất mới nhưng khi chế độ quản lí và chế độ phân phôi không phù hợp thì ngay cả các tổ chức kinh tế thuộc sở hữu toàn dân, được trang bị kĩ thuật cao hơn cũng sẽ làm ăn kém hiệu quả. “Đẩy mạnh XHCN phải là mục tiêu thường xuyên, liên tục trong suốt thời kì quá độ lên CNXH với những hình thức và bước đi thích hợp làm cho quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất, luôn luôn có tác động thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất”. Phát huy mạnh mẽ động lực khoa học kĩ thuật (KHKT) trong diều kiện thế giới đang tiến nhanh vào giai đoạn mới của cuộc cách mạng KHKT . và qua tình hình thực tế nước ta càng thấy rõ sự bức bách phải làm cho KHKT trở thành một động lực to lớn đẩy nhanh quá trình kĩ thuật xã hội của đất nước. Sự lựa chọn về phương hướng KHKT phải thông nhất với sự lựa chọn về mục tiêu, phương hướng XHCN.
Trên cở sở các đường lối đúng đắn của Đại hội VI, tại đại hội VII, VIII và lần thứ IX, Đảng ta đã tiếp tục chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lí của nhà nước theo định hướng XHCN. Bên cạnh đó là tiếp tục phát triển khoa học, công nghệ, góp phần đưa trình độ của lực lượng sản xuất tiến lên một bước cao hơn.
Đối với nước ta, từ một nước nông nghiệp lạc hậu lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề, do vậy trong sự nghiệp xây dựng CHXH thì đi đôi với việc củng cố và hoàn thiện quan hệ sản xuất thì điều cần thiết nhất là phải phát triển lực lượng sản xuất. Muôn phát triển lực lượng sản xuất thì không có con đường nào khác là công nghiệp hóa (CNH), hiện đại hóa (HĐH) đất nước. Đảng đã khẳng định: “về thực chất CNH, HĐH là quá trình chuyển đổi căn bản và toàn diện các họat động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lí kinh tế, xã hội. Chuyển từ lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại dựa trên sự phát triển công nghiệp và tiến bộ khoa học công nghệ, tạo ra năng suất lao động cao”.
Đảng và nhà nước đã vận dụng một cách triệt để mốì quan hệ biên chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất để phát triển nền kinh tế nước nhà. Thấy được quy luật tác động qua lại lẫn nhau giữa chúng, và từ đó áp dụng vào tình hình thực tế của nước ta, bước đầu tạo lập được sự kết dính giữa người lao động với tư liệu sản xuất, phát triển mạnh mẽ khoa học kĩ thuật, công nghệ hiện đại và tiên tiến vào quá trình sản xuất của xã hội. Qua đó nâng cao thu nhập người dân cũng như trình độ văn hóa và dân trí cho toàn xã hội.
“Ngày nay trong điều kiện cách mạng khoa học kĩ thuật, khoa học không chỉ tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất mà còn tham gia trực tiếp vào các quá trình phát triển xã hội. Khoa học trở thành một thiết chế xã hội, một sức mạnh, một lực lượng xã hội. Không thể hiểu được gương mặt của xã hội hiện đại nếu thiếu khoa học, và xã hội hiện đại không thể phát triển được nếu không có khoa học. Khoa học, kể cả khoa học tự nhiên và khoa học xã hội đang được sử dụng để khởi thảo các kế hoạch và chương trình phát triển kinh tếvà xã hội. khoa học làm tăng sức mạnh của con người trong việc cải tạo hiện thực.” Nhận thức được tầm quan trọng của khoa học kĩ thuật trong việc phát triển nền kinh tế nước nhà, Đảng đã chủ trương phát triển khoa học kĩ thuât một cách hợp lí và qua đó nâng cao trình độ của lực lượng sản xuất. Khoa học đã góp phần lý giải và làm rõ thêm những quan điểm của Đảng về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam; làm rõ cơ sở khoa học và thực tiễn cho việc lấy chủ nghĩa Mac- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng của Đảng. Các ngành khoa học công nghệ đã gắn bó hơn với sản xuất và đời sông. Nhiều thành tựu khoa học và công nghệ mới đã được ứng dụng, góp phần quan trọng vào việc nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả trong các ngành sản xuất nông nghiệp, y tế, bưu chính viễn thông, giao thông vận tải, xây dựng, năng lượng,..., xây dựng và củng cô' quốc phòng an ninh.
Đảng đã đề ra những biện pháp phát triển tiềm lực khoa học công nghệ như sau: Đảng cộng sản Việt nam, Văn kiện hội nghị lần thứ hai Ban chấp hành trung ương Đảng khóa VII, nxb Chính trị Quốc gia, 1997, tr. 61,64
_ Xây dựng đội ngũ trí thức giàu lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội. phấn đấu đưa sô' lượng nghiên cứu khoa học và triển khai công nghệ lên gấp rưỡi so với thực tại và nâng cao hiệu quả sử dụng đội ngũ.
_ Tăng cường một bước cơ bản về cơ cở vật chất kĩ thuật cho khoa học công nghệ. Tập trung xây dựng một sô' phòng thí nghiệm đạt trình độ tiên tiến trong khu vực trên các lĩnh vực công nghệ trọng điểm, như công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu hóa dầu, năng lượng, chế tạo máy móc tự động hóa, để phát triển nhanh các lĩnh vực khoa học và công nghệ ưu tiên.
_ Lấy ứng dụng chuyển giao công nghệ là chính. Tạo được khẳ năng lựa chọn, thích nghi và làm chủ các công nghệ; đi thẳng vào các công nghệ tiên tiến nhất, trước hết ở những ngành, những lĩnh vực có tác động chi phôi nền kinh tế quốc dân, những ngành có giá trị gia tăng cao, ngành công nghiệp xây dựng mới xây dựng, ngành sản xuất sản phẩm xuất khẩu chủ lực. Đồng thời, đổi mới công nghệ từng phần, hiện đại hóa từng khâu đối với những lĩnh vực còn cơ sở vật chất-kĩ thuật và sản xuất còn hiệu quả.
Thực tế đã chỉ thấy rõ, muôn khoa học- kĩ thuật và công nghệ trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, nhất thiết phải thông qua hoạt động sáng tạo , tự giác và có tổ chức cao của con người. Bản thân khoa học- kĩ thuật và công nghệ không phải chỉ là bộ phận đơn thuần, riêng biệt của lực lượng sản xuất, độc lập với các bộ phận khác. Nó phải được con người vật hóa vào tất cả các công cụ, phương tiện, trang thiết bị, nguyên nhiên liệu của nền sản xuất. Nếu không có quá trình nhận thức đúng đắn, sáng tạo, nâng cao năng lực chuyên môn ... thì bản thân khoa học kĩ thuật và công nghệ không thể phát huy hết tác dụng, không thể trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Vấn đề dặt ra là phải không ngừng phát triển con người để có thể theo kịp với sự phát triển của khoa học kĩ thuật. Nếu không con người sẽ bị tụt hậu và trở nên khó phát triển một cách toàn diện.
Thực hiện mục tiêu chiến lược đó, Đảng và nhà nước đã không ngừng mở mang phát triển vấn đề giáo dục. Điều này được thể hiện một cách rõ nét trong chính sách của Đảng, năm 2000 chi tiêu cho giáo dục đạt 18% tổng chi ngân sách, hoàn thành phổ cập giáo dục tiểu học và xóa mù chữ. Bộ giáo dục và đào tạo đã ban hành những chính sách để khuyến khích việc phát triển và đào tạo nhân tài cho đất nước. Việc ngày càng nhiều có những học sinh đi du học nước ngoài, hay là các cơ quan nhà nước cũng tạo điều kiện cho những nhân viên có triển vọng đi đào tạo ở những đất nước có trình độ khoa học kĩ thuật tiên tiến đã cho thấy điều đó. Việc nâng cao nhận thức cho toàn thể người dân trong việc tiếp cận một cách có hiệu quả với các thành tựu của khoa học kĩ thuật cũng là một vấn đề được Đảng và Nhà nước hết sức chú trọng. Các cơ quan chức năng và cơ quan hữu quan co trách nhiệm trong việc tổ chức thực hiện và tuyên truyền, vận động toàn xã hội tham gia một cách tích cực vào công việc này.
Tuy nhiên tổng kết chặng đường thực hiện công nghiệp hóa hiện đại hóa những năm qua, Đảng cũng đã chỉ ra được những sai lầm, khuyết điểm yếu kém để hoàn thiện hơn nữa công cuộc đổi mới đất nước. Đó chính là những tư tưởng chủ quan, nóng vội đi lên hiện đại hóa trong khi chưa phát triển được một quan hệ sản xuất phù hợp với lực lượng sản xuất ngày càng phát triển. Phải phát triển một cách đồng bộ quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất, vận dụng một cách sáng tạo chủ nghĩa Mac-Lênin vào thực tiễn đất nước. Đĩ kèm theo đó là việc bồi dưỡng, đào tạo những người đủ tài đủ đức phục vụ cho đất nước. Có như vậy mới có thể đưa nền kinh tế nước ta tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc trên con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội, hoàn thành tâm nguyện của Hồ Chủ Tịch : “...nhân dân ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành...”. Với những bước đi nhanh, chắc và vững mạnh, biết tận dụng thời cơ đi tắt đón đầu, việc thực hiện những mục tiêu trên đốì với toàn thể nhân dân ta cùng với sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước sẽ được thực hiện một cách dễ dàng và nhanh chóng.
KET LUẠN
Triết học là bộ phận không thể thiếu của đời sỗng xã hội, và lực lượng sản xuất cũng là một yếu tố hết sức quan trọng trong việc phát triển kinh tế của bất kì một quốc gia nào trên thế giới. Và Việt Nam cũng không phải là một ngoại lệ. Từ sự nhận thức đúng đắn về mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, nước ta đã có những khởi sắc đáng kể trong nền kinh tế dưới sự lãnh đạo của Đảng và chính sách của Nhà nước. Đó là một trong những thành tựu quan trọng mà Đảng cùng nhân dân ta đã đạt được trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế như ngày nay.
Những thực tế trên đã cho thấy tầm quan trọng của quy luật “quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất”. Mốì quan hệ giữa chúng không chỉ góp phần vào việc phát triển nền kinh tế mà còn có những đóng góp to lớn cho công cuộc đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Tóm lại, quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất là hai mặt không thể thiếu của quá trình sản xuất vật chất, tạo ra sản phẩm phục vụ cho đời sông của, có mốì quan hệ chi phôi những quá trình khác trong đời sông của con người. Và nhất là quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất nếu phù hợp với nhau sẽ tạo ra tiền đề phát triển mạnh mẽ trong nền kinh tế. Hiểu dược quy luật giữa chúng là hiểu được quy luật phát triển của toàn xã hội,từ đó có những biện pháp để phát triển đát nước một cách toàn diện và mạnh mẽ.
MỤC LỤC
Danh mục tài liệu tham khảo
Giáo trình triết học Mac-Lênin, bộ giáo dục và đào tạo, NXB Chính trị quốc gia Hà Nội,2007
Hỏi đáp triết học Mac-Lênin, truờng đại học kinh tế TP. Hồ Chí Minh
Tìm hiểu học thuyết Mac-Lênĩn về hình thái kinh tế xã hội, NXB Chính trị Quốc gia Hà Nội, 1997
C.Mac và Angghen toàn tập, NXB Chính trị quốc gia Hà Nội, 1994
Văn kiện đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IV, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1976
Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V,NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1986
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, NXB Chính trị quốc gia Hà Nội, 1991
Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII,NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997
Văn kiện hội nghị lần 2 ban chấp hành trung ương Đảng khóa VII
Tìm hiểu triết học Mac-Lênin tập 3, NXB Chính trị quốc gia Hà Nội, 2000
Ngoài ra bài viết còn tham khảo một số tài liệu từ các trang Bachkhoatoanthu.gov.vn
Dangcongsan.vn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tieu_luan_quan_he_san_xuat_phai_phu_hop_voi_tinh_chat_va_tri.docx
- van-dung-quy-luat-quan-he-san-xuat-phu-hop-vơi-trinh-do-san-xuát-trong-nen-kinh-te-nuoc-ta.pdf